Trong cơ cấu nguồn vốn trong thanh toán, thì khoản phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng cao nhất và cũng tăng theo đà phát triển của doanh thu (Năm 2005 là 3.758.124.000đ, năm 2006 là 4.216.434.000đ tăng 12,2% so với năm 2005, năm 2007 là 4.872.612.000đ tăng 15,5%). Nguyên nhân khoản phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng cao là vì trong lĩnh vực xây lắp hiện nay, sau khi thắng thầu (bên b) phải ứng trước một lượng vốn lớn để tiến hành thi công, còn việc thanh toán sẽ được chủ đầu tư (bên a) thực hiện thành nhiều lần trong và sau quá trình thi công, bàn giao thậm chí cá biệt còn có thể kéo dài hàng năm sau khi đã nghiệm thu và bàn giao.
Năm 2007 công ty đã ký kết, thi công và bàn giao đưa vào sử dụng nhiều công trình lớn như:
- Nhà máy Fujikin.
- Nhà máy Yamaha.
- Hội trường, Nhà chỉ huy, Nhà huấn luyện bay, Nhà chờ bay, Nhà làm việc Đại đội Thông tin, Đại đội Xăng Dầu, Đại đội Cảnh Vệ, Kho Bom. Sân bay Yên Bái Trung Đoàn 931.
- Viện khoa học công nghệ
Do đó khoản phải thu khách hàng tăng lên là lẽ đương nhiên.
Bên cạnh khoản phải thu của khách hàng thì khoản phải thu nội bộ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Bởi lẽ hiện nay Công ty áp dụng phương thức quản lý giao khoán công trình hoặc hạng mục công trình cho các đội thi công. Sau khi trúng thầu Công ty sẽ tiến hành giao khoán lại cho các tổ đội, các tổ đội nhận tiền tạm ứng tại Công ty, tự chịu trách nhiệm thuê nhân công, mua nguyên vật liệu đầu vào, hàng tháng hoặc hàng quý tổng hợp chi phí gửi về Công ty. Khi đó Công ty mới hạch toán chi phí vào công trình được. Vì vậy năm 2007 khi Công ty mở rộng quan hệ làm ăn, các công trình được ký kết nhiều hơn thì các khoản tạm ứng cũng tăng là lẽ đương nhiên.
64 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 999 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cổ phần xây dựng và thương mại Hoàn Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó là rất thấp gây ra sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn bằng tiền tại công ty.
Bảng 2.3: Cơ cấu vốn bằng tiền của Công ty.
đvt:1000đ
TT
Chỉ tiêu
Năm 2005(1)
Năm 2006(2)
Năm 2007(3)
CL(1)\(2)
CL(2)\(3)
Số tiền
tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
1
Vốn bằng tiền
2013240
100
2123593
100
2270632
100
110353
5,5
147039
6,9
Tiền mặt
254125
18,6
376420
17,7
250614
11,1
122295
48,1
-125806
-33
Tiền gửi NH
1759115
81,4
1747173
82,3
2020018
88,9
260903
12,3
272845
15,6
Tiền đang chuyển
0
0
0
0
2
Doanh thu thuần
2013240
100
2123593
100
2270632
100
110353
6,9
3103073
8,2
Nguồn: Bảng cân đối kế toán của công ty năm 2006 – 2007.
Năm 2007 với sự mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã làm tăng lượng vốn tiền mặt công ty từ 2.123.593.000đ lên 2.270.632.000đ tương ứng với tỷ lệ 6,9%, lượng vốn bằng tiền tăng lên cùng với tốc độ chu chuyển tăng lên đã làm cho doanh thu tăng.
