Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 3

1.1 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4

1.2.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 5

1.2.1.1 Năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp 5

1.2.1.2 Năng lực máy móc thiết bị công nghệ thi công 6

1.2.1.3 Năng lực tài chính của doanh nghiệp 6

1.2.1.4 Năng lực marketing của doanh nghiệp 7

1.2.1.5 Năng lực lao động của doanh nghiệp 7

1.2.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 8

1.2.2.1 Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 8

1.2.2.2 Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vi mô 10

1.3 Tiêu thức đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NẶNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG BẤT ĐỘNG SẢN LANMAK 13

2.1 Giới thiệu tổng quan về công ty Lanmak 13

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty 13

2.1.2 Chức năng nhiệm vụ 13

2.1.3 Cơ cấu tổ chức của công ty 14

2.1.3.1 cơ cấu bộ máy tổ chức 14

2.1.3.2 Chức năng nhiệm vụ các phòng ban 16

2.1.4 Kết quả sản xuất kinh doanh trong 3 năm 2007-2009 18

2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty 21

2.2.1 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty 21

2.2.1.1 Các nhân tố bên trong 21

2.2.1.2 Các nhân tố bên ngoài 36

2.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Lanmak 45

2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty Lanmak 47

2.3.1 Thị phần của công ty 47

2.3.2 Hiệu quả sản xuất kinh doanh 49

2.3.3 Uy tín, danh tiếng thương hiệu của doanh nghiệp 51

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY LANMAK 52

3.1 Chiến lược phát triển công ty trong thời gian tới 52

3.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Lanmak 55

3.2.1 Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ và năng lực quản lý của công ty 55

3.2.2 Sử dụng có hiệu quả và nâng cao năng lực công nghệ 58

3.2.3 Nâng cao năng lực tài chính và hiệu quả sử dụng vốn vay 59

3.2.4 Nâng cao năng lực marketing của công ty 60

3.2.5 Sử dụng có hiệu quả và nâng cao chất lượng lao động 61

3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp 63

3.3.1 Phát triển hạ tầng kinh tế và pháp lý hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 63

3.3.2 Cải cách thủ tục hành chính 64

3.3.3 Hoàn thiện cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp 64

3.3.4 Phát triển các định chế hỗ trợ doanh nghiệp 66

KẾT LUẬN 67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

 

 

