Các đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2 và cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hoạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của các đơn vị; đồng thời thực hiện hoạch toán kế toán tập trung toàn ngành BHXH Việt Nam.
Các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý tài chính và hạch toán kế toán là: Ở BHXH Việt Nam là Ban Kế hoạch - Tài chính; ở BHXH tỉnh có Phòng Kế hoạch – Tài chính; ở BHXH huyện có bộ phận kế toán .
Dưới sư quản lý của BHXH Việt Nam, quỹ BHXH Việt Nam hoạt động độc lập với NSNN và có sự đổi mới căn bản về chính sách chế độ BHXH ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH Việt Nam phát triển, cân đối thu - chi và đầu tư tăng trưởng quỹ. Cụ thể là:
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g việc động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước.Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp.
Năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.
Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc ), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các khoản trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cập đau ốm, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách.Tiếp đến văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên “Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”. Như vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường.Từ tháng 1 năm 1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó có chương XII về BHXH để hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động. Ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP thành lập hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam để quản lý thực hiện chính sách BHXH và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/1/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ bảo hiểm xã hội: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và trợ cấp tử tuất; và ngày 15/7/1995 ban hành Nghị định số 45 quy định về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ đã có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Ngày 24/1/2002 Chính phủ có quyết định số 20/2002/QĐTTg chuyển hệ thống bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam và ngày 6 tháng 12 năm 2002 Chính phủ ra quyết định 100/NĐCP quyết định chức năng nhiệm vụ , quyền hạn và tổ chức bộ máy của BHXH (bao gồm cả bảo hiểm y tế).
Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100 quy định chức năng, nghiệp vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Trong đó khẳng định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là BHXH) và quản lý quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng 1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ban hành về quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam.
Đặc biệt, từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 29 tháng 6 năm 2006, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội đã thông qua luật Bảo hiểm xã hội. Tại đây đã quy định rõ ràng cho từng chế độ, quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia, mặt khác nhiều vấn đề đã được sửa đổi bổ sung để phù hợp với khả năng tài chính của quỹ và trình độ quản lý BHXH, tạo điều kiện cho BHXH không ngừng lớn mạnh, đáp ứng nhu cầu tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.
Như vậy, chỉ sau hơn 10 năm thành lập, một chặng đường chưa phải là dài so với quá trình hình thành và phát triển chính sách BHXH, BHYT của nước ta kể từ năm 1945, nhưng là khoảng thời gian hết sức quan trọng để BHXH Việt Nam bằng hành động thực tiễn và kết quả cụ thể khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của việc đổi mới chính sách BHXH, BHYT của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Chức năng và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam
2.1. Chức năng của Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
+ Xây dựng, trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt:
- Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam và kế hoạch dài hạn, năm năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH.
- Đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng Quỹ BHXH.
+ Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách, chế độ BHXH; thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cáp về BHXH cho đối tượng tham gia BHXH đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
+ Cấp các loại sổ thẻ bảo hiểm xã hội.
+ Quản lý Quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan về việc sủa đổi bổ sung chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội; cơ chế quản lý quỹ, cơ chế quản lý tài chính (kể cả chi phí quản lý bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt Nam) và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội và nghiệp vụ thu, chi bảo hiểm xã hội theo thẩm quyền; quản lý nội bộ ngành BHXH Việt Nam.
+Tổ chức hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có sổ, thẻ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
+ Kiểm tra việc ký hợp đồng và việc thu, chi bảo hiểm xã hộiđối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa bệnh; kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.
+ Từ chối việc chi các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia bảo hiểm không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm theo quy định của pháp luật hoặc khi có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo, khai man hồ sơ để hưởng bảo hiểm.
+ Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ BHXH cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
+ Lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
+ Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động bảo hiểm xã hội.
+ Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội.
+ Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội.
+ Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước,các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội ở Trung ương và địa phương, với các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; tài chính và tài sản của BHXH Việt Nam theo quy định của pháp luật.
+ Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
Căn cứ vào Nghị định số 19/CP ngày 16/02/2005 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam,ngày 26/9/1995 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 606/TTg quy định tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Theo Quyết định này, BHXH Việt Nam được tổ chức quản lý theo ngành dọc 3 cấp từ Trung ương đến cấp huyện.
BHXH Việt Nam do Tổng Giám đốc trực tiếp quản lý, điều hành theo chế độ thủ trưởng và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản lý. Giúp việc cho Tổng giám đốc là các Phó Tổng giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ chuyên môn.
