Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU. 1
Chương I: Vai trò của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế 3
I. Những vấn đề cơ bản về khoa học và công nghệ 3
1. khái niệm. 3
1.1 khái niệm khoa học 3
2.Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ 5
2.1 Bản chất của khoa học 5
2.2 Bản chất của công nghệ. 6
2.3 Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ. 8
3. Vai trò của khoa học công nghệ 9
3.1 Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. 9
3.2 Thoả mãn nhu cầu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường. 10
3.3 Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 11
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khoa học công nghệ 12
4.1 Tác động của môi trường quốc gia. 12
4.2 Tác động của thị trường 12
4.3 Toàn cầu hóa. 12
II. Tăng trưởng kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởg kinh tế 13
1. khái niệm tăng trưởng kinh tế. 13
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế. 13
1.2. Bản chất của tăng trưởng kinh tế 13
2. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế 13
2.1. Nhân tố kinh tế. 13
2.2 Nhân tố phi kinh tế. 17
III. Sự tác động của khoa học công nghệ đến tăng trưởng kinh 19
1. Mô hình Tân cổ điển. 19
1.1 Nội dung của mô hình. 20
1.2 Hàm sản xuất Cobb – Douglas. 20
2. Mô hình Solow. 21
Chương II: Thực trạng phát triển khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay 24
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay và thách thức của suy thoái kinh tế toàn cầu. 24
1. Bối cảnh kinh tế toàn cầu. 24
1.1 Diễn biến gần đây của xu hướng suy thoái kinh tế toàn cầu. 24
1.2 Những tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. 25
1.3 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. 28
2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế VN 29
2.1 Số lượng và quy mô tăng trưởng 29
2.2 Chất lượng tăng trưởng. 32
3. Tác động của kinh tế toàn cầu đến tăng trưởng của VN. 38
II. Thực trạng phát triển khoa học công nghệ Việt Nam. 41
1. Những thành tựu phát triển khoa học công nghệ. 41
2. Thực trạng nguồn nhân lực công nghệ cao của Việt Nam. 45
3. Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam. 47
4.Tiềm năng khoa học công nghệ của Việt Nam. 52
5.Đánh giá chung về tình hình phát triển KHCN của Việt Nam hiện nay. 52
III. Đánh giá tác động của KHCN đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 55
Chương III. Một số giải pháp tăng cường phát triển khoa học công nghệ nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. 58
I. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới. 58
II. Phương hướng tăng cường phát triển khoa học công nghệ. 61
1. Xu hướng phát triển Khoa học công nghệ thế giới. 61
1.1 Khuynh hướng đối với những nước phát triển: 61
1.2 Khuynh hướng đối với những nước đang phát triển. 62
2. Phương hướng, nhiệm vụ tăng cường phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam. 63
2.1 Định hướng chung của chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 của Việt Nam là: 63
2.2 Những nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa và học công nghệ 64
III. Giải pháp tăng cường khoa học công nghệ nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. 67
1. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH&CN. 68
2. Giải pháp tăng cường đầu tư cho phát triển KH&CN. 71
3. Giải pháp về chính sách, hành lang pháp lý. 71
1.1 Phải đổi mới về cơ chế tài chính. 72
1.2 Nhà nước nên xác định những đề tài có ảnh hưởng lớn .74
1.3 Trong những chính sách, nhấn mạnh đặc biệt chính sách 73
1.4 Hợp tác quốc tế vê khoa học công nghệ. 73
1.5 Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượ74
1.6 Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. 74
Kết Luận: 77
Tài liệu tham khảo: 78
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển khoa học công nghệ nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n năm trước; thu nhập bình quân đầu người không ngừng được cải thiện qua từng thời kỳ, vượt qua được tình trạng nước nghèo và kém phát triển, và chúng ta đang phấn đấu để sớm vượt qua được ngưỡng vước đang phát triển có thu nhập thấp.
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Tôc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn 1991 – 2005 đạt khoảng 7,5%
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2000 – 2008 kế hoạch 2009 và dự báo 2010 (%).