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5180 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
88 83 4 Tỉ trọng vốn cố định so với tổng vốn(%) 4 12 17 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Mức độ độc lập tự chủ về tài chính của công ty đã tăng lên, nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài. Qua 3 năm ta thấy tỉ trọng của nguồn vốn chủ sở hữu năm 2007 chiếm khoảng 10% đến năm 2009 tăng lên và chiếm khoảng 16,2% . Sở dĩ, tỷ số này tăng lên là do công ty đã tiến hành huy động nguồn vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, huy động những đồng tiền nhàn dỗi công nhân viên trong công ty mua cổ phần. Khả năng cân đối vốn thể hiện thông qua tỉ số nợ trên tổng tài sản. Qua 3 năm qua tỷ số này đã giảm xuống năm 2007 chiếm khoảng 90% đến năm 2009 đã giảm xuống còn hơn 80% nhưng vẫn ở mức cao so với mức an toàn mà chuyên gia kinh tế nhận định là 40%. Tỷ số nợ của công ty giảm qua các năm cho thấy khả năng tài chính của doanh nghiệp qua các năm đã tăng lên song vẫn ở mức cao tạo cho công ty gia tăng lợi nhuận một cách nhanh chóng nhưng nó có phần hạn chế là chưa đảm bảo khả năng thanh toán công ty dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi gặp rủi ro. Có thể nói mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ công ty đã tích cực trả các khoản nợ. Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu cho biết mối quan hệ giữa các nguồn vốn của công ty trong việc hình thành các tài sản. Qua 3 năm qua từ 2007-2009 hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu của công ty đã giảm xuống từ 8,9 năm 2007 xuống còn 5,2 năm 2009 nhưng còn cao hơn mức trung bình ngành(2,5). Sự bị động đó khiến công ty phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các nguồn vốn vay hình thành nên tài sản phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Về nguồn vốn qua bảng trên ta thấy tỉ trọng vốn lưu động của công ty năm 2007 là 96% trên tổng vốn; năm 2008 giảm xuống ở mức đạt tới 88% so với tổng vốn, năm 2009 là 83% so với tổng vốn. Tỉ trọng vốn lưu động trên tổng vốn năm 2009 giảm so với năm 2008 cho thấy năm 2009 công ty ít bị chiếm dụng vốn hơn so với năm 2008. Tuy nhiên tỷ trọng vốn lưu động như vậy là rất cao, chứng tỏ các khoản phải thu của công ty là lớn và công ty bị chiếm dụng vốn nhiều, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn.Việc thu hồi vốn chậm cho thấy công ty đã phải chịu áp lực tài chính khá nặng nề. Đây có thể là nguyên nhân làm giảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh của công ty. Do công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nên việc ứ đọng vốn là không thể tránh khỏi vì tiền chỉ có thể thu về khi hoàn thành công trình và bàn giao. Mặt khác những công trình mà công ty đang thực hiện là những công trình đòi hỏi mức đầu tư lớn thời gian thi công dài thường là vài năm nên việc thu hồi được tiền vốn của công ty sẽ gặp khó khăn. Năng lực tài chính của bất kì doanh nghiệp nào được gắn với vốn – yếu tố cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như: mua sắmvật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm máy móc thiết bị công nghệ, hiện đại hóa tổ chức quản lý… Như vậy để nâng cao năng lực tài chính, công ty cần củng cố và phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức như vay ngắn hạn, vay dài hạn, huy động phát hành cổ phiếu, chiếm dụng doanh nghiệp khác… Đồng thời, một điều quan trọng là công ty phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và với những người cho vay vốn. Nhìn một cách tổng thể thì trong những năm gần đây tình hình tài chính của công ty có sự biến động qua mỗi năm nhưng vẫn đảm bảo được khả năng tài chính. Một số chỉ tiêu có chiều hướng tốt trong những năm gần đây, không tồn đọng nợ xấu. Vì thế, tuy việc sản xuất kinh doanh có phụ thuộc nhiều vào vốn vay nhưng với uy tín và năng lực sản xuất của mình công ty luôn tin tưởng và đảm bảo được độ ổn định về vốn từ nguồn tín dụng như: chiếm dụng của khách hàng, nhà cung cấp, hợp đồng vốn vay tín dụng của ngân hàng. 2.2.1.1.4 Năng lực marketing của công ty Để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, đối với doanh nghiệp công tác quảng bá hình ảnh, danh tiếng