Điều đáng nói ở đây là lượng tiền mặt tăng nhưng Công ty giữ lại quỹ rất ít, quy mô thường được duy trì ở mức dưới 0,5 tỷ đồng và có xu hướng giảm dần qua các năm (Năm 2005 tỷ trọng tiền mặt tại quỹ là 254.125 chiếm 18,6% đến năm 2006 tỷ trọng tiền mặt tại quỹ còn chiếm 17,7% nhưng đến năm 2007 tỷ lệ này chỉ chiếm 11,1% trong khi vốn bằng tiền vẫn tăng) Công ty đã dùng số tiền mặt dư thừa gửi vào ngân hàng nên tỷ trọng tiền gửi ngân hàng tăng nên đến 89,9% vào năm 2007. đây là một tính toán hợp lý, vừa đảm bảo ổn định hoạt động ngân quỹ vừa đem lại cho công ty một khoản thu nhập tài chính tương đối do được hưởng lãi suất tiền gửi.
Ngoài ra trong cơ cấu vốn bằng tiền thì không có tiền đang chuyển điều này là rất tốt, công ty không bị ứ đọng vốn trong khâu luân chuyển.
Với cơ cấu và tỷ trọng vốn bằng tiền như vậy ta có thể cho rằng công ty đã sử dụng vốn bằng tiền một cách hợp lý.
Tuy nhiên, công ty vẫn vấp phải một hạn chế đó là, hiện nay công ty chưa thực hiện việc lập kế hoạch ngân sách tiền mặt một cách cụ thể. Chính vì vậy, công ty chưa có cơ sở để thực hiện các khoản đầu tư khác có tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tạm thời nhàn rỗi của mình. Trong thời gian tới, Công ty cần phải tiến hành việc lập kế hoạch thu chi tiền mặt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Có rất nhiều hình thức đầu tư ngắn hạn khác nhau có khả năng sinh lời cao mà công ty có thể lựa chọn như cho vay, đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh Tuy nhiên, một trong những hình thức đầu tư thường được sử dụng đó là đầu tư chứng khoán có tính thanh khoản cao đặc biệt là trong điều kiện hiện này khi thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động và gặt hái được những thành công nhất định, khi cần thiết Công ty có thể chuyển đổi những chứng khoán này ra tiền mặt.
Khi lập kế hoạch tiền mặt Công ty nên lưu ý những vấn đề sau:
- Xác định mức số dư tiền mặt phù hợp
- Thu thập và sử dụng tiền mặt một cách có hiệu quả.
- Đầu tư tiền mặt dư thừa vào chứng khoán khả thị.
Ba yếu tố trên nếu được kết nối với qui mô, kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty ở từng thời kỳ nhất định sẽ góp phần quản lý tốt vốn bằng tiền, công ty sẽ tránh được ứ đọng hay thiếu hụt vốn, đưa khả năng sử dụng vốn lưu động của công ty lên cao.
*/ Các khoản phải thu:
Ngoài việc tìm hiểu nguồn gốc vốn đầu tư và hoàn thiện hồ sơ quyết toán thì chính sách tín dụng khách hàng là khâu quan trọng quyết định sự thành công của hai giải pháp trên, cụ thể là:
- Đối với khách hàng mới, uy tín chưa cao: Công ty cần yêu cầu khách hàng có thế chấp, ký cước bảo lãnh, bảo đảm thanh toán của ngân hàng hay một tổ chức có tiềm lực về tài chính. Trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, nếu vi phạm sẽ phạt theo lãi suất quá hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Với khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, có uy tín: Áp dụng hình thức thanh toán trả chậm đến 30 ngày, tối đa là 60 ngày sau khi hoàn thành thủ tục bàn giao công trình xây lắp và 30 ngày nếu là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ.
- Khách hàng trong nội bộ Công ty: Xác định dư nợ thường xuyên với thời hạn thanh toán không quá 30 ngày đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ, không quá 60 ngày đối với sản phẩm xây lắp, thường xuyên đối chiếu bù trừ công nợ đối với các khoản nợ đến hạn.
Ngoài ra, công ty cần tính toán tỷ lệ chiết khấu trong thanh toán để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm.
Bảng 2.4: Cơ cấu vốn trong thanh toán của Công ty.
