Chuyên đề Giải pháp nhằm phát triển thương hiệu của Tổng công ty cổ phẩn bảo hiểm Bảo Minh

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .1

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM .3

I.Những vấn đề chung về thương hiệu 3

II.Thương hiệu trong kinh doanh bảo hiểm .21

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU CỦA BẢO MINH .27

I.Sơ lược về Bảo Minh .27

1.Lịch sử truyền thống .27

2.Những thuận lợi và khó khăn .28

2.1.Thuận lợi .28

2.1.Khó khăn .30

3.Thực trạng hoạt động kinh doanh .31

3.1.Phát triển kênh phân phối .31

3.2.Đẩy mạnh hoạt động đầu tư . 32

3.3.Công tác giám định và bồi thường . 33

3.4.Các nghiệp vụ .33

3.5. Doanh thu và lợi nhuận . .35

II.Thực trạng thương hiệu của Bảo Minh .36

1.Hoạt động quảng cáo .36

2.Quan hệ công chúng .38

3.Đẩy mạnh hoạt động tài chính và hợp tác .40

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU CỦA BẢO MINH .41

I.Kế hoạch phát triển kinh doanh .41

1.Tầm nhìn chiến lược .41

2.Tôn chỉ hành động .41

3.Mục tiêu chiến lược 41

4.Chiến lược trên các lĩnh vực cụ thể .42

4.1. Sản phẩm .42

4.2.Dịch vụ khách hàng .42

4.3.Thị trường . .43

4.4.Hệ thống kênh phân phối . 44

4.5.Mô hình tổ chức . .44

4.6.Công tác cán bộ và nguồn nhân lực .45

4.7.Công nghệ thông tin .45

4.8.Hoạt động đầu tư tài chính . .46

4.9.Phát triển cơ sở vật chất .47

4.10.Quan hệ cộng đồng .47

II.Giải phát triển thương hiệu 47

1.Tăng cường khả năng tài chính .47

2.Chú trọng đầu tư sản phẩm 48

3.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo .49

4.Tăng cường dịch vụ chăm sóc khách hàng 49

5.Chiến lược đào tạo phát triển con người 50

KẾT LUẬN .52

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm phát triển thương hiệu của Tổng công ty cổ phẩn bảo hiểm Bảo Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cụ thể cho đối tượng: người tiêu dùng sẽ cảm nhận thấy ngay lợi ích mà doanh nghiệp mang lại thông qua hoạt động quan hệ công chúng. ở nước ta trong những năm gần đây đã có một số doanh nghiệp sử dụng PR như là một công cụ quan trọng tiếp thị và phát triển thương hiệu. có thể lấy các ví dụ như chương trình “Đèn đom đóm” của sữa cô gái Hà Lan; bia Tiger với tài trợ cho chương trình phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh; Bitis vơi chương trình quà tặng, giảm giá hàng cho học sinh các trường tiểu học, Lego với chương trình lì xì năm mới cho học sinh tiểu học… Đó là những hoạt động hết sức thiết thực đối với người tiêu dùng, để lại ấn tượng rất đẹp. Chính bởi sự thân thiện, sự gẩn gũi mà chương trình mang lại nó làm ấm lòng người, và nó cũng làm ấm dần cảm nhận tốt đẹp của người dân về thương hiệu đó. Chi phí cho PR thấp: sẽ không thể chỗi được khi nói rằng quảng cáo có chi phí cao hơn rất nhiều so với hoạt động quan hệ công chúng. Nắm bắt được lợi thế này, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã áp dụng rất thành công. Nếu so sánh chi phí để được mấy phút quảng cáo trên tivi hay phát sóng trên đài so với chi phí cho một bài trên báo chí thì chi phí dành cho quảng cáo trên tivi lớn hơn gấp nhiều lần. 5.2.3. Các công cụ quan hệ công chúng PR là một công cụ quan trọng trong tiếp thị và phát triển thương hiệu, nhằm trực tiếp vào đối tượng mục tiêu không chỉ là khách hàng tiềm năng mà còn nhằm thiết lập và khai thác quan hệ với các tổ chức xã hội, giới truyền thông, chính quyền, tài chính, địa phương, người trung gian, nhà phân phối, nhà cung cấp, cộng đồng… để tạo điều kiện phổ biến thương hiệu. Các công cụ mà doanh nghiệp sử dụng trong quan hệ công chúng là: Marketing sự kiện và tài trợ: tham gia tổ chức các sự kiện cụ thể như khai trương, động thổ, khánh thành, các lễ kỷ niệm… Đây cũng sẽ là dịp tót để khách hàng biết nhiều hơn về doanh nghiệp, hàng hóa và hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó tạo niềm tin và lòng tự hào cho đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp, góp phần củng cố mối quan hế giữa các bộ phận trong doanh