Bộ máy quản lý giúp việc cho Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam hiện nay, gồm có:
Ban chế độ, chính sách BHXH
Ban kế hoạch- tài chính
Ban thu BHXH.
Ban chi BHXH.
Ban BHXH tự nguyện
Ban giám định y tế.
Ban tuyên truyền BHXH.
Ban hợp tác Quốc tế.
Ban tổ chức cán bộ.
Ban kiểm tra.
Văn phòng
Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH
Trung tâm công nghệ thông tin
Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.
Trung tâm lưu trữ.
Báo BHXH
Tạp chí BHXH
Đồng thời BHXH Việt Nam đã ban hành văn bản số 150/BHXH - TCCB ngày 03/10/1995 hướng dẫn công tác tổ chức cán bộ của hệ thống BHXH ở cấp địa phương. Theo văn bản này BHXH Tỉnh do 1 Giám đốc quản lý diều hành, giúp việc cho Giám đốc có từ 1 đến 2 Phó giám đốc. BHXH Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có từ 4 đến 6 phòng chuyên môn nghiệp vụ tuỳ thuộc vào nhiệm vụ thu chi của từng Tỉnh, thành phố.
BHXH Huyện chỉ do một Giám đốc quản lý và điều hành chung mọi hoạt động. Tuy nhiên, đối với các Huyện có công việc nhiều thì có thể thêm phó giám đốc trợ giúp, BHXH huyện không được phép có cơ cấu phòng.
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó Tổng giám đốc
Phó Tổng giám đốc
Phó Tổng giám đốc
Ban thu
Ban kiểm tra
Văn phòng
Ban chế độ
Ban Tổ chức
Ban KH - TC
Ban chi
Ban Giám định
Y tế
Ban BHXH tự nguyện
Ban tuyên truyền
Phòng QHQT
Báo BHXH
Trung tâm lưu trữ
Tạp chí BHXH
Trung tâm đào tạo
Trung tâm NCKH
Trung tâm CNTT
GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng
TC-HC
Phòng
CĐ-CS
Phòng
KH-TC
Phòng
Thu BHXH
Phòng
CNTT
Phòng BH
Tự nguyện
Phòng CĐ-Chi
Phòng Kiểm tra
BHXH HUYỆN
Đại lý chi trả
II. THỰC TRẠNG QUỸ BHXH VIỆT NAM
Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng, Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Trước năm 1995, nguồn thu BHXH rất nhỏ, mọi nhu cầu chi BHXH đều do NSNN cấp, không có quỹ BHXH độc lập.
Từ năm 1995 đến nay, cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chính phủ,quỹ BHXH được hình thành và hạch toán độc lập với NSNN. Vì vậy, đề tài xin nghiên cứu thực trạng quỹ BHXH Việt Nam qua hai thời kỳ:
1. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ trước năm 1995
1.1. Các quy định pháp lý
* Nguồn hình thành quỹ
Ngày 22/3/1962 đã chính thức ban hành nghị định số 39/CP của Chính phủ, quy định nguồn thu của quỹ BHXH của Nhà nước gồm có:
- Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường…của Nhà nước nộp hàng tháng vào quỹ BHXH theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ tiền lương.
- Tiền trợ cấp hàng năm của Nhà nước cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết.
- Các khoản khác.
* Mục đích sử dụng quỹ
- Trợ cấp khi công nhân viên chức Nhà nước ốm đau;
- Trợ cấp khi nữ công nhân viên chức Nhà nước sinh đẻ, sẩy thai, mất sức;
- Trợ cấp khi công nhân viên Nhà nước bị tai nan lao động - bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp khi công nhân viên chức về hưu;
- Trợ cấp chôn cất và tiền tuất khi công nhân viên chức Nhà nước chết;
- Chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp BHXH;
- Quỹ BHXH của Nhà nước không có kết dư.
Nếu quản lý tốt hàng năm còn thừa tiền thì được phép dùng số tiền thừa đó chi vào việc xây dựng thêm các sự nghiệp BHXH.