đvt: 1000đ
TT
chỉ tiêu
Năm 2005(1)
Năm 2006(2)
Năm 2007(3)
CL(1)/(2)
CL(2)/(3)
Số tiền
Tl%
số tiền
Tl%
số tiền
Tl%
số tiền
Tl%
số tiền
Tl%
1
Vốn thanh toán
6548457
100
7431614
100
8630398
100
883157
13,5
1198781
16,1
Phải thu kh.hàng
3758124
57,4
4216434
56,7
4872612
56,4
45831
12,2
656178
15,5
Trả trước cho NB
480124
7,3
572649
7,7
682156
7,9
92525
19,3
109507
19,1
Vốn đầu tư
19157
0,3
28372
0,4
0
Phải thu nội bộ
2201234
33,6
2513698
33,8
2978192
34,5
312464
14,2
464494
18,5
Phải thu khác
89818
1,4
100460
1,4
97435
1,2
10642
11,8
-3025
-3
2
Doanh thu
35375652
37675070
40778143
2299418
6,5
3103073
8,2
Nguồn: Bảng cân đối kế toán của công ty năm 2005,2006 và 2007
Từ bảng số liệu trên ta thấy năm 2007 cả doanh thu và công nợ phải thu đều tăng, nhưng tốc độ tăng của các khoản phải thu cao hơn tốc độ tăng của doanh thu, điều này chứng tỏ năm 2007 vốn của Công ty bị chiếm dụng nhiều hơn. Đây là điều gây nhiều bất lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty nói riêng. bởi vậy Công ty cần tăng cường đẩy mạnh các biện pháp thu hồi công nợ, để đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn lưu động góp phần sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Trong cơ cấu nguồn vốn trong thanh toán, thì khoản phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng cao nhất và cũng tăng theo đà phát triển của doanh thu (Năm 2005 là 3.758.124.000đ, năm 2006 là 4.216.434.000đ tăng 12,2% so với năm 2005, năm 2007 là 4.872.612.000đ tăng 15,5%). Nguyên nhân khoản phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng cao là vì trong lĩnh vực xây lắp hiện nay, sau khi thắng thầu (bên b) phải ứng trước một lượng vốn lớn để tiến hành thi công, còn việc thanh toán sẽ được chủ đầu tư (bên a) thực hiện thành nhiều lần trong và sau quá trình thi công, bàn giao thậm chí cá biệt còn có thể kéo dài hàng năm sau khi đã nghiệm thu và bàn giao.
Năm 2007 công ty đã ký kết, thi công và bàn giao đưa vào sử dụng nhiều công trình lớn như:
- Nhà máy Fujikin.
- Nhà máy Yamaha.
- Hội trường, Nhà chỉ huy, Nhà huấn luyện bay, Nhà chờ bay, Nhà làm việc Đại đội Thông tin, Đại đội Xăng Dầu, Đại đội Cảnh Vệ, Kho Bom. Sân bay Yên Bái Trung Đoàn 931.
- Viện khoa học công nghệ
Do đó khoản phải thu khách hàng tăng lên là lẽ đương nhiên.
Bên cạnh khoản phải thu của khách hàng thì khoản phải thu nội bộ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Bởi lẽ hiện nay Công ty áp dụng phương thức quản lý giao khoán công trình hoặc hạng mục công trình cho các đội thi công. Sau khi trúng thầu Công ty sẽ tiến hành giao khoán lại cho các tổ đội, các tổ đội nhận tiền tạm ứng tại Công ty, tự chịu trách nhiệm thuê nhân công, mua nguyên vật liệu đầu vào, hàng tháng hoặc hàng quý tổng hợp chi phí gửi về Công ty. Khi đó Công ty mới hạch toán chi phí vào công trình được. Vì vậy năm 2007 khi Công ty mở rộng quan hệ làm ăn, các công trình được ký kết nhiều hơn thì các khoản tạm ứng cũng tăng là lẽ đương nhiên.
Ngoài hai khoản phải thu khách hàng và phải thu nội bộ chiếm tỷ trọng lớn ra thì các khoản trả trước cho người bán và khoản phải thu khác tuy có tăng, nhưng tỷ trọng trên tổng nợ phải thu vẫn ổn định ở mức thấp, điều này là tương đối tốt, bởi lẽ năm 2007, mặc dù mở rộng sản xuất kinh doanh khả năng chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp, cá nhân khác sẽ tăng (do quan hệ mua bán chịu) những khoản ứng trước cho người bán vẫn giữ tỷ trọng ổn định, điều đó thể hiện uy tín của Công ty đối với các nhà cung cấp tương đối tốt. Công ty nên tiếp tục mở rộng và duy trì các mối quan hệ với các nhà cung cấp như hiện nay.
