Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I : Lý luận chung về thanh toán tín dụng chứng từ 3
I.1 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế 3
II.2 Các phương thức thanh toán 7
A Phương thức chuyển tiền 7
B. Phương thức thanh toán nhờ thu 9
C. Phương thức tín dụng chứng từ 16
Chương II: Thực trạng áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh. 34
II.1 Vài nét về Ngân hàng ngoại thương – Vietcombank 34
II.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank 34
II.1.2 Tình hình hoạt động của Vietcombank trong những năm gần đây 35
II.2 Vài nét về chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh 37
II.2.1Các hoạt động kinh doanh chính của chi nhánh 38
II.3 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế băng phương thức tín dụng chứng từ 39
3.1Quy trình thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh 40
3.2Tình hình hoạt động thanh toán quôc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương tỉnh Quảng Ninh. 45
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh. 65
III.1Mục tiêu và phương hướng phát triển hoạt động thanh toán chứng từ của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh 65
III.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ 66
III.3 Một số kiến nghị 79
Kết luận 85
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán kèm chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho phép đòi tiền bằng điện.
+ L/C quy định: vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành và toàn bộ vận đơn gốc được xuất trình qua NHNT.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện, điều khoản L/C
+ Ngân hàng phát hành L/C phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế.
+ Thị trường truyền thống
+ Một số thông tin khác liên quan đến giá cả của mặt hàng xuất khẩu tại thời điểm chiết khấu
+ Thư yêu cầu bảo lãnh đề nghị chiết khấu miền truy đòi phải có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
Đối với hình thức chiết khấu truy đòi
Bộ chứng từ sẽ được ngân hàng chiết khấu truy đòi nếu có đủ những điều kiện sau
+ Ngân hàng phát hành có uy tín lớn
+ Thị trường truyền thống
+ Khách hàng có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài khoản và hoạt động thường xuyên tại NHNT
+ Khách hàng cam kết hoạt trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu trong trường hợp ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán
+ Thư yêu cầu chiết khấu truy đòi phải có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng
Sau khi xem xét các điều kiện chiết khấu và tình trạng của bộ chứng từ, thanh toán viên lập tờ trình đề xuất ý kiến chấp nhận hoặc từ chối chiết khấu, tỷ lệ chiết khấu. Trên cơ sở đề xuất của thanh toán viên, tuỳ trường hợp, phụ trách phòng xem xét và trình lãnh đạo quyết định việc chiết khấu.
Đối với chiết khấu truy đòi, nếu chứng từ phù hợp, phụ trách phong có quyền quyết định chiết khấu đối với các bộ chứng từ có giá từ 100.000USD trở xuống. Nếu vượt quá số tiền trên, phòng phải trình lãnh đạo CN. Số tiền chiết khấu luôn nhỏ hơn trị giá bộ chứng từ. Trong trường hợp bộ chứng từ không phù hợp, lãnh đạo sở mới có quyền quyết định, số tiền chiết khấu không vượt quá 90% giá trị bộ chứng từ
(7) Nếu chứng từ bị từ chối thanh toán
Thanh toán viên phải kiểm tra lý do từ chối thanh toán của ngân hàng nước ngoài, thông báo cho khách hàng về việc từ chối thanh toán để khách hàng định đoạt chứng từ, đồng thời điện ngay cho ngân hàng nước ngoài phản đối nếu việc từ chối không xác đáng.
b) Đối với thư tín dụng nhập khẩu:
(1) Phát hành thư tín dụng
Khách hàng có yêu cầu phát hành thư tín dụng phải xuất trình đầy đủ các giấy tờ nhứ: Đơn xin mở thư tín dụng, Bản sao hợp đồng ngoại thương hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương (như đơn đặt hàng), Bản sao giấy đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp (đối với những khách hàng giao dịch lần đầu), Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành (đối với những hàng nhập khẩu có điều kiện).