nghiệp và gia tăng khả năng tuyên tryền từ chính những nhân viên trong doanh nghiệp. Tham gia các sự kiện, doanh nghiệp cần chuẩn bị tốt các chương trình quảng cáo, tuyên truyền. Cũng cần lưu ý rằng sự tham gia tràn lan các sự kiện thường làm cho doanh nghiệp phải chi phí quá nhiều, khi ấn tượng về thương hiệu của doanh nghiệp có thể bị xem nhẹ. Nên chọn lọc các sự kiện có liên quan và gắn bó với thương hiệu, cần tuyên truyền và cần có sự đầu tư thích đáng khi tham gia nhằm tạo sự chú ý của công chúng. Các hoạt động cộng đồng: Các hoạt động tài trợ và từ thiện cần trước hết xuất phát từ mục đích mang lại lợi ích cho cộng đồng. Các chương trình cho hoạt động này cần thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và không quá lạm dụng quảng cáo vì rất có thể sẽ tạo ra tác dụng ngược, gây khó chịu cho đối tượng được tuyên truyền. Hoạt động tài trợ cộng đồng và từ thiện thường được sử dụng trong quá trình quảng bá thương hiệu, bởi trong trường hợp này hình ảnh về một doanh nghiệp dễ được chấp nhận hơn là hình ảnh về một hàng hóa cụ thể. Việc quảng bá thương hiệu trong hoạt động từ thiện dễ làm cho đối tượng được tài trợ và tuyên truyền có cách nhìn sai lệch về ý đồ cũng như thiện chí của doanh nghiệp. Tham gia hội chợ triển lãm: đây là hình thức nhằm nâng cao mức độ nhận biết thương hiệu. Hình thức này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng cho các hoạt động hậu cần trước khi bước vào cuộc hội chợ hay triển lãm. Gian hàng hội chợ chỉ cung cấp một giao diện thương hiệu thân thiện về hình ảnh của công ty. Tham dự hội chợ cũng là một cơ hội để gặp gỡ các đối tác đến thăm quan hội chợ đang có nhu cầu tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh, đồng thời có thể nhận biết các đối thủ cạnh tranh và học hỏi về thiết kế các sản phẩm mang đặc tính khác biệt. Các ấn phẩm của công ty: Đây là nét riêng của từng doanh nghiệp và không phải doanh nghiệp nào cũng có ấn phẩm của riêng mình. Có thể là các ấn phẩm nội bộ mà cũng có thể là những trang quảng bá trên một số ấn phẩm của các cơ quan, đơn vị khác. Đó có thể là những phong bì, những túi sách, những giấy có tiêu đề, cặp đựng tài liệu, tập sách mỏng để giới thiệu, tờ rơi, tờ gấp, chính sách công ty… Tất cả những thông tin đều ít nhiều tạo lên trong tâm trí khách hàng cái tên của doanh nghiệp. Phim ảnh: có thể đó là những bộ phim nói về chính công ty nhằm thể hiện những nỗ lực của quá trình làm thương hiệu. Và nó nhằm gây tác động đến những cá nhân trong công ty trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Đó cũng có thể là các công ty tìm mua bản quyền của một số phim ảnh, đặc biệt là các phim truyền hình nhiều tập và tài trợ cho việc phát hành bộ phim này trên truyền hình. Điều này khá tốn kém và đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực về tài chính. Do đó, phổ biến vẫn là những phim nói về công ty để giới thiệu với công chúng về hình ảnh thương hiệu và con người công ty, từ đó nói lên được văn hóa của công ty và triết lý thương hiệu mà nó cố gắng theo đuổi. II. Thương hiệu trong kinh doanh bảo hiểm. 1.Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm 1.1.Đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ. 1.1.1.Tính vô hình: Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm mà khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay mùi vị của sản phẩm. Mặc dù khi mua họ nhận được các yếu tố hữu hình đó là giấy tờ trên đó in biểu tượng của doanh nghiệp, in tên gọi sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận. Người mua không thể cảm nhận được sản phẩm bảo hiểm thông qua các giác quan của mình như những sản phẩm vật chất khác. Đó chính là tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm. Chính tính vô hình này gây khó khăn trong việc giới thiệu, chào bán sản phẩm. Khi mua sản phẩm bảo hiểm người mua chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro. 1.1.2.Tính không thể tách rời và không thể cất trữ: Tính không thể tách rời thể hiện ở điểm việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó. Hay nói cách khác quá trình cung ứng sản phẩm và quá trình tiêu thụ sản phẩm là một thể thống nhất. Tính không thể cất trữ được thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất trữ vào trong kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này không thể xảy ra với sản phẩm hữu hình. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải chú trọng đến thời gian dành cho bán hàng cá nhân và cần nâng cao năng lực của các bộ phận cung cấp dịch vụ. 1.1.3.Tính không đồng nhất: Thể hiện ở chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, các yếu tố xung quanh. Ngoài ra giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ cũng khác nhau. Dù cùng được đào tạo bài bản và cùng một công ty đào tạo nhưng dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng nhất quán. Ngoài ra kinh nghiệm trải nghiệm của từng người là khác nhau nên khả năng bán hàng cũng theo đó mà không giống nhau. Cùng một sản phẩm nhưng có những người nói rất thuyết phục, gây dựng được lòng tin từ phía khách hàng nên hiệu quả công việc cao. Để nâng cao chất lượng dịch vu, giảm bớt sự không ổn định về chất lượng, các doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác tuyển chọn, đào tạo và khuyến khích những người trực tiếp bán hàng. Vì sản phẩm này có bán được không lại phục thuộc rất nhiều vào thái độ của nhân viên hoặc đại lý cung cấp dịch vụ đó. 1.1.4.Tính không được bảo hộ bản quyền: Khi một sản phẩm lần đầu được đưa vào thị trường thì doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký sản phẩm và bảo hộ bản quyền. Tuy nhiên việc phê chuẩn này đối với sản phẩm bảo hiểm chỉ mang tính nghiệp vụ kỹ thuật chứ không mang tính bảo hộ bản quyền. Vì vậy mà các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh có thể bán một cách hợp pháp các sản phẩm bảo hiểm là bản sao của các hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp khác. Do đó các doanh nghiệp bảo hiểm muốn cạnh tranh được trên thị trường phải làm chủ việc định phí bảo hiểm để đưa ra sản phẩm tương tự nhưng với mức giá cạnh tranh hơn. 1.2.Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm 1.2.1.Là sản phẩm “không mong đợi” Đây là một điểm rất khác biệt của sản phẩm bảo hiểm. Dù đã mua sản phẩm nhưng khách hàng đều không thích tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm đó, vì họ không mong muốn rủi ro xảy ra để được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Bởi khi rủi ro xảy ra tức là khách hàng có tổn thất về mặt vật chất và sức khỏe, có thể bị thương tích, thậm chí là mất tính mạng. Lẽ dĩ nhiên vì thế mà sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “không mong đợi”. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có khách hàng mua sản phẩm và doanh nghiệp không thể triển khai được. Cá nhân, tổ chức “không mong đợi” nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, với bất cứ ai. Điều quan trọng là doanh nghiệp cần lựa chọn thời điểm tuyên truyền về bảo hiểm thì doanh nghiệp vẫn có thể khai thác thành công. 1.2.2. Là sản phẩm của “chu trình hạch toán đảo ngược Trong khi các sản phẩm trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bảo hiểm, phí bảo hiểm - giá cả của sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên những số liệu ước tính các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi bồi thường (trả tiền bảo hiểm). Khoản chi này chủ yếu được dựa trên các số liệu thống kê trong quá khứ và ước tính cho tương lai. Công việc này đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ và cẩn thận nhằm giúp doanh nghiệp có thể bù đắp các chi phí có thể phát sinh và thu được lợi nhuận hợp lý. Việc xác định giá cả cho sản phẩm bảo hiểm là rất quan trọng, giá cả phải hợp lý thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh được, đặc biệt là với những doanh nghiệp vào thị trường sau. 1.2.3.Là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch” Hiệu quả