Như vậy cơ cấu vốn trong thanh toán của Công ty biến động theo chiều hướng hợp lý, tuy nhiên số tiền phải thu khách hàng trong mỗi kỳ vẫn còn rất lớn, Công ty nên có biện pháp thu hồi thích hợp, tránh ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của Công ty. Thực tế tại Công ty, việc quản lý các khoản phải thu, phải trả, nhất là đối với các khoản quá hạn chưa được phân tích đánh giá một cách chính xác. Việc lập dự phòng chưa dựa trên cơ sở phân độ rủi ro dự tính, số liệu chi tiết phản ánh trên sổ kế toán chưa chính xác. Công ty cần đối chiếu xem xét các khoản nợ quá hạn có đúng là khó đòi hay không và đánh giá chính xác các khoản nợ khó đòi đã bị xoá sổ.
*/ Quản lý vốn vật tư hàng hoá:
Là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động của Công ty, là lực lượng vốn chủ yếu tham gia vào quá trình xây lắp. Điều đó được thể hiện phần nào qua bảng cơ cấu vốn vật tư hàng hoá của Công ty được trình bày dưới đây:
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn vật tư hàng hoá của Công ty
đvt: 1000đ
TT
Chỉ tiêu
Năm 2005(1)
Năm 2006(2)
Năm 2007(3)
CL(1)\(2)
CL(2)\(3)
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
Số tiền
Tl%
1
Tổng vốn VTHH
19214157
100
20219534
100
21521436
100
1005.377
5,2
1301902
6,4
NLVL
20123
0,2
23610
0,1
37781
0,2
3487
17,3
14171
6
CCDC
3025589
15,7
3680752
18,2
4291360
19,9
655163
21,6
610608
16,5
Chi phí sxkd dd
16168445
84,1
16515315
81,7
17192695
79,9
346870
2,1
677380
4,1
2
Tổng DT
35375652
37675070
40778143
2299418
6,5
3103073
8,2
Nguồn: Bảng cân đối kế toán của công ty năm 2005,2006 và 2007.
Qua bảng trên ta thấy so với năm 2005 thì năm 2006 có lượng hàng hoá tồn kho tăng lên là 1.005.377.000đ tương ứng với tỉ lệ 5,2%. So với năm 2006 thì năm 2007 lượng vốn vật tư hàng hoá tồn kho của công ty tăng lên 1.301.902.000đ tương ứng với tỷ lệ 6,4%, trong khi doanh thu tăng 3.103.073.000đ tương ứng với tỷ lệ 8,2%, điều đó thể hiện sang năm 2007 Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý và sử dụng hàng lưu kho đưa hệ số phục vụ của hàng lưu kho lên cao hơn năm 2006. Trong năm 2006 cứ một đồng đầu tư vào vật tư hàng hoá chỉ mang lại 1,85 đồng doanh thu (37675070 / 20219534) nhưng sang năm 2007 cũng đầu tư như vậy nhưng Công ty đã thu được 1,9 đồng trên một đồng vốn đầu tư. Với triển vọng phát triển này, nếu trong những năm tới Công ty tiếp tục phát huy công tác quản lý và sử dụng vốn vật tư hàng hoá như hiện nay thì khả năng đạt được doanh thu và lợi nhuận cao hơn là hoàn toàn có thể, vì vốn vật tư hàng hoá là bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn lưu động, nên đương nhiên việc nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá thì sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng của tổng vốn lưu động.
Trong cơ cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp luôn có một bộ phận quan trọng nằm trong khâu sản xuất với nhiệm vụ đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà phần vốn lưu động này được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau. Nhưng đối với doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản thì đây là chủ yếu là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và luôn chiếm một tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn vật tư hàng hoá.