Sau khi tiếp nhận và kiểm tra đầy đủ sự hợp lệ của các chứng từ trên đây, thanh toán viên sẽ tiến hành kiểm tra nội dung đơn xin mở thư tín dụng với các điều kiện trong hợp đồng ngoại thương để đảm bảo không có sự mâu thuẫn trong nội dung của thư tín dụng với các điều khoản của hợp đồng.
Đối với thư tín dụng trả ngay ký quỹ 100%, thanh toán viên phải kiểm tra số tiền ký quỹ trước khi phát hành thư tín dụng. Trong trường hợp thư tín dụng được phát hành bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Ngoại thương, thanh toán viên sẽ căn cứ vào phiếu duyệt mở thư tín dụng do bộ phận Tín dụng cung cấp đã được Giám đốc ký duyệt cho vay.
Đối với thư tín dụng trả ngay miễn ký quỹ, việc xét duyệt mở thư tín dụng được tiến hành ngay tại phòng thanh toán Nhập khẩu. Ngoài các chứng từ như trên, khách hàng phải xuất trình thêm Giấy cam kết đảm bảo có đủ tiền thanh toán khi thư tín dụng đến hạn . Thanh toán viên căn cứ vào hạn mức miễn ký quỹ do hội đồng tín dụng đã duyệt (nếu có) lập tờ trình để lãnh đạo phòng hoặc lãnh đạo CN xét duyệt. Trường hợp chưa có hạn mức, có thể sẽ chuyển hồ sơ sang cho bộ phận tín dụng tiến hành thẩm định. Hồ sơ sau khi đã được duyệt, thanh toán viên sẽ tiến hành mở thư tín dụng. Khi đến hạn thanh toán, nhà nhập khẩu có trách nhiệm chuyển đủ số tiền thanh toán vào tài khoản để thanh toán viên trả tiền cho ngân hàng nước ngoài. Nếu khách hàng không đảm bảo đủ tiền thanh toán khi đến hạn, ngân hàng sẽ tiến hành cho vay bắt buộc với lãi suất 200% lãi suất cho vay hiện hành.
Đối với thư tín dụng trả chậm và bảo lãnh, thủ tục phát hành bảo lãnh và thẩm định thư tín dụng trả chậm do phòng Bảo Lãnh thực hiện. Quy trình thẩm định thư tín dụng trả chậm giống với thẩm định các loại bảo lãnh nước ngoài khác, chỉ khác ở chỗ, sau khi thẩm định, hồ sơ sẽ được chuyển xuống phòng thanh toán Nhập khẩu để mở thư tín dụng.
(2) Tiếp nhận chứng từ
Sau khi nhận được chứng từ do bộ phận văn thư giao, thanh toán viên tiến hành đối chiếu chứng từ với hồ sơ gốc. Thanh toán viên kiểm tra các chứng từ này trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ trước khi giao cho khách hàng. Nếu chứng từ phù hợp hoặc thông báo chứng từ có sai sót nhưng khách hàng vẫn chấp nhận những sai sót đó thì thanh toán viên sẽ giao chứng từ cho khách hàng. Việc giao chứng từ cho khách hàng chỉ được thực hiện khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ và các chi phí liên quan.
Với chứng từ trả chậm, nếu chứng từ phù hợp thanh toán viên yêu cầu khách hàng cam kết chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn trước khi giao chứng từ cho khách hàng, đồng thời xác nhận bằng điện ngày đáo hạn với ngân hàng nước ngoài.
Trong trường hợp thanh toán bộ chứng từ hay từ chối bộ chứng từ không phù hợp, thanh toán viên phải thực hiện trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ.
(3) Đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu
Việc đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu được thực hiện khi thư tín dụng đã được huỷ bỏ, đã thanh toán hết số dư hoặc không còn giá trị thanh toán,đã từ chối thanh toán và bộ chứng từ đã gửi trả lại cho ngân hàng gửi chứng từ. Ngoài ra, với thư tín dụng không còn hiệu lực sẽ được tự động đóng hồ sơ sau 2 tháng kể từ ngày hết hạn hiệu lực của thư tín dụng .