của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố liên quan đến sự kiện bảo hiểm. Cụ thể khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường chi trả. Do vậy với việc thu phí trước, nếu không có hoặc có ít rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngược lại nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc quy mô lớn hơn dự kiến, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thua lỗ. Tức là trong lĩnhvực kinh doanh bảo hiểm, hiệu quả kinh doanh khó có thể xác định được ngay tại thời điểm sản phẩm được bán trong khi các lĩnh vực khác, hiệu quả kinh doanh có thể xác định được khá chính xác ngay tại thời điểm sản phẩm được tiêu thụ. Với khách hàng cũng vậy, khách hàng chỉ thấy được “tác dụng” của sản phẩm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với họ. Vì không phải khách hàng nào tham gia bảo hiểm cũng “được nhận” số tiền chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm (trừ trường hợp mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm). Hay chính xác hơn là khách hàng chỉ thấy được “tác dụng” của sản phẩm bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với họ. Ngoài ra người tham gia còn có thể được chia thêm lãi từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Vai trò của thương hiệu trong kinh doanh bảo hiểm 2.1.Định nghĩa thương hiệu bảo hiểm Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì thương hiệu có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau như: Thương hiệu bảo hiểm là tên của một doanh nghiệp bảo hiểm, nó gắn liền với câu khẩu hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm đó và có hình ảnh đi kèm làm cho người tiêu dùng phân biệt công ty bảo hiểm này với công ty bảo hiểm khác. Theo cách khác, thương hiệu bảo hiểm là những biểu hiện bên ngoài gắn liền với doanh nghiệp bảo hiểm như sản phẩm bảo hiểm, chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng. Có nhiều cách hiểu về thương hiệu là khác nhau tuy nhiên xét theo một cách đúng từ ngữ chuyên môn bảo hiểm thì có thể định nghĩa thương hiệu bảo hiểm như sau: Thương hiệu bảo hiểm là tên của doanh nghiệp bảo hiểm, nó gắn liền với các yếu tố biểu trưng của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm, như biểu tượng (logo), lời biểu ngữ hay khẩu hiệu (slogan) và các yếu tố đặc thù của doanh nghiệp bảo hiểm như sản phẩm bảo hiểm, khả năng bảo hiểm tài chính mạnh, những dịch vụ cung cấp để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm. 2.2.Vai trò của thương hiệu trong kinh doanh bảo hiểm Chữ tín và niềm tin là yếu tố quyết định tới sự sống của công ty bảo hiểm. Đó cũng như chính cái tên của doanh nghiệp hay thương hiệu của doanh nghiệp vậy. Điều đó cho thấy thương hiệu có vai trò quan trọng như thế nào trong kinh doanh bảo hiểm. 2.2.1.Thương hiệu là đặc trưng cho loại hình kinh doanh dịch vụ của mỗi doanh nghiệp. Thương hiệu gắn liền với các sản phẩm bảo hiểm của chính họ. Khi nhắc đến một loại sản phẩm bảo hiểm nào đó người ta nghĩ ngay đến sản phẩm đó là của doanh nghiệp nào. Điều đó cho biết doanh nghiệp đó đã có thương hiệu và thương hiệu đó được thể hiện qua sản phẩm gợi nhớ ấy. Ví dụ như khi nói đến Phú - tích lúy giáo dục, Phú tích lũy an khang là nghĩ ngay tới Prudential, còn khi nói tới An khang trường thọ, An gia thịnh vượng thì nghĩ ngay tới Bảo Việt. Đó chính là điểm mạnh mà mỗi doanh nghiệp bảo hiểm cần duy trì và phát huy. 2.2.2.Thương hiệu bảo hiểm là phương tiện để cạnh tranh Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình nên người tiêu dùng không thể kiểm nghiệm một cách trực tiếp ngay được mà phải sau một thời gian nhất định gọi là thời hạn bảo hiểm thì họ mới cảm nhận được. Trong khoảng thời gian đó có rất nhiều sự kiện xảy ra như việc trả tiền bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường cho người tham gia bảo hiểm. Người tiêu dùng sẽ dễ dàng trong quyết định mua sản phẩm hơn nếu đó là sản phẩm của doanh nghiệp có uy tín, có thương hiệu. Thương hiệu bảo hiểm là một yếu