* Cơ quan quản lý quỹ BHXH
Ban đầu quản lý quỹ BHXH được giao cho bộ nội vụ theo nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961. Về sau giao cho hai cơ quan là Bộ LĐTB - XH, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Trong đó, Bộ LĐTB - XH quản lý chi trả chế độ hưu trí, mất sức lao động và tử tuất. Phần còn lại do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý để chi trả các chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
1.2. Thực trạng quỹ BHXH trước năm 1995
1.2.1. Kết quả thu - chi của quỹ BHXH
Ở nước ta, quỹ BHXH được hình thành cùng với chính sách, chế độ BHXH kể từ năm 1945 đến nay. Trước năm 1993 quỹ được thiết kế theo mô hình toạ thu - toạ chi, người lao động không phải đóng góp để hình thành quỹ BHXH ( Tuy ở Sắc lệnh số 105 ngày 14/6/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà có quy định công chức phải đóng vào quỹ BHXH từ 6-10% tiền lương, nhưng trong thực tế không thực hiện được), mọi nguồn chi từ quỹ BHXH do chủ sử dụng lao động và NSNN đảm bảo. Do nhu cầu chi ngày càng tăng, trong khi nguồn thu do chủ sử dụng lao động đóng góp ít, vì vậy NSNN phải chi ra ngày càng lớn. Tính bình quân từ năm 1965 đến năm 1994, hàng năm NSNN đảm bảo 86,72% nhu cầu chi trả các chế độ BHXH, số thu của chủ sử dụng lao động chỉ đáp ứng được 13,28% nhu cầu chi.
Từ năm 1993, người lao động mới thực sự phải đóng góp 5% tiền lương hàng tháng của mình vào quỹ BHXH, cùng với sự đóng góp 15% quỹ tiền lương của chủ sử dụng lao động hình thành quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích cộng đồng được quản lý tập trung, thống nhất, độc lập với NSNN.
Trong thời kỳ đầu này, thu - chi của quỹ BHXH được phân tán theo hai cơ quan quản lý quỹ:
- Tổng số thu của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam là 958.371 triệu đồng, Nhà nước hỗ trợ 5.476 triệu đồng. Mức thu 3,7% tổng quỹ lương dùng để chi trả ba chế độ: Ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN là thấp. Bình quân cả thời gian này số thu thực tế chỉ bằng 86,04% kế hoạch đề ra, có năm chỉ đạt 70-75% kế hoạch.
- Phần thu của quỹ BHXH do Bộ Lao động thương binh - xã hội quản lý đạt 4.026 triệu đồng, nhưng tổng số chi cho ba chế độ: Hưu trí, mất sức lao động,tử tuất là 25.207 triệu đồng. Ngân sách Nhà nước phải cấp bù 21.181 triệu đồng, chiếm 84,04% tổng số chi cho ba chế độ dài hạn. Mức thu thực tế do cơ quan này thực hiện cũng không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, cao nhất chỉ đạt 93,46% kế hoạch (năm 1975).
Như vậy, đặc trưng nổi bật của thời kỳ này là thu của quỹ không đủ để chi cho các chế độ, NSNN hàng năm phải cấp bù một số tiền rất lớn. Quỹ không có số dư nên cả thời gian dài nửa thế kỷ không có hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
1.2.2. Đánh giá kết quả
- Những thành tựu đã đạt được: Trong giai đoạn này, chính sách BHXH được tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả đáng kể. Kết quả này góp phần ổn định cuộc sống của hàng triệu người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội, lực lượng vũ trang và các đơn vị làm kinh tế, sản xuất kinh doanh khi họ gặp những biến cố về ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. Tính đến năm 1994, chính sách BHXH đã đảm bảo trợ cấp cho hơn 6 triệu lượt người hưởng trợ cấp thai sản, hơn 3 vạn người hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN, gần 60 vạn người hưởng trợ cấp mất sức lao động; khoảng 1,5 triệu người hưởng lương hưu trong đó có 16 vạn sỹ quan quân đội và công an, 30 vạn người hưởng tiền tuất hàng tháng, hàng chục vạn người hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức.
- Những hạn chế
Trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện, chính sách BHXH đã bộc lộ rõ những tồn tại, hạn chế ngay trong các chế độ BHXH:
+ Xây dựng chính sách BHXH: Các văn bản quy định của Nhà nước, Chính phủ, thủ tướng chính phủ, văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành thiếu đồng bộ về nội dung và hiệu lực thi hành (thậm chí thiếu tính khả thi và không chặt chẽ).
+ Tổ chức thực hiện: Việc quản lý, thực hiện các chế độ, chính sách,chế độ BHXH bị chia cắt phân tán không đồng bộ. Chức năng quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp do một cơ quan thực hiện là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Quản lý chồng chéo, lỏng lẻo tạo nhiều sơ hở để xảy ra tình trạng vi phạm chế độ BHXH, gian lận làm hồ sơ giả nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Do vậy, làm tăng chi và thất thoát thu của quỹ BHXH.