3.2Tình hình hoạt động thanh toán quôc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương tỉnh Quảng Ninh.
Là một trong những chi nhánh lớn của hệ thống NHNT với tuổi đời còn rất trẻ gần hai mươi năm hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, song CN ngân hàng ngoại thương tỉnh luôn là một ngân hàng mạnh trong lĩnh vực này. Thị phần hoạt động thanh toán quốc tế của CN luôn đứng đầu trong khu vực địa bàn tỉnh chiếm khoảng 30%. Tuy nhiên, những năm gần đây, kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của CN Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh giảm đi. Đây cũng là những năm khó khăn chung của thị trường thanh toán xuất nhập khẩu của nước ta. Trong giai đoạn này đánh dấu sự phát triển rất mạnh của các Ngân hàng thương mại cổ phần và sự hiện đại hóa của các ngân hàng quốc doanh khác. Những mối quan hệ quốc tế của các ngân hàng này trên thị trường được mở rộng, các giao dịch trực tiếp tăng mạnh không cần Ngân hàng Ngoại thương đứng ra làm cầu trung gian . sau đ
1.Hoạt động thanh toán quôc tế tại CN trong những năm gần đây
A.Bảng kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của CN – 2007
Chỉ tiêu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Số lượng
Giá trị (USD)
Số lượng
Giá trị (USD)
LC
49
3.612.833
220
28.571.005
Chuyển tiền
483
37.966.327
596
44.271.248
Nhờ thu
79
33.210.549
8
179.497
Nhìn vào bảng trên ta thấy tỉ trọng hoạt động thanh toán bằng LC còn nhỏ so với các phương thức khác, đó là do vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp, hiểu biết về phương thức thanh toán LC còn kém , chưa được sự tin tưởng của đối tác nước ngoài và những hạn chế của CN ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhập khẩu trong việc mở LC nên số lượng LC mở tại CN còn rất thấp chỉ có 49 bộ chiếm khoảng 5.05% doanh số thanh toán hàng nhập khẩu .
B.Bảng kết quả hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ
Đơn vị USD
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số thư TD thông báo
220
245
250
Số thư TD xuất trình
200
230
220
Doanh số thanh toán
20.742.835
34.569.197
28.571.005
Doanh số chiết khấu
3.115.937
2.411.735
2.056.785
Nhìn vào bảng B số thư tín dụng thông báo có xu hướng tăng nhưng số thư tín dụng xuất trình tại CN lại có xu hướng giảm . Khách hàng đã không lựa chọn CN là nơi xuất trình bộ chứng từ mà chọn các ngân hàng bạn, vai trò của CN chỉ dừng lại là NHTB nguyên nhân là do các ngân hàng bạn đã thu một mức phí cạnh tranh nên thu hút khách hàng,thủ tục đơn giản về phía mình vì vậy đã làm ảnh hưởng đến doanh thu của CN.Tiếp theo ta thấy doanh số chiết khấu lại liên tục giảm , tỷ lệ bộ chứng từ được chiết khấu cũng giảm dần. Điều này cho thấy hoạt động chiết khấu của CN có dấu hiệu thụt lùi . Chiết khấu chứng từ hàng xuất là một trong những hình thức tính dụng xuất nhập khẩu khá an toàn, và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân hàng, hơn nữa ngân hàng Ngoại thương lại rất có thế mạnh trong mảng thanh toán xuất khẩu, đó là lợi thế không nhỏ để phát triển hình thức tín dụng xuất nhập khẩu này. Tuy nhiên CN giao dịch vẫn chưa tận dụng được lợi thế này. Nguyên nhân là ngân hàng còn quá cẩn trọng trong hoạt động chiết khấu, chính vì vậy nhiều khách hàng muốn chiết khấu chứng từ mà không được chấp nhận. Nhiều khách hàng đã chuyển sang xuất trình chứng từ ở các ngân hàng khác. Trong những năm tới, CN cần phải có biện pháp thúc đẩy hoạt động chiết khấu chứng từ hàng xuất, bởi vì sự sụt giảm này có thể dẫn tới sự sụt giảm trong thanh toán hàng xuất, mất dần vị trí của ngân hàng trên thị trường.