tố rất quan trọng tạo ấn tượng ban đầu ở người mua. Vì vậy để cạnh tranh trên thị trường, để chiếm lĩnh thị phần trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược quảng bá thương hiệu. 2.2.3.Thương hiệu bảo hiểm giúp thu hút đầu tư Cũng giống như những doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác, khi có thương hiệu thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tạo được sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ không ngần ngại đầu tư cho những doanh nghiệp kinh doanh tốt, chiếm lĩnh được sự tin tưởng của người tiêu dùng. Và điều đó cũng kéo theo việc doanh nghiệp sẽ có nhiều khách hàng hơn hay vốn đầu tư sẽ được tăng lên vì đóng phí bảo hiểm cũng là một hình thức góp vốn cho doanh nghiệp bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hộ (theo cam kết chia lãi - bảo hiểm nhân thọ) thông qua lãi suất giả định mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả cho khách hàng. 2.2.4.Thương hiệu làm tăng uy tín cho doanh nghiệp Chữ tín và niềm tin là yếu tố quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Yếu tố đó được tạo ra thương hiệu và thương hiệu phát triển yếu tố đó, phát triển sức sống của doanh nghiệp. Việc nâng cao uy tín của thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm bảo hiểm, giúp cho việc triển khai, khuếch trương tên tuổi được dễ dàng hơn, đồng thời doanh nghiệp bảo hiểm cũng giảm đáng kể chi phí thăm dò và khai thác thị trường mới. Tham gia bảo hiểm là bảo vệ tài chính khi không may rủi ro xảy ra, giúp họ phần nào bù đắp thiếu hụt trong lúc khó khăn, giúp họ yên tâm và nhanh chóng ổn định cuộc sống. Sự quan tâm từ phía khách hàng đã làm tăng uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm, được mọi người biết đến và tham gia. Tên doanh nghiệp hay chính thương hiệu đã mang lại sự tín nhiệm và tin yêu cho người tham gia bảo hiểm. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẨN BẢO HIỂM BẢO MINH I.Sơ lược về Bảo Minh 1.Lịch sử truyền thống Tổng Công ty Cổ phẩn Bảo Minh (gọi tắt là Bảo Minh) tiền thân là Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - được thành lập theo Quyết định số 1146TC/QĐ/TCCB ngày 28/11/1994 và được phép hoạt động theo Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm số 04TC/GCN ngày 20/12/1994 của Bộ Tài chính. Bảo Minh là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Năm 2004 Cổ phần hóa chuyển đổi Bảo Minh thành Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh. Cổ phần hóa là nhằm thực hiện đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, tạo mối liên kết giữa Bảo Minh và các cổ đông tương lai, đồng thời cũng là khách hàng lớn, có tiềm năng, tạo bước đột phá trong phương thức quản lý và điều hành, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; huy động thêm số vốn cần thiết từ các cổ đông bên ngoài để phát triển mạnh lên. Bảo Minh được thành lập năm 1994 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành bảo hiểm Việt Nam trong cơ chế thị trường, khi mà nền kinh tế đất nước đang hòa nhập dần vào kinh tế khu vực và thế giới. Điều này cũng thể hiện chủ trương của Nhà nước trong việc xóa bỏ sự độc quyền và mở rộng nhiều loại hình kinh doanh bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. 2. Những thuận lợi và khó khăn 2.1. Thuận lợi 2.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang có nhiều tiềm năng đầy hứa hẹn để các doanh nghiệp phát triển. Đó là, nền kinh tế sẽ tăng trưởng với tốc độ trên 8%/năm; các ngành kinh tế như: thương mại, hàng không, du lịch, khai thác và vận tải biển sẽ tăng tốc mạnh rồi lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước sẽ kết thúc vào năm 2009, số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng, trong đó, tập quán mua bảo hiểm để an toàn trong kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, thu nhập của người lao động ngày càng tăng lên. Năm 2006, thu nhập bình quân đầu người đạt 720 USD và năm 2007, dự kiến sẽ là 820 USD. Ngoài ra, cơ chế