+ Công tác thu BHXH, giải quyết chế độ, chính sách: do hai cơ quan đảm nhận nên tình trạng tổ chức thực hiện bị phân tán, không có được sự phối hợp cần thiết. Có những năm quỹ cho các chế độ ngắn hạn chi không hết được chuyển sang mục đích phúc lợi cho người lao động, trong khi đó quỹ cho các chế độ dài hạn của Bộ Lao động Thương binh – xã hội quản lý thì liên tục bội chi, liên tục phải xin trợ cấp từ NSNN.
Trong hoạt động quản lý quỹ, cân đối thu chi quỹ BHXH không được coi trọng thu thì cứ thu, chi thì cần bao nhiêu đã có NSNN cấp bù dẫn đến quản lý tài chính BHXH không đạt hiệu quả.
+ Cơ cấu chưa hợp lý: Kinh phí chi quản lý và sự nghiệp BHXH chiếm tỉ lệ cao hơn tổng chi, chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương để giải quyết các chế độ BHXH.
+ Mối quan hệ ràng buộc về trách nhiệm và lợi ích giữa 3 bên : người sử dụng lao động, người lao động,Nhà nước chưa thể hiện rõ. Thực chất chi trợ cấp các chế độ BHXH thời kỳ này là lấy từ NSNN.
+ Công tác đầu tư nhằm mục đích bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH không được quan tâm chú ý. Trong khi đó, theo kinh nghiệm của các nước, nguồn thu từ lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi là một nguồn thu quan trọng của quỹ BHXH. Nguyên nhân chính là do quỹ BHXH bị phân tán do hai cơ quan quản lý là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Bộ Lao động Thương binh – Xã hội. Cả hai cơ quan này đều không có số dư quỹ, thu không đủ chi nên không thực hiện được các biệm pháp đầu tư quỹ.
Trên đây chỉ là những hạn chế cơ bản nhất, trên thực tế còn nhiều bất cập. Do vậy, việc cải tổ lại cơ chế hoạt động của BHXH trở thành nhu cầu bức xúc. Nghị định 12/CP và nghị định 119/CP đã đánh dấu sự ra đời của BHXH Việt Nam, ghi nhận một bước tiến mới trong quá trình phát triển BHXH Việt Nam.
2. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến nay
2.1. Các quy định pháp lý
* Nguồn hình thành quỹ BHXH bắt buộc bao gồm:
1- Đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH theo quy định tại điều 36 của điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ.
Trải qua thời gian, nghị định số 12/CP năm 1995, nghị định số 01/2003/NĐ-CP và thông tư số 07/2003/TT-BLĐTBXH lần lượt được ban hành; đặc biệt, tháng 6/2006 luật BHXH ra đời đã quy định cụ thể và hoàn thiện hơn về đối tượng tham gia BHXH:
- Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam bao gồm:
+ Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
+ Cán bộ, công chức, viên chức;
+ Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
+ Hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân dân phục vụ có thời hạn;
+ Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc.
- Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
2- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ.
3- Hỗ trợ của Nhà nước.
4- Các nguồn thu hợp pháp khác
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện.
* Mục đích sử dụng quỹ
Theo Luật BHXH tháng 6/2006 quy định về mục đích sử dụng quỹ BHXH là:
- Trả các chế độ BHXH cho người lao động tham gia BHXH theo quy định.
- Đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
- Chi quản lý.
- Chi khen thưởng theo quy định.
- Đâu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
* Cơ quan quản lý quỹ BHXH.
Quỹ BHXH do một cơ quan quản lý đó là BHXH Việt Nam. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính của BHXH Việt Nam được phân thành ba cấp:
- BHXH Việt Nam là đơn vị dự toán cấp 1;
- BHXH các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là BHXH tỉnh), Văn phòng BHXH Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu khoa học, đại diện BHXH Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí BHXH là các đơn vị dự toán cấp 2;
- BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là BHXH huyện) là đơn vị dự toán cấp 3.
Các đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2 và cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hoạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của các đơn vị; đồng thời thực hiện hoạch toán kế toán tập trung toàn ngành BHXH Việt Nam.
Các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý tài chính và hạch toán kế toán là: Ở BHXH Việt Nam là Ban Kế hoạch - Tài chính; ở BHXH tỉnh có Phòng Kế hoạch – Tài chính; ở BHXH huyện có bộ phận kế toán .