Ở Công ty cổ phần xây dựng và thương mại Hoàn Trang, điều này được thể hiện trong năm 2006, tỷ trọng của chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm 81,7% trên tổng vốn vật tư hàng hoá và năm 2007 là 79,9%, tuy tỷ trọng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang trên tổng vốn vật tư hàng hoá của Công ty giảm 1,8% từ năm 2006 qua năm 2007, nhưng lại tăng lên với số tuyệt đối là 677.380.000đ. Nguyên nhân của chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng là do khối lượng công trình thi công tăng, nhiều công trình, hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành hay khối lượng xây lắp dở dang trong năm chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán hoặc chi phí sản xuất phát sinh từ khi khởi công công trình đến thời điểm kiểm kê đánh giá đối với những công trình quy định thanh toán sau khi hoàn thành toàn bộ.
Ngoài chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm tỷ trọng cao ra thì trong cơ cấu vốn vật tư hàng hoá lượng nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ, cũng là những vật tư, phương tiện góp phần tích cực vào việc duy trì sản xuất kinh doanh thường xuyên liên tục.
Do đặc điểm của ngành xây dựng và quy chế riêng trong quản lý thi công tại Công ty là: Công ty luôn thực hiện phương thức giao khoán công trình hay hạng mục công trình cho các tổ đôị thi công tự chịu trách nhiệm cung ứng nguyên liệu, vật liệu, do đó trong mục nguyên vật tồn kho của Công ty ở cuối niên độ là rất thấp chỉ chiếm 0,2% năm 2005, 0,1% năm 2006 và 0,2% năm 2007 trên tổng nguồn vốn vật tư hàng hoá. Loại nguyên vật liệu này chủ yếu tồn đọng dưới dạng vật liệu phục vụ quản lý điều hành Công ty. Đây là một nét đặc thù rất riêng trong ngành sản xuất, mà chỉ các doanh nghiệp xây lắp mới có, cho nên trong việc quản lý và sử dụng hàng lưu kho Công ty có thể bỏ qua công đoạn quản lý chi tiết mục nguyên vật liệu ở Công ty.
Khác với nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ là một lượng vật tư hỗ trợ trong thi công, nó không là bộ phận trực tiếp cấu thành nên sản phẩm nhưng lại không thể thiếu trong công tác xây lắp. Xác định được tầm quan trọng của công cụ dụng cụ, trong năm 2007 Công ty đã đầu tư mua sắm thêm một lượng công cụ dụng cụ mới sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phục vụ thi công đưa tỷ trọng công cụ dụng cụ trên tổng vốn vật tư hàng hoá tăng từ 15,7% năm 2005 lên 18,2% năm 2006, và lên 19,9% năm 2007. Việc đầu tư thêm trang thiết bị phục vụ thi công là cần thiết và cấp bách, vì trong điều kiện thi công xây lắp chủ yếu được thực hiện ngoài trời nên khi gặp thuận lợi về thời tiết thì việc thi công phải được tiến hành khẩn trương do đó nếu công cụ dụng cụ không đầy đủ sẽ làm đình trệ việc thi công. Tuy nhiên, việc đầu tư tăng thêm cũng cần phải xác định cân đối với sự gia tăng của doanh thu và lợi nhuận vì nếu công cụ, dụng cụ tồn kho không được sử dụng hoặc để lâu mới sử dụng sẽ làm tăng chi phí bảo quản, giảm giá trị từ đó làm giảm lợi nhuận của Công ty. đây là vấn đề công ty cần quan tâm, có kế hoạch cung ứng, dự trữ và sử dụng cho phù hợp.
Trên đây là một số vấn đề cơ bản trong hoạt động quản lý vốn lưu động nói chung và quản lý vốn vật tư hàng hoá tại công ty nói riêng, để hiểu rõ hơn tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty ta cần đánh giá hiệu quả sử dụng của từng khoản mục cấu thành nên vốn lưu động.