quản lý Nhà nước về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện hơn - là cơ sở vững chắc cho các thị trường bảo hiểm hoạt động lành mạnh. 2.1.2. Pháp luật của Việt Nam Một số công ty bảo hiểm phi nhân thọ mới xuất hiện làm cho thị trường thêm sôi động. Việc nhà nước ban hành một loạt các văn bản liên quan đến bảo hiểm trong thời gian qua đã dần dần hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho ngành dịch vụ tài chính quan trọng này. Ví dụ gần đây nhất là luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã ra đời và đang từng bước đưa vào áp dụng. Thủ tướng vừa ban hành Nghị định 45 về chính sách phát triển thị trường bảo hiểm, quy định chi tiết một số quy định của luật kinh doanh bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, điều đó tạo thuận lợi cho việc kinh doanh nói chung và kinh doanh bảo hiểm nói riêng được lành mạnh, công bằng hơn. 2.1.3. Vị thế của Bảo Minh Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam hiện có gần 20 công ty thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đang hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Dẫn đầu thị trường và nẵm giữ khoảng 60% thị phần chủ yếu vẫn là Bảo Việt, Bảo Minh. Tỷ trọng còn lại do các doanh nghiệp cổ phần khác và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ. Năm 2006, tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của Bảo Minh là 1386 tỷ đồng, nắm giữ 21,80% thị phần bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Điều này thể hiện rõ nỗ lực của Bảo Minh trong việc phát triển thị trường trong những năm qua.Hiện nay, Bảo Minh đứng vị trí thứ hai trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ sau Bảo Việt. 2.1.4. Thế mạnh của Bảo Minh Trên lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ thì thị phần của Bảo Minh như sau: Bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con người chiếm 14.6%, Bảo hiểm tài sản và thiệt haị chiếm 8.16%,Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển 25%,Bảo hiểm xe cơ giới chiếm 30%, Bảo hiểm cháy nổ 25.09% Đặc biệt, bảo hiểm hàng không chiếm 99.64% coi như độc quyền trong lĩnh vực này. Bảo Minh cần phát huy hơn nữa lợi thế của mình trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng không bên cạnh việc gia tăng doanh thu phí bảo hiểm đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. 2.1.5. Các cổ đông lớn của Bảo Minh Bảng 2.2 – Danh sách cổ đông sáng lập và tỷ lệ cổ phần nắm giữ STT Tên cổ đông Số cổ phần Tỷ lệ 1 Vốn nhà nước - Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước 27.342.000 63,00% 2 Tổng công ty hàng không Việt Nam 3.038.000 7,00% 3 Tổng công ty Xây dựng Sông Đà 1.736.000 4,00% 4 Tổng công ty Lương thực Miền Nam 1.413.200 3,26% 5 Tổng công ty Hàng hải Việt Nam 868.000 2,00% 6 Tổng công ty Hoá chất Việt Nam 868.000 2,00% 7 Tổng công ty XNK Xây dựng Việt Nam 868.000 2,00% 8 Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam 868.000 2,00% 9 Tổng công ty Bưu chính Viễn thông VN 434.000 1,00% 10 Tổng công ty Thành An 434.000 1,00% 11 Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp 434.000 1,00% TỔNG CỘNG 38.303.200 88,26% (Nguồn tài liệu: Bản cáo bạch Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh) Không phải ngẫu nhiên mà 10 tổng công ty lớn nhất Việt Nam đều tham gia làm cổ đông của Bảo Minh. Sức hút từ Bảo Minh - thương hiệu bảo hiểm đã được khẳng định trên thị trường - đối với các tổng công ty này là rất lớn. Việc tham gia của các cổ đông nói trên sẽ làm tăng thêm snh của Bảo Minh trên thị trường bảo hiểm vốn đã và đang có sự cạnh tranh khốc liệt bởi nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài. 2.2. Khó khăn 2.2.1. Kinh tế Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đương đầu với những khó khăn lớn như nạn dịch cúm gia cầm, hạn hán thiên tai nghiêm trọng…Tình hình chính trị kinh tế diễn biến phức tạp, thị trường xuất nhập khẩu một số mặt hàng có thế mạnh bị thu hẹp. Trong năm qua, mặc dù nguồn vốn ODA tăng