của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tạo niềm tin cho đối tác, khách hàng vào năng lực nhân lực, tài chính, máy móc thiết bị, kinh nghiệm của công ty… Để giữ vững và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng của công ty hàng năm các phòng ban lập danh sách khách hàng gửi về phòng tổ chức hành chính đề nghị gửi thư chúc tết hoặc tặng lịch hoặc gửi thiếp chúc mừng thăm hỏi dịp lễ tết. Các bộ phận trưởng phòng hoặc cán bộ nhân viên được lãnh đạo công ty giao nhiệm vụ trực tiếp nhằm xây dựng mối quan hệ giữa công ty với khách hàng càng tốt đẹp. Công ty đã xây dựng trang website của công ty để khách hàng, đối tác có thể tiếp cận, nắm bắt nhanh thông tin, dễ dàng truy nhập. Hiện nay, công ty Lanmak chưa đầu tư nhiều vào công tác marketing, cụ thể là nhân lực trong lĩnh vực này chỉ có vài người và cũng không có chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực marketing. Việc công ty có nhận được hợp đồng kinh tế lớn, được các đối tác tín nhiệm là do công ty có mối quan hệ tốt với các đối tác. Trình độ nắm bắt thị trường của công ty còn hạn chế, chi phí cho hoạt động marketing chưa nhiều, điều đó khiến cho việc nắm bắt nhu cầu thị trường đặc biệt nhu cầu thị trường trong dài hạn còn yếu kém. Hoạt động marketing của công ty chưa được chú trọng, cụ thể là công tác quảng bá hình ảnh của công ty được thực hiện đồng thời với bộ phận làm công tác đầu thầu. Sàn giao dịch bất động sản đã thành lập nhưng vẫn chưa chính thức đi vào hoạt động. Là thành viên của Tổng công ty xây dựng Hà Nội, công ty Lanmak thừa hưởng những thành tựu về hình ảnh thương hiệu của Tông công ty xây dựng Hà Nội bằng chứng là tháng 7 năm 2009 chi nhánh Hà Nội của Tổng công ty đã sát nhập vào công ty Lanmak trong đó có 500 triệu giá trị thương hiệu. Chính những điều đó, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Lanmak. 2.2.1.1.5 Năng lực lao động của công ty Đối với bất kì loại hình kinh doanh nào thì lực lượng lao động luôn là yếu tố sản xuất quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Với ngành nghề kinh doanh đa dạng nên lực lượng lao động của công ty rất đa ngành nghề. Lực lượng lao động của công ty bao gồm hai nhóm: Lực lượng lao động thường xuyên trong danh sách và lực lượng thuê ngoài theo mùa vụ. Hiện nay công ty duy trì mức lao động vào khoảng 262 lao động, với trình độ khác nhau. Bảng 2.6: Lao động của công ty năm 2007-2009 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2007 Năm 2008 Năm2009 Lao động sử dụng bình quân Người 249 254 262 Nguồn: Phòng tổ chức- hành chính Bảng 2.7: Thống kê công nhân kĩ thuật lành nghề TT Chuyên môn đào tạo Tổng số Trình độ cấp bậc Cấp bậc BQ 1 2 3 4 5 6 7 1 Công nhân điện, nước 24 3 12 5 2 1 1 3,54 2 Công nhân xây dựng 69 2 23 17 23 3 1 4,07 3 Công nhân sữa chữa 7 2 2 3 4,14 4 Công nhân đo đạc khảo sát 2 1 1 3,5 5 Công nhân lái xe con 3 1 2 3,67 6 Công nhân lái xe tải 3 1 1 1 3 7 Công nhân lái cẩu 12 5 5 1 1 3,83 8 Công nhân lái máy xúc, cẩu 7 1 3 3 3,29 9 Công nhân sắt 25 1 4 7 8 3 1 1 3,6 10 Thợ thông gió 15 2 3 4 5 1 4 11 Thợ cơ khí, kết cấu 24 3 3 9 7 1 1 4,13 12 Công nhân viễn thông 9 1 1 4 3 4 13 Thợ hàn 12 2 4 4 1 1 3,58 TỔNG CỘNG 212 1 19 66 65 48 9 4 3,86 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Bảng 2.8: Cơ cấu trình độ lao động của công ty Lanmak năm 2009 Nội dung Số lượng(người) Tỉ lệ(%) Đại học 38 14,5 Cao đẳng 7 3 Trung cấp 5 2 Công nhân kĩ thuật, nghề 212 80,5 Nguồn: Phòng tổ chức- hành chính Qua bảng trên, số lượng lao động sử dụng bình của công ty qua các năm biến đổi không nhiều. Cụ thể, số lao động sử dụng bình quân năm 2007 là 249 người, đến năm 2008 là 254 và đến năm 2009 là 262 lao động. Nếu đem so sánh với quy mô lao động của các doanh nghiệp trong cả nước thì quy mô lao động của doanh nghiệp thuộc vào doanh nghiệp có quy mô vừa. Về chất lượng, theo báo cáo tổng hợp nhân sự tháng 12/2009 thì tổng số lao động của công ty đang làm ở văn phòng và các đội của toàn công ty thì có 38 người có trình đại học, số lao động trình độ cao đẳng 7 người, số lao động trình độ trung cấp, số lao động trình độ công nhân kĩ thuât, nghề 212 người. Như vậy, tỉ lệ lao động đạt trình độ kỹ sư, cử nhân là 14,5%; trình độ cao đẳng là 3%; trình độ trung cấp là 2%; và 80,5 % là công