Dưới sư quản lý của BHXH Việt Nam, quỹ BHXH Việt Nam hoạt động độc lập với NSNN và có sự đổi mới căn bản về chính sách chế độ BHXH ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH Việt Nam phát triển, cân đối thu - chi và đầu tư tăng trưởng quỹ. Cụ thể là:
Mở rộng đối tượng tham gia
Nếu như trước đây, trong thời kỳ bao cấp, đối tượng tham gia chủ yếu chỉ bao gồm cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, người làm việc trong các tổ chức Đảng đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội hưởng lương từ NSNN; Thì đến nay trong luật BHXH đã mở rộng cho tất cả các thành phần kinh tế và đặc biệt đã có những quy định rất rõ ràng cụ thể về các chế độ của BHXH tự nguyện, giúp cho người lao động có thể dễ dàng lựa chọn các hình thức tham gia cho phù hợp. Đây là điều kiện thuận lợi để tăng số người tham gia BHXH đồng thời tăng nhanh số thu quỹ.
Về mức đóng và phương thức đóng BHXH : Đã có sự thay đổi đáng kể trong luật BHXH.
Trước đây, điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/Chính phủ năm 1995 quy định:
+ Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương.
+ Người lao động đóng 5% tiền lương.
+ Nhà nước đóng và hỗ trợ.
+ Đối với quỹ khám chữa bệnh bắt buộc: Đóng 3% tổng quỹ lương, trong đó người sử dụng lao động đóng 2%, người lao động đóng 1%.
Đến nay, Luật BHXH đã quy định mức đóng chi tiết cho từng đối tượng và tăng mức đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động theo một lộ trình dần dần. Cụ thể: trong giai đoạn 5 năm trước mắt (2005-2009) mức đóng của người lao động vẫn giữ nguyên là 5% tiền lương tiền công hàng tháng, bắt đầu từ năm 2010 sẽ điều chỉnh mức đóng theo lộ trình cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đến khi đạt 8%. Mức đóng của người sử dụng lao động vẫn giữ là 15%, nhưng từ năm 2010, mức đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất sẽ điều chỉnh cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đến khi đạt 14%. Đây chính là điểm đổi mới hết sức quan trọng để đảm bảo cho nguồn quỹ BHXH được cân đối và chống lại nguy cơ phá sản trong tương lai.
Về các chế độ BHXH :
Điều lệ BHXH quy định 5 chế độ:
+ Chế độ trợ cấp ốm đau
+ Chế độ trợ cấp thai sản
+ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ hưu trí
+ Chế độ tử tuất.
Năm 2002 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc chuyển đổi BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam nên hệ thống các chế độ BHXH có thêm một chế độ nữa là chế độ BHYT.
2.2. Thực trạng quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ 1995 đến nay
2.2.1. Thực trạng thu BHXH Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, thu từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ là chủ yếu.
Thực trạng thu của quỹ BHXH Việt Nam được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 1: Tổng thu BHXH Việt Nam (1997-2006)
Năm
Tổng thu quỹ BHXH
trong năm (triệu đồng)
Lượng tăng tuyệt đối (Triệu đồng)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
1996
2.569.733
-
-
1997
3.655.411
1.085.678
42,25
1998
4.384.556
729.145
19,95
1999
4.851.754
467.198
10,66
2000
6.022.421
1.170.667
24,13
2001
7.213.085
1.190.664
19,77
2002
8.236.523
1.023.438
14,19
2003
13.435.400
5.198.877
63,12
2004
15.839.900
2.405.500
17,90
2005
20.285.500
4.445.600
28,07
2006*
27.150.000
6.864.500
33,84
Nguồn BHXH Việt Nam
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng thu quỹ BHXH không ngừng tăng qua các năm. Sau hơn 10 năm hoạt động, năm 2006 BHXH Việt Nam đã có tổng số thu ước đạt là 29.150 tỷ đồng tăng (gấp hơn 10 lần so với năm 1996). Tuy nhiên, thu quỹ BHXH tăng không đều qua các năm. Năm 1997, tốc độ tăng là 42,25%; năm 2003 là 14,19%; năm 2003 là 63,12%; năm 2004 là 17,9%; năm 2006 tốc độ này ước tăng lên 33,84%. Đặc biệt, số thu có sự tăng mạnh từ năm 2002 sang năm 2003, lượng tăng tuyệt đối đã là 5.198.877 triệu đồng, tốc độ tăng là 63,12% và là tốc độ tăng cao nhất của cả thời kỳ 1996 - 2006.
Đạt được kết quả này là do:
- Chính sách thu BHXH phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta trong điều kiện thu nhập và tiền lương của lao động còn thấp. Vì vậy, thu 20% tổng quỹ lương (người lao động 5%, người sử dụng lao động 15%) được người lao động và chủ sử dụng lao động chấp thuận. Tuy nhiên, mức thu như vậy vẫn còn thấp so với các nước trên thế giới như: Áo là 44,96%; Pháp là 50,65%; Hà Lan là 55,25%;…
- Năm 2002 Chín
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 157.doc