C.Tình hình mở thư tín dụng tại chi nhánh
Đơn vị : USD
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm2007
Số lượng thư tín dụng mở
45
56
49
Giá trị mở thư tín dụng
2.315.655
4.483.939
3.612.833
Nhìn vào bảng ta thấy rằng số lượng thư tín dụng mở tại CN có xu hướng giảm . Điều này là do khách hàng cũ đã không lựa chọn Chi nhánh ngân hàng ngoại thương mà chọn các ngân hàng bạn nơi có thủ tục không quá phức tạp, tỷ lệ ký quĩ thấp và được ngân hàng xem xét cho vay nhập khẩu . Chính điều này đã thu hút khách hàng của CN ngân hàng ngoại thương làm giảm thu nhập, thu hẹp thị phần hoạt động TTQT của ngân hàng
Các sản phẩm chủ lực của CN là than đá chiếm khoảng 56% , thuỷ sản 19%, máy móc thiết bị 21% phần còn lại là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, hạt nhựa, các chất hoá học để phục vụ công nghiệp…Đối với mặt hàng than đá thì đối tác chủ lực là Trung Quốc , hàng năm các doanh số xuất khẩu than đá cho Trung Quốc vào khoảng 16 đến 17 triệu đôla . Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển bùng nổ, năng lượng đang thiếu hụt nghiêm trọng hàng năm cần nhập khẩu một lượng than đá khổng lồ, đây chính là thị trường đầy hứa hẹn đối với mặt hàng xuất khẩu than đá. Thị trường Nhật Bản cũng là thị trường đầy tiềm năng trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản đông lạnh do không bị hạn chế bởi hạn ngạch và nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này của người dân Nhật khá lớn, mặc dù trong những năm gần đây doanh nghiệp Việt Nam đã vấp phải hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn khắt khe của về an toàn vệ sinh thực phẩm đó cũng là bài học cho các DNXK trong việc nâng cao chất lượng hàng hoá . Bản thân ngân hàng khi tham gia quá trình thanh toán XNK cũng cần tư vấn cho các Dn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản sang các nước có hàng rào kĩ thuật các tiêu chuẩn vệ sinh không qua khắt khe như thị trường Nga, Hàn Quốc từ đó mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng.Quảng Ninh là một tỉnh công nghiệp với nền công nghiệp khai khoáng có từ lâu đời, hiện nay đang phát triển các ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất xi măng, nhiệt điện…cần nhập khẩu rất nhiều máy móc thiết bị phục vụ công nghiệp, do đó ngân hàng cần chú trọng đến mặt hàng nhập khẩu có giá trị lớn này từ đó đề ra các biện pháp tài trợ ngoại thương, đẩy nhanh quá trình thanh toán và tìm kiếm lợi nhuận cho ngân hàng.
Tóm lại, cùng với mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp và kinh nghiệm gần 20 năm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế, cùng với việc thúc đẩy mạnh mẽ tin học hóa lĩnh vực ngân hàng, thực hiện kết nối vào mạng thanh toán quốc tế đã góp phần hoàn thiện hơn phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, hoạt động thanh toán quốc tế nói chung ở CN ngân hàng Ngoại thương . Với việc tham gia mạng SWIFT làm cho tốc độ xử lý các giao dịch trở nên nhanh chóng, thuận tiện, việc truyền tin, dữ liệu nhờ vậy cũng chính xác hơn. Tất cả những ưu việt trên đây, cùng với mức phí dịch vụ được coi là hấp dẫn so với những Ngân hàng thương mại khác đã làm nên một CN ngân hàng Ngoại thương luôn đi đầu trong việc chiếm lĩnh thị phần xuất nhập khẩu của địa bàn. Ví dụ khi khách hàng mở thư tín dụng chỉ phải trả mức phí mở là 0,11% trị giá mở và 0,22% cho phí thanh toán, và cả hai loại phí trên chỉ chịu mức tối đa là 330USD/giao dịch, trong khi Ngân hàng thương mại khác mức tối đa này là 500-1000USD/giao dịch.