Khoản mục này nhìn chung được công ty quản lý tương đối tốt. Song cũng còn một số vấn đề cần giải quyết sau:
Một là: Hàng lưu kho trong năm 2007 tuy có giảm về tỷ trọng nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2006 chiếm 64,6% trên tổng vốn lưu động tương ứng số tiền 20.219.534.000đ, năm 2007 chiến 62,8% tổng số vốn lưu động với số tiền 21.521.436.000đ. Công ty cần lưu ý quản lý khoản mục này nhằm hạn chế những thất thoát trong khâu dự trữ, giảm chi phí bảo quản, đảm bảo thu hồi lượng vốn ứ đọng này.
Hai là: Nguyên vật liệu là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành xây lắp nên công ty cần phải quan tâm nhiều hơn nữa, để tăng cường tính kiểm tra, Giám đốc vật tư, phòng kế toán Công ty cần bố trí nhân viên thường xuyên theo dõi chi phí vật tư tại các đội công trình, phòng kinh tế kỹ thuật cần bố trí cán bộ quản lý có kinh nghiệm về tổ chức, giám sát thi công tại công trường hỗ trợ các đội trưởng về kỹ thuật, quản lý xây lắp và lập kế hoạch thi công.
Ba là: Trong thi công đôi khi Công ty phải ngừng thi công do phải chờ chỉnh sửa thiết kế, để có thể phần nào khắc phục thiệt hại trong trường hợp này, trước khi thi công Công ty cần yêu cầu chủ đầu tư khảo sát thiết kế thật kỹ lưỡng. Bên cạnh đó Công ty cần đưa ra những điều khoản cam kết thoả thuận cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ thi công, lấy đó làm căn cứ yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm bồi thường đối với những tổn thất do ngừng thi công gây ra.
Bốn là: Đối với sản phẩm kinh doanh dở dang: các công trình, hạng mục công trình sau khi đã khởi công xây dựng công ty nên tập trung nhân lực, vật lực để đẩy nhanh tốc độ thi công, phấn đấu bàn giao cho chủ đầu tư đúng và trước thời hạn của hợp đồng. với những công trình đã hoàn thành, Công ty cần đẩy mạnh khâu xúc tiến thẩm định để sớm được bàn giao cho chủ đầu tư, tránh tình trạng công trình đã hoàn thành mà chưa được thẩm định bàn giao, làm ứ đọng vốn, tăng chi phí bảo quản, lãng phí nhân công, vật tư.
2.2.1. Huy động vốn lưu động của Công ty
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách khái quát trên tổng vốn lưu động mới chỉ cho ta biết được sự tăng, giảm và vấn đề quản lý sử dụng của tổng thể, chứ chưa cho ta biết được cơ cấu phân bổ, sử dụng của từng thành phần cấu thành nên vốn lưu động, chưa thấy việc sử dụng là hợp lý hay bất hợp lý của từng thành phần này. Đề làm được điều đó ta cần đánh giá một cách chi tiết trên từng thành phần cấu thành lên vốn lưu động thông qua các chỉ tiêu cơ bản là: Số vòng quay và thời gian của một vòng quay.
Bảng 2.6: Các chỉ tiêu huy động vốn lưu động của công ty
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch 2006/2007
Số tiền
Tl%
1
Doanh thu thuần
1000đ
35375652
37675070
40778143
3103073
8,2
2
Giá vốn hàng bán
1000đ
28895264
31909665
34740938
2831273
9
3
Vốn bằng tiền
1000đ
1988382
2123593
2270632
147039
6,9
- Số vòng luân chuyển
Vòng
17,1
17,7
18
0,3
1,7
- Kỳ luân chuyển tiền bình quân
Ngày
20,7
20,6
20,2
-0,4
1,9
4
Vốn trong thanh toán
1000đ
6007772
7431614
8630395
1198781
16,1
- Số vòng luân chuyển
Vòng
4,4
4,3
4,02
-0,28
-6,7
- Thời gian BQ một vòng quay
Ngày
83
84,9
90,8
-5,93
6,7
5
Vốn vật tư hàng hoá
1000đ
12284103
20219534
21521436
1301902
6,4
- Số vòng luân chuyển
Vòng
1,55
1,58
1,61
0,03
1,8
- Thời gian BQ một vòng quay
Ngày
230
231
226,7
-4,3
-1,8
6
Vốn lưu động khác
1000đ
1460830
1532411
1825086
292675
19,2
- Số vòng chu chuyển
Vòng
20,1
20,8
19,03
-1,77
-8,5
- Tổng bình quân một vòng quay
Ngày
18,2
17,5
19,2
1,7
8,5
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của công ty năm 2005,2006 và 2007.