nhân kĩ thuật và nghề. Các con số tương ứng về trình độ lao động của ngành xây dựng trong năm 2008 của tổng cục thống kê là 10,73% đạt trình độ kĩ sư, cử nhân; 11,5% đạt trình độ cao đẳng; 7,1% đã qua đào tạo tại các trường trung học chuyên nghiệp và 33,5% lao động ở trình độ công nhân kĩ thuật. Nhìn khái quát có thể thấy tất cả công nhân làm việc trực tiếp đều được đào tạo nghề. Tuy nhiên trình độ bậc thợ bình quân đạt mức trung bình 3,86(mức bậc thợ công nhân cao nhất hiện nay là 7). Số lượng công nhân có bậc thợ 6, bậc 7 chiếm tỷ lệ thấp chiếm khoảng 6% trong tổng số công nhân kỹ thuật lành nghề. Trong khi đó chỉ tập trung ở mức 3, 4, 5 là chủ yếu vẫn có thợ bậc 1, có tới 19 công nhân bậc 2. Như vậy, so với mặt bằng của toàn ngành thì lao động đã qua đào tạo của công ty có chỉ tiêu đạt mức trên trung bình của toàn ngành, có chỉ tiêu đạt thấp hơn trung bình của toàn ngành. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và chất lượng sản phẩm do đó cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong những năm tới công ty cần phải nâng cao năng lưc lao động của công ty, mà cụ thể là nâng cao chất lượng lao động. Với phương châm hoạt động con người là tài sản vô giá, nên ngay từ khi mới thành lập công ty đã chú trọng việc chăm lo đời sống tinh thần của người lao động. Do đó, tuy mới được thành lập những năm gần đây nhưng Lanmak đã thu hút những lao động có tay nghề và tạo ra không khí lao động hăng say hiệu quả góp phần tăng năng suất lao động từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Một số phương pháp công ty đã sử dụng để nâng cao trình độ lao động: Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc: Việc đào tạo được bắt đầu bằng sự giới thiệu và giải thích của người dạy cho người học về mục đích của công việc, của hoạt động đồng thời chỉ dẫn tỉ mỉ về cách quan sát, trao đổi, làm thử cho tới khi thành thạo. Công ty sử dụng để dạy các kỹ năng cho người lao động thời vụ và lao động phổ thông. Đào tạo theo kiểu học nghề: Chương trình đào tạo bắt đầu bằng việc học lý thuyết ở trên lớp, tiếp theo các học viên được đưa đến làm việc với sự hướng dẫn của công nhân lành nghề. Công ty sử dụng phương pháp này để đào tạo tất cả các kỹ năng cần thiết để thực hiện một công việc cho các công nhân kỹ thuật. Kèm cặp và chỉ bảo: Công ty sử dụng để những người có trình độ giỏi, có kinh nghiệm kèm cặp, chỉ bảo cho các nhân viên giám sát để thực hiện công việc trước mắt và tương lai. Các bài giảng, các hội nghị và hội thảo: Trong các buổi giảng và hội nghị, hội thảo sẽ có những bài thuyết minh theo những chuyên đề và hình thành các nhóm làm việc với nhau. 2.2.1.2 Các nhân tố bên ngoài 2.2.1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô Nhân tố kinh tế: Trong hai năm 2008 và 2009 nền kinh tế thế giới co nhiều biến động. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới Việt Nam cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái. Năm 2009, mặc dù nền kinh tế trong nước cũng đạt mức tăng trưởng nhất định, tuy nhiên có nhiều biến động. Với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thi công xây lắp, lý do tài chính đã khiến số lượng công trình khởi công ít, bên cạnh đó với các công trình công ty đang thi công, biến động về giá cả thị trường của một số mặt hàng nguyên vật liệu chính đã ảnh hưởng đến hoạt động xây lắp của công ty. Do công ty mới thành lập và ngay từ giai đoạn mới thành lập tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động mà hoạt động dự án và giao dịch bất động sản chu kì kinh doanh kéo dài( từ 3 năm đến 5 năm), nên kết quả hoạt động của những năm qua hầu như chưa được ghi nhận. Gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đã tạo ra hơn 400.000 tỷ đồng vốn giá rẻ cho người đi vay. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để vay tiền bất chấp nhu cầu thực tế khiến tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên mức 37.4%, vượt xa mục tiêu 25% của ngân hàng Nhà Nước. Năm 2010, áp lực trả nợ đè nặng lên nhiều doanh nghiệp bởi việc chi tiêu "quá đà" trong năm trước. Ngoài ra, ngân hàng Nhà Nước đặt mục tiêu kiểm soát tín dụng ở mức 25% để phòng ngừa nguy cơ lạm phát khiến cho nguồn vốn ngân hàng càng trở nên khan hiếm. Do vậy lãi suất cho vay của các ngân hàng chạm đỉnh, lãi suất cao đã ảnh hưởng chi phí cho doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhân tố thuộc pháp luật và chính trị: Thị trường có tác dụng như một “bàn tay vô hình” điều tiết nền kinh tế. Song nếu chỉ cần phó mặc cho thị trường thì rất dễ đi đến khủng hoảng thừa hoặc thiếu. Vì vậy cần một “bàn tay hữu hình” can thiệp đúng hướng dẫn nền kinh tế đi đúng mục tiêu chiến lược đã chọn, đó chính là sự điều tiết của Nhà nước. Sự ổn định về chính trị và hệ thống pháp luật hoàn thiên có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty. Hệ thống chính sách của nước ta đã và đang được sửa đổi, bổ sung, dần hoàn thiện với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Các quy định của quản lý vĩ mô của chính phủ như: Quy định về chống độc quyền, thuế… Luật đấu thầu, luật xây dựng, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp, luật sáng chế… Các chế độ đãi ngộ đặc biệt Quy định về thuê mướn và khuyến mãi Quy định về bảo hộ và an toàn trong lao động… Là yếu tố quan trọng để xác lập môi trường kinh doanh cho công ty hoạt động, nó có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho công ty. Những chính sách, cơ chế của Nhà Nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tạo điều kiện phát triển các ngành trong nền kinh tế, ngành xây dựng, các doanh nghiệp xây dựng nói chung và công ty Lanmak nói riêng tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ đào tào nguồn nhân lực, hỗ trợ trong sản xuất kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức mạnh cạnh tranh của công ty. Và các nghị định, văn bản hướng dẫn như: Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 về quản lý các dự án đầu tư và xây dựng công trình Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư và xây dựng công trình Thông tư của Bộ xây dựng số 08/2005/TT-BXD ngày6/5/2005 hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình và xử lý chuyển tiếp thực hiện nghị định số16/2005/NĐ- CP ngày 7/2/2005 của Chính phủ. Bên cạnh những thuận lợi các nghị định, quy chế, chính sách về đấu thầu gây ra không ít khó khăn cho các công ty, bởi hiện nay văn bản pháp luật của nước ta trong các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực xây dựng nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập. Mặc dù, Chính phủ đã rất nhiều lần sửa đổi nhưng những bất cập đó vẫn chưa được khắc phục. Chính sách cắt giảm các thủ tục liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản tạo điều kiện các dự án khả thi nhanh được triển khai. Không những thế còn xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong công tác đấu thầu vẫn còn nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, bao cấp, một số nhà quản lý cứng nhắc trong quá trình điều hành khiến cho hiệu công tác đầu thầu chưa thật sự hiệu quả. Cạnh tranh mang tính toàn cầu muốn “hòa nhập mà không hòa tan” thì các quy chế, quy định của Nhà nước cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh ở trong nước, từ đó mới có thể vươn ra đứng vững trên thị trường quốc tế. Kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng nói chung, của công ty Lanmak nói riêng. Hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin… phát triển sẽ góp phần làm giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu cho việc thi công, xây lắp tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế nói chung cho công ty nói riêng. Ngược lại, hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển làm tăng chi phí của công ty làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty. Công ty có điều kiện thuận lợi đặt ở khu vực có nhiều điều kiện về cơ sỏ vật chất kĩ thuật ở trung tâm thành phố, hạ tầng giao thông thuận lợi cho hoạt động giao dịch, Mặt khác có thể thu hút các nguồn lực dồi dào. Bên cạnh đó công ty gặp khó khăn là sự cạnh tranh của rất nhiều công ty hoạt động trong ngành đóng trên địa bàn. Các nhân tố về khoa học công nghệ Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã đem lại ứng dụng cho các ngành trong nền kinh tế. Đặc biệt là những ứng dụng của khoa học công nghệ trong ngành xây dựng góp phần giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thi công xây dựng, nâng cao độ chính xác của công việc tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Nhờ có khoa học công nghệ phát triển góp phần cho công ty trong việc nắm bắt, xử lý, truyền đạt thông tin như nhu cầu của thị trường, những biến động của nền kinh tế… Các nhân tố tự nhiên Yếu tố tự nhiên cũng là một trong các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những biến đổi bất thường của khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng nói chung của Lanmak nói riêng. Ngày nay, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự khan hiếm của các nguồn lực đầu vào, thiếu năng lượng… làm cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng làm gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2.1.2.2 Nhóm các điều kiện vi mô Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ Thực hiện chương trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cùng với sự tiến bộ của đời sống nhân dân. Điều này làm cho hoạt động xây dựng tại Việt Nam những năm gần đây rất sôi động và đa dạng ở nhiều lĩnh vực như xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, giao thông đô thị, cầu cống… đã tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp xây dựng nói chung và cho công ty nói riêng. Hiện nay trên thị trường xây dựng xuất hiện nhiều công ty, tổng công ty, tập đoàn. Trong ngành xây dựng công ty Lanmak gặp rất nhiều trở ngại do đây là ngành mà có rất nhiều công ty tham gia và sức cạnh tranh của họ cũng rất lớn về mặt nhân lực, tài chính cũng như kinh nghiệm trong thi công xây lắp. Các đối thủ cạnh tranh của công ty không những là các tổng công ty lớn: Tổng công ty Sông Đà; Tổng công ty Vinaconex; Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Lũng Lô; Tổng công ty xây dựng Thăng Long… Và một số công ty khác như: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Thanh Nam, công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Licogi 18, công ty cổ phần xây dựng Sông Hồng… Sự xuất hiện hay mất đi mỗi đối thủ cạnh tranh cũng sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới doanh nghiệp cùng ngành vì thế phân tích đối thủ cạnh tranh là việc rất quan trọng. - Tổng công ty xây dựng Sông Đà: có thế mạnh và uy tín trong việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện, thủy điện. Hạn chế: bộ máy cồng kềnh, quản lý kém hiệu quả. - Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Lũng Lô, Tràng An: có kinh nghiệm trong việc thi công các công trình có tính chất đặc biệt, các công trình an ninh quôc phòng. Đồng thời công ty này còn có sức mạnh về huy động nguồn nhân lực. Điểm yếu: việc quản lý chưa đạt hiệu quả, ngành nghề không đa dạng. Ngoài ra còn có rất nhiều các công ty vừa và nhỏ hoạt động trong ngành xây dựng Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có sự tham gia của các công ty nước ngoài có uy tín lớn, có tiềm lực về tài chính, công nghệ, tổ chức quản lý, kinh nghiệm. So sánh mối tương quan giữa công ty với các đối thủ cạnh tranh thì mỗi công ty đều có những lợi thế và điểm yếu riêng. Những tập đoàn lớn mạnh thì có thế mạnh về vốn lớn, thị trường rộng khắp, máy móc thiết bị hiện đại, có uy tín. Chính vì các đối thủ cạnh tranh của công ty khá mạnh mà công ty là doanh nghiệp mới tham gia thị trường xây dựng nên gặp nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty: lợi nhuận thấp, thị phần nhỏ. Sau đây chúng ta đi phân tích các kết quả hoạt động kinh doanh của một số đối thủ cạnh tranh với công ty Lanmak năm 2009. Bảng 2.9: Bảng so sánh kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 2009 với một số đối thủ cạnh tranh Đơn vị: triệu đồng Công ty Tổng DT (1) LN sau thuế (2) Doanh lợi DT(%) (3)=(2)/(1)*100% Công ty CP đầu tư và xây dựng Thành Nam 289.773 10.667 3,68 Công ty CP xây dựng Sông Hồng 323.661 40.392 12,48 Công ty Lanmak 72.827 1.943 2,67 Nguồn: Báo cáo tài chính của các công ty Qua bảng số liệu trên và biểu đồ ta thấy năm 2009 so với các đối thủ cạnh tranh thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty còn thấp. Nguyên nhân do công ty phải bỏ rất nhiều chi phí đặc biệt là chi phí quản lý doanh nghiệp, phần khác công ty mới tham gia vào ngành xây dựng nên các gặp khó khăn trong tìm kiếm đối tác vì uy tín, thương hiệu của công ty thấp hơn các đối