cao, nhưng việc giải ngân của nguồn vốn này còn chậm, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ của nhiều công trình, gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động của ngành bảo hiểm. 2.2.2. Môi trường đầu tư Hải quan, Thuế, Ngân hàng, Công an là những cơ quan công quyền với chức năng làm dịch vụ, là “bà đỡ” cho doanh nghiệp, nhưng không phải lúc nào cũng tạo điều kiện tốt nhất mà họ có thể, nếu không có tác động qua lại. Dân gian có câu: “Ông có đưa chân giò bà mới thò chai rượu”. Khi “ông” chưa đưa chân giò, thì “bà” vẫn còn giấu chai rượu trong buồng. Đó là không khí xấu trong quan hệ giữa doanh nghiệp và cơ quan công quyền. Không khí này sẽ khiến những người có trách nhiệm khó khăn khi đi tiếp thị hình ảnh Quốc gia với bên ngoài. Vì thế, việc từng bước xử lý nghiêm sự nhũng nhiễu của các cơ quan công quyền đối với dân, nhất là doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài là nỗ lực cần thiết trong lộ trình tạo dựng hình ảnh đẹp cho môi trường đầu tư Việt Nam. 2.2.3. Thị trường bảo hiểm Điều đáng lo ngại nhất, là các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO. Trong khi, năng lực bảo hiểm của Việt Nam vẫn còn một khoảng cách nhất định với nhiều nước trên thế giới, nhất là về tài chính, công nghệ, con người và chất lượng dịch vụ. Đây quả là điều đáng lo! Chỉ đơn cử dịch vụ bảo hiểm tàu thủy dù đã lỗ đến 6 năm nhưng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn lao vào để kinh doanh lãng phí Bên cạnh đó, trong năm 2007, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục mở cửa thị trường bảo hiểm, số doanh nghiệp bảo hiểm không dừng lại ở mức 30 công ty như hiện nay, mà có thể tăng lên 50-60 doanh nghiệp. “Khi có nhiều công ty mới ra đời, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ quyết liệt hơn”. Ngoài ra, khi các công ty bảo hiểm mới ra đời, sẽ dẫn tới một cuộc săn lùng nhân lực ráo riết, trong đó, chính sách của những công ty mới thường khá uyển chuyển, như: thăng chức, lương cao, có cổ phiếu trong công ty. Đây cũng là một thách thức lớn mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải đối mặt trong thời gian tới. 3. Thực trạng hoạt động kinh doanh 3.1. Phát triển kênh phân phối Tổng công ty đã củng cố phòng hỗ trợ và phát triển đại lý và tạo điều kiện để phòng thực sự hỗ trợ cho các công ty thành viên trong công tác xây dựng và phát triển đại lý. Các hoạt động cụ thể là xây dựng chương trình thi đua khen thưởng ngắn hạn cho đại lý bảo hiểm xe gắn máy; tổ chức hội thảo phổ biến kinh nghiệm trao đổi nghiệp vụ về bảo hiểm tai nạn con người sử dụng điện; hướng dẫn, hỗ trợ các công ty có định hướng và xây dựng kế hoạch phát triển đại lý phủ kín địa bàn còn trống tại địa phương. Công tác triển khai hoạt động đại lý của công ty thành viên: Bảo Minh hiện có 8000 đại lý. Trong năm 2006 hệ thống đại lý đã trực tiếp khai thác chiếm 20% tổng doanh thu, doanh thu đại lý gián tiếp chiếm 60% tổng doanh thu. Số lượng đại lý chuyên nghiệp còn ít, chiếm 9% tổng số đại lý nhưng có doanh thu chiếm 21% tổng doanh thu của đại lý khai thác trực tiếp. Số lượng đại lý bán chuyên nghiệp chiếm 62% tổng đại lý và chiếm doanh thu 51,3%. Đại lý tổ chức chiếm 29% tổng số lượng đại lý và doanh thu chiếm 27,7%. Tổng công ty đã ký kết thỏa thuận hợp tác khung với 3 trong số 5 công ty môi giới hoạt động trong thị trường và sắp tới sẽ tiếp tục ký kết thỏa thuận với các công ty môi giới còn lại. Doanh thu qua kênh môi giới trong năm 2006 đạt 182,5 tỷ, tỷ lệ bồi thường 8,9% 3.2. Đẩy mạnh hoạt động đầu tư Từ thành công của năm 2006, bước sang năm 2007, Bảo Minh tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng; hoạch định chiến lược phát triển nghiệp vụ; tăng cường các biện pháp quản lý, nâng cao chất lượng công tác giám định, bồi thường các nghiệp vụ ở từng cấp: đơn vị và tổng công ty. Bảo Minh tập trung hoàn chỉnh các quy tắc, điều khoản, xây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31844.doc
Tài liệu liên quan