2.Một số hạn chế và nguyên nhân trong phương thức thanh toán LC tại CN:
a.Hạn chế
Thứ nhất là: Cơ cấu khách hàng còn chưa hợp lý
Kể từ đầu năm 2006, những khách hàng là các Tổng Công ty đã được tách ra do Hội Sở chính Ngân hàng Ngoại thương quản lý. Tuy nhiên tại CN vẫn có xu hướng chú trọng đến khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, đặc thù của những khách hàng này là giao dịch thanh toán quốc tế được tiến hành thường xuyên, quy mô giao dịch lớn, trong cùng một giao dịch tín dụng chứng từ, giao hàng và thanh toán được tiến hành làm nhiều lần, đem lại mức thu dịch vụ cao và ổn định cho CN
Song, chính những khách hàng lớn này thường xuyên đòi hỏi chính sách phí và lãi suất ưu đãi, đồng thời cũng dễ dàng bị những ngân hàng bạn tìm cách lôi kéo, thu hút về hoạt động với họ.
Điều này thể hiện rõ nhất trong những năm gần đây, CN đã phải chia sẻ hoạt động của các DNXK than với ngân hàng bạn, vì vậy doanh số cũng như thu phí dịch vụ giảm sút đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch kinh doanh của CN. Đây chính là hạn chế lớn trong công tác thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của CN, đòi hỏi CN phải tích cực hơn nữa trong việc mở rộng mạng lưới khách hàng, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào một số ít khách hàng.
Hai là: Các hình thức thanh toán bằng thư tín dụng chưa đa dạng
Đối với hàng xuất, việc chiết khấu miễn truy đòi hầu như không thực hiện, mặc dù có những bộ chứng từ bản thân ngân hàng cũng đánh giá là sạch và uy tín của khách hàng là lớn. Điều này gây phiền hà, không hài lòng cho khách hàng, giảm lòng tin của khách hàng đối với CN.
Đối với hàng nhập, CN chủ yếu mở thư tín dụng theo hình thức không hủy ngang, có thể có thêm xác nhận hoặc có khả năng chuyển nhượng hoặc thư tín dụng dự phòng Bên cạnh đó, có một số thư tín dụng giáp lưng được mở nhưng số lượng rất hạn chế, mặc dù thư tín dụng xuất khẩu có thể xuất trình ngay tại chính CN.
Ngoài ra, nhu cầu khách hàng về thư tín dụng tuần hoàn là rất lớn do đặc thù nhập hàng thường xuyên theo định kỳ. Tuy vậy ở CN vẫn chưa triển khai mở hình thức thư tín dụng này mà chủ yếu yêu cầu khách hàng mở thư tín dụng thông thường, cho phép giao hàng từng phần và có quy định rõ về thời hạn giao hàng. Điều này là tương đối bất tiện, nhất là với những khách hàng phải ký quỹ mở thư tín dụng, vốn của họ sẽ bị ứ đọng khá lâu, còn nếu mở từng thư tín dụng nhỏ thì lại mất thời gian và phí giao dịch.
Ba là: Tốc độ chu chuyển thanh toán còn chậm
Thời gian kiểm tra và xử lý chứng từ thanh toán tại CN Ngân hàng Ngoại thương QN còn chậm, qua nhiều khâu trung gian, mất thời gian (như qua văn thư, qua phòng thanh toán quốc tế). Để một thư tín dụng chính thức được phát hành ra nước ngoài, cần phải qua các khâu như xem xét cho vay (đối với thư tín dụng mở bằng vốn vay), mua ngoại tệ (đối với thư tín dụng ký quỹ) hay trình duyệt mở miễn ký quỹ (đối với thư tín dụng miễn ký quỹ), sau đó phòng thanh toán nhập khẩu mở thư tín dụng (thư tín dụng này do kiểm soát viên mở, qua kiểm soát viên kiểm soát rồi chuyển lên phụ trách phòng kiểm tra lại và duyệt điện), cuối cùng là lên trung tâm thanh toán để đẩy điện ra nước ngoài. Chỉ cần một khâu ùn tắc là thư tín dụng của khách hàng sẽ bị phát hành chậm.