thủ. Sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn tiềm ẩn Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố giảm lợi nhuận của công ty do họ đưa vào khai thác công nghệ mới, hoặc nhiều nguồn lực lớn hơn mà đối thủ cạnh tranh hiện tại không có. Mặc dù, để tham gia thị trường xây dựng đòi hỏi yêu cầu vốn lớn nhưng trước sự hấp dẫn phát triển của ngành xây dựng Nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với đó quá trình đô thị hóa ngày càng đòi hỏi phát triển các khu công nghiệp, đô thị, cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cuộc sống. Hàng năm có rất nhiều doanh nghiệp mới tham gia vào ngành xây dựng, tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hơn nữa, xu hướng quốc tế hóa và sự cởi mở của chính sách sẽ có không ít các doanh nghiệp mới không chỉ là các doanh nghiệp Việt Nam mà còn các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào ngành xây dựng. Hiện nay, các công ty nước ngoài thâm nhập vào thì trường Việt Nam theo các cách như: mở văn phòng đại diện ỏ Viêt Nam, hoặc hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam tiến tới hình thành các liên doanh. Bên cạnh đó là sự lớn mạnh của các công ty địa phương, các công ty này tuy chưa thể chiếm lĩnh thị phần so với các công ty lớn nhưng lại có lợi thế khu vực. Sự gia nhập và xuất hiện mới làm tăng tính chất và quy mô cạnh tranh. Tác động của nhà cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp Nguyên vật liệu đầu vào: Tùy vào từng loại công trình và những yêu cầu cụ thể của sản phẩm xây dựng mà việc cung cấp các danh mục các loại nguyên vật liệu và thời gian cung ứng theo tiến độ công trình là khác nhau. Tuy nhiên, có yêu cầu chung với tất cả là phải tuân thủ theo nguyên tắc: - Đủ số lượng - Đủ chủng loại phẩm cấp - Chất lượng đảm bảo tốt theo tiêu chuẩn đã quy định, theo yêu cầu kĩ thuật hoặc theo yêu cầu đặc biệt. - Đảm bảo thời gian cung ứng kịp thời để công trình diễn ra theo đúng tiến độ Các vật tư đều có chứng chỉ chất lượng kèm theo cam kết cung cấp của các nhà cung ứng, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Do công ty luôn làm ăn theo hợp đồng, quan hệ hợp tác uy tín nên được nhà cung cấp tạo điều kiện và thường xuyên có được các ưu đãi. Điều này sẽ đảm bảo tốt đầu vào và có được lợi thế về giá cả, chất lượng tạo ra lợi thế trong cạnh tranh cho doanh nghiệp. Việc lựa chọn vật tư, vật liệu cho xây lắp phải tuân thủ theo quy định rất ngặt nghèo. Nguyên liệu là yếu tố quan trọng và chủ yếu tới thực thể công trình. Một công trình có đạt được chất lượng tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào khâu sử dụng nguyên vật liệu nên đây là vấn đề luôn được công ty cân nhắc. Một số nhà cung cấp chính nguyên vật liêu, thiết bị đầu vào cho công ty là: công ty cổ phần thương mại sản xuất be tông Cổ Loa, công ty cổ phần bê tông Hà Nội, công ty xi măng Nghi Sơn, công ty gang thép Thái Nguyên… Công ty cổ phần gang thép Thái Nguyên: được thành lập năm 1959, chuyên sản xuất phôi thép và thép cán. Là vùng nguyên liệu thép lớn nhất Việt Nam và công ty luôn đảm bảo việc cung cấp thép đa dạng về chủng loại, xuất xứ rõ ràng, chất lượng nguyên vật liệu đảm bảo với giá cả hợp lý. Công ty xi măng Nghi Sơn: được thành lập năm 1995 là công ty liên doanh giữa Tổng công ty xi măng Việt Nam và tập đoàn xi măng Taiheiyo và công ty vật liệu Misubishi – những tập đoàn đa quốc gia có uy tín của Nhật Bản. Nhà máy là dự án đầu tư lớn nhất của Nhật Bản tại Việt Nam. Chất lượng xi măng được thiết kế sử dụng những kiến thức toàn diện và mới nhất. Công ty luôn phấn đấu xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược và lâu dài với các nhà cung ứng. Mối quan hệ đó vừa đáp ứng những lợi ích chung của đơn vị sản xuất và các nhà cung ứng, vừa đem lại lợi ích cho khách hàng của Xi măng Nghi Sơn theo phương châm "Hợp tác để cùng Phát triển" Công ty cổ phần bê tông xây dựng Hà Nội: được thành lập năm 1961, Công ty đã cung cấp hàng trăm ngàn m3 các sản phẩm bê tông, tham gia thi công hàng trăm công trình công nghiệp và dân dụng trên khắp mọi miền của Tổ quốc Việt Nam, tạo lập được những thành công đáng kể cùng sự tin tưởng hợp tác của các đối tác trong và ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26751.doc
Tài liệu liên quan