*/ Huy động vốn bằng tiền:
Tiền là phương tiện thực hiện quan hệ trao đổi hàng hoá, nó là vật đầu tiên và cũng là vật cuối cùng kết thúc một vòng sản xuất kinh doanh. Tiền là loại vốn có tính lưu động nhất có thể được sử dụng ngay để mua hàng hoá nguyên liệu vật liệu, thanh toán các khoản công nợ hoặc trang trải các khoản chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vòng quay tiền mặt:
Trong năm 2007 vòng quay tiền mặt của Công ty đạt 18 vòng, tăng 0,03 vòng so với cùng kỳ năm 2006 (năm 2005 vòng quay tiền mặt của công ty là 17,1 vòng, ít hơn năm 2006 là 0,06 vòng).Việc tăng vòng quay tiền mặt của Công ty trong năm đã góp phần tăng hệ số phục vụ của vốn bằng tiền nói riêng cũng như hiệu quả sử dụng của toàn vốn lưu động nói chung góp phần tích cực vào việc tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng mức độ tăng của vòng quay tiền mặt còn rất nhỏ chỉ với tỷ lệ 1,7% chưa tương xứng với tỷ lệ tăng của tiền mặt (năm 2007 tỷ lệ tăng tiền mặt là 6,9%). Do vậy, nếu Công ty có biện pháp tăng cao tốc độ luân chuyển của tiền mặt hơn nữa thì chắc chắn Công ty sẽ có một khoản tiết kiệm tiền mặt, để có thể đầu tư vào những thương vụ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
- Kỳ luân chuyển tiền bình quân:
Là hệ số đo thời gian của một vòng quay tiền mặt nên khi số vòng quay tiền mặt tăng thì ắt hẳn thời gian của một vòng quay tiền mặt sẽ giảm, điều đó được minh chứng ở năm 2007 khi vòng quay tiền mặt tăng 0,03 vòng thì số ngày bình quân trên một vòng luân chuyển tiền đã giảm từ 20,6 ngày, năm 2006 xuống còn 20,2 ngày năm 2007, như nhận xét ở phần trên thì Công ty tuy đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý và sử dụng tiền mặt nhưng mức tăng vẫn còn rất nhỏ. Công ty cần có biện pháp tích cực hơn nữa trong việc quản lý, sử dụng và đầu tư tiền mặt.
*/ Huy động vốn trong thanh toán:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp luôn tồn tại các khoản vốn trong thanh toán đó là các khoản phải thu và các khoản phải trả, quản lý tốt các khoản này thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc chi trả các khoản nợ đến hạn, hay đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn để tài trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh được thường xuyên liên tục, hiệu quả sử dụng vốn trong thanh toán được biểu hiện qua hai chỉ tiêu cơ bản đó là:
- Vòng quay các khoản phải thu:
Từ số liệu cuả bảng 2.6 cho thấy, tình hình thu hồi công nợ của Công ty trong năm 2007 nhìn chung là không tốt, cụ thể số vòng quay các khoản phải thu của Công ty năm 2006 thấp hơn năm 2005, 2007 thấp hơn so với năm 2006, năm 2005 số vòng quay các khoản phải thu là 4,4 thì năm 2006 số vòng quay các khoản phải thu là 4,3 vòng, giảm 0,01 vòng. Nhưng sang đến năm 2007 số vòng quay các khoản phải thu chỉ còn 4,02 vòng, giảm 0,28 vòng. Điều này chứng tỏ hiệu quả công tác thu hồi các khoản nợ của Công ty là chưa tốt. hơn nữa, số dư các khoản công nợ phải thu ở thời điểm cuối niên độ của Công ty trong hai năm 2006 và 2007 vẫn còn rất cao (năm 2006 là 7.431.614.000đ chiếm 23,7% trên tổng vốn lưu động, năm 2007 là 8.630.395.000đ tương ứng với tỷ lệ 25,2% trên tổng vốn lưu động). Do đó khi số vòng quay các khoản phải thu giảm sẽ làm cho số vốn bị khách hàng chiếm dụng tăng cụ thể trong năm 2007 số vốn này đã tăng tới 16,1% so với cùng kỳ năm 2006. Như vậy trong thời gian tới Công ty cần phải chú trọng hơn nữa tới việc thu hồi các khoản phải thu tránh tình trạng ứ đọng vốn trong thanh toán làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Kỳ thu tiền bình quân:
Là một chỉ tiêu đo thời gian của vòng quay các khoản phải thu, nên khi vòng quay các khoản phải thu giảm thì số ngày bình quân trên một vòng quay sẽ tăng. Năm 2007 kỳ thu tiền bình quân của Công ty tăng 5,9 ngày so với năm 2006, đưa số ngày cần thiết cho một lần thu hồi công nợ bình quân từ 84,9 ngày năm 2006 lên 90,8 ngày năm 2007, việc kéo dài kỳ thu tiền bình quân sẽ làm số vốn lưu động bị khách hàng chiếm dụng tăng.
Hiện nay ở Công ty để thu hồi được một khoản phải thu, trung bình công ty phải mất 3 tháng một khoản thời gian rất lớn, đành rằng Công ty là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có thời gian thi công và thu hồi vốn dài hơn các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác nhưng thời gian thu hồi công nợ lớn hơn nhiều so với quy chuẩn chung của ngành là một điều không tốt, trong thời gian tới Công ty cần nghiên cứu, áp dụng các biện pháp cần thiết để đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ như: nghiên cứu kỹ khả năng tài chính của khách hàng trước khi ký kết hợp đồng hoặc sử dụng giá chiết khấu trong thanh toán nhằm làm giảm các khoản nợ phải thu, giảm tình trạng vốn bị chiếm dụng trong kinh doanh.
*/ Huy động vốn trong vật tư hàng hoá:
Vốn vật tư hàng hoá là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động, nên hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá được thể hiện thông qua số vòng luân chuyển và số ngày bình quân một vòng luân chuyển vốn vật tư hàng hoá của Công ty
Năm 2007 số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá tăng 0,03 vòng so với cùng kỳ năm 2006, nên đã làm cho số ngày luân chuyển bình quân của một vòng quay vốn vật tư hàng hoá giảm đi 4,3 ngày, đưa số ngày cần thiết cho một vòng quay vốn vật tư hàng hoá giảm từ 231 ngày năm 2006 xuống còn 226,7 ngày năm 2007. Đây là một kết quả tốt, để thấy được ảnh hưởng của nó đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, giả sử rằng số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá vẫn như năm 2006, thì để đạt được doanh thu theo giá vốn (giá vốn hàng bán) như năm 2007 Công ty cần phải đầu tư:
34.740.938.000 / 1,58 = 21.987.936.000đ
Như vậy, nhờ tốc độ luân chuyển tăng nên mà năm 2007 Công ty đã tiết kiệm được một khoản vật tư là:
21.987.936đ – 21.521.436.000 = 466.500.000. Đây là một kết quả khả quan Công ty cần phát huy, khai thác trong thời gian tới.
- Khả năng thanh toán của Công ty:
Như đã trình bày ở trên các hệ số này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ ngắn hạn). Khi doanh nghiệp có đủ tiền, doanh nghiệp sẽ tránh được việc vi phạm các ràng buộc pháp lý về tài chính và vì thế tránh được nguy cơ chịu các áp lực về tài chính.
Khả năng thanh toán của Công ty tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của Công ty. Bởi vậy để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động không thể không đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của Công ty. khả năng thanh toán của Công ty được thể hiện qua một số chỉ tiêu như khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời ở bảng sau.
Bảng 2.7: Khả năng thanh toán của Công ty
đvt: 1000đ
TT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch 05/06
Chênh lệch 06/07
Số tiền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7878.doc