Công tác theo dõi ngân hàng nước ngoài trả tiền chưa cập nhật và hạch toán cũng còn chậm, qua nhiều phòng ban liên quan, điều đó làm cho tốc độ thanh toán bị chậm lại, giảm hiệu quả kinh doanh của khách hàng và ngân hàng.
Bốn là: Mất cân đối trong thanh toán thư tín dụng xuất và nhập khẩu
Trong nhiều trường hợp, việc thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán thư tín dụng nhập khẩu có giá trị lớn, dẫn đến tình trạng một số thư tín dụng này bị thanh toán chậm và bị nước ngoài đòi lãi phạt trả chậm. Hoặc cũng có tình trạng CN phải từ chối khách hàng mở thư tín dụng thanh toán cho nước ngoài vì đơn giản thiếu ngoại tệ để thanh toán. Nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động huy động và hàng xuất không đủ hoặc quá ít, không có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho hàng nhập.
Năm là: Còn tiểm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế theo hình thức tín dụng chứng từ.
Đối với người xuất khẩu: Trong thực tiễn thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu bằng L/C, thanh toán viên ngân hàng đã gặp không ít trường hợp không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối không thanh toán cho khách, lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở song vẫn không nộp chứng từ kịp thời. Chứng từ khách hàng lập còn nhiều sai sót, khả năng kiểm soát của CN chưa cao, không tuân thủ những điều kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng.
Trong phương thức tín dụng chứng từ thì chứng từ phù hợp có ý nghĩa quyết định. Điều đó liên quan đến trách nhiệm phải trả tiền của ngân hàng mở hoặc miễn trách nếu chứng từ có sai sót. Thực tế cho thấy phần lớn các chứng từ hàng xuất của các doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp xuất trình qua CN nói riêng đều có sai sót, vì vậy khả năng bị ngân hàng nước ngoài từ chối còn cao.
Đối với hàng nhập khẩu còn thiếu ngoại tệ hay bị động về nguồn ngoại tệ cung ứng cho khách hàng có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán, nhất là khi có sự biến động lớn về tỷ giá giữa VND và USD. Vì vậy có nhiều trường hợp tuy không phát sinh nợ quá hạn với nước ngoài nhưng Sở Giao dịch chưa cân đối kịp thời ngoại tệ để thanh toán nên dẫn đến thanh toán chậm, phải chịu lãi phạt trả chậm (dù đây không phải là hiện tượng phổ biến), làm giảm lòng tin nơi đối tác nước ngoài. Ngoài ra, cũng phải kể đến tình trạng khi chưa đến hạn thanh toán với nước ngoài nhưng khách hàng vẫn phải nhận nợ ngoại tệ hay đặt mua ngoại tệ kỳ hạn, thậm chí có những khoản thư tín dụng có giá trị lớn phải nhận nợ làm nhiều lần để đề phòng thiếu ngoại tệ, gây ra lãng phí vốn một cách vô lý đối với doanh nghiệp.
b) Nguyên nhân
Thứ nhất là nhóm nguyên nhân chủ quan
Văn bản quy định quy trình thực hiện nghiệp vụ còn bất cập. Hiện tại, mặc dù Ngân hàng Ngoại thương đã ra văn bản Quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền, song cũng chỉ là sự cụ thể hoá các thông lệ quốc tế hiện đang áp dụng như UCP600, URC522, ISBP 681 tại Ngân hàng Ngoại thương. Nhiều quy định còn chung chung, không cụ thể nên nhiều trường hợp, cán bộ thanh toán không có cơ sở để giải quyết công việc. Ví dụ về chiết khấu chứng từ, quy trình nghiệp vụ chỉ quy định: khi chứng từ phù hợp, ngân hàng đại lý có uy tín, khách hàng có tín nhiệm cam kết hoàn trả. Những quy định này rất trừu tượng, không có chỉ tiêu cụ thể nên để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, CN phải chiết khấu bộ chứng từ cho họ nhưng rủi ro gặp phải là rất lớn.
Bên cạnh đó, việc đúc kết kinh nghiệm là hết sức cần thiết. Mặc dù đã có những thông lệ quốc tế nhưng thực tế giao dịch hàng ngày rất đa dạng, phát sinh nhiều trường hợp đặc biệt mà các thông lệ quốc tế không thể đề cập hết. Tuy nhiên tại CN chưa có sự ghi nhận lại những kinh nghiệm thực tiễn đó bằng văn bản để làm tài liệu nội bộ, đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ. Việc truyền kinh nghiệm chủ yếu là truyền miệng, cho từng cán bộ riêng lẻ khi phát sinh nghiệp vụ liên quan, chính vì vậy vẫn có trường hợp lặp lại những lỗi đã gặp phải.
Thực lực tài chính của ngân hàng là một trong những yếu tố tạo nên uy tín của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng Ngoại thương cuối năm 2006 là trên 11000 tỷ đồng, tổng tài sản là 166,000 tỷ đồng, khá nhỏ so với ba ngân hàng quốc doanh còn lại. Đây là một hạn chế không nhỏ mà Ngân hàng Ngoại thương đang từng bước khắc phục, tăng vốn trong quá trình cổ phần hóa đang tiến hành.
Việc phối hợp giữa các phòng ban chưa nhịp nhàng cũng là một yếu tố gây nên những hạn chế trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại CN Ngân hàng Ngoại thương . Việc tổ chức các phòng ban dựa trên cơ sở nghiệp vụ cơ bản như thanh toán xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, tín dụng. Giữa các phòng ban lại chưa có sự liên kết và chỉ đạo thống nhất một cách chặt chẽ để trao đổi thông tin, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó có trường hợp khách hàng muốn mở thư tín dụng bằng vốn vay thì phải làm thủ tục vay vốn tại phòng tín dụng, sau đó lại mua ngoại tệ tại phòng kinh doanh ngoại tệ để ký quỹ mở thư tín dụng tại phòng thanh toán nhập khẩu. Hay khách hàng thanh toán chứng từ hàng xuất qua phòng thanh toán xuất khẩu song lại làm thủ tục vay vốn tại phòng tín dụng, sau đó khi nhận được tiền hàng lại chuyển sang VND hoặc các loại ngoại tệ khác tại phòng kinh doanh ngoại tệ. Như vậy họ phải làm việc với ít nhất ba phòng trong một lần giao dịch, mất thời gian và tốn chi phí.
Mạng lưới ngân hàng đại lý của Ngân hàng Ngoại thương mặc dù đã mở rộng hơn trong những năm qua – hiện nay khoảng 1300 ngân hàng trên toàn thế giới, nhưng vẫn là nhỏ bé so với vị thế và tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương cũng chỉ có tài khoản tại gần 70 ngân hàng, chủ yếu là đồng USD tại Mỹ và đồng EUR tại một số ngân hàng ở Châu Âu, nên việc thanh toán cho ngân hàng nước ngoài hay nhận tiền về vẫn phải qua một, hai ngân hàng trung gian, tốn thời gian và phí ngân hàng. Bên cạnh những ngân hàng thanh toán nhanh, đúng hạn như các ngân hàng của Nhật, Đài Loan, Singapor, còn có một số ngân hàng chưa thiện chí trong việc hỗ trợ lẫn nhau và thiên về bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong nước về mọi giá, nhiều khi cố tình bắt lỗi để tránh rủi ro, do vậy ảnh hưởng tới thời gian thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra trong quá trình phát hành thư tín dụng, còn nhiều ngân hàng nước ngoài mà Ngân hàng Ngoại thương chưa đặt quan hệ trao đổi khoá SWIFT, dẫn đến việc phải thông báo thư tí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán kèm chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh.docx