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
DB
2009
KH
2010
Tốc độ tăng trưởng GDP
6,8
6,98
7,08
7,34
7,79
8,4
8,2
8,5
6,23
6,5
7,0
Trong đó:
Nông, lâm, ngư nghiệp
1,0
4,6
3,0
4,2
3,6
4,4
4,0
3,4
3,7
4,0
4,5
Công nghiệp và xây dựng
2,3
10,1
10,4
9,5
10,5
10,2
10,6
10,4
10,5
11,0
11,4
Dịch vụ
10,2
5,3
6,1
6,5
6,5
7,3
8,5
8,3
8,7
8,9
9,4
Trong 5 năm 2001 – 2005, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả trong và ngoái nước, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao và tương đối bền vững, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm tăng 7,5%/năm trong đó nông – lâm – ngư nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%, mức cao nhất kể từ năm 1986 đến thời điểm năm 2005, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000.
Đến năm 2006 năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm cuối của Chiến lược 10 năm 2001 – 2010, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,17% (kế hoạch là 8%) và đạt cao hơn chỉ tiêu 7,5% - 8%/năm. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng tương đương với 720 USD, tăng 80 USD so với năm 2005. Đến năm 2007 nền kinh tế tiếp tục phát triển thuận lợi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2006 là gần 0,3%, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, tương đương 835 USD, đã tăng thêm 115 USD so với năm 2006, đến năm 2008 tốc độ tăng trưởng đã giảm xuống còn 6,23% những vẫn còn cao hơn với các nước trong khu vực và thế giới trong cùng thời kỳ, tăng trưởng trong cả 3 năm 2006 – 2008 vẫn đạt tiến độ kế hoạch đề ra (trên 7,5%), GDP bình quân đầu người đến 2008 là 1.024 USD.
Giá trị tăng thêm của các khu vực kinh tế đều được cải thiện do có sự giảm đáng kể chi phí trung gian trong chu trình sản xuất, kinh doanh, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng toàn nền kinh tế theo hướng bền vững. Khu vực nông, lâm, thuỷ sản năm 2006 tăng 3,4%; năm 2007 tăng 3,5% và dự kiến năm 2010 tăng từ 3 – 3,2%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng tương ứng là 10,37%; 10,6% và 9,5% - 10,2%; khu vực dịch vụ là 8,29%; 8,7% và 7,7 – 8,2%. Ngành công nghiệp tiếp tục là ngành có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng GDP.
Biểu đồ 2: Tốc độ Tăng trưởng GDP qua các năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng được cải thiện. Tuy nhiên theo nhiều đánh giá của trong nước và quốc tế, mặc dù Việt Nam đạt được những kết quả tăng trưởng cao, nhưng đó là kết qủa tăng trưởng theo chiều rộng chứ chưa có sức tăng trưởng theo chiều sâu. Việt Nam vẫn đang đứng ở trong ranh giới của những nước kém phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc.
2.2 Chất lượng tăng trưởng.
Trong nhiều năm qua tăng trưởng với chất lượng và hiệu quả cao hơn là mục tiêu được các ngành quan tâm và thực hiện tốt hơn. Tăng trưởng đã giảm bớt sự phụ thuộc vào yếu tố tăng vốn, nâng cao sự đóng góp của yếu tố lao động có chất lượng với năng suất cao, nâng cao hiệu quả quản lý và đưa các yếu tố về khoa học công nghệ vào chu trình sản xuất kinh doanh, giảm tiêu hao vật chất. Chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những bước cải thiện, các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
- Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước đổi mới, phần lớn dân số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là nước nghèo nàn và lạc hậu với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và có nhiều người trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho người dân. Đến năm 2007 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995 mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của nước ta đã tăng khoảng 2,8 lần.
- Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành công trong việc chống nghèo đói.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể, Nhờ chú trọng đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ sinh, nên chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 2006 HDI của Việt Nam đạt 0,709 cao hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển.
- Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Đến nay ở Việt Nam có có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có trường tiểu học và 99% xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã được hoặc vượt mức như tỷ lệ chết ở tre em dưới 1 tuổi thì chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của người dân (2006) đạt 71,3 tuổi. Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ôtô và sử dụng các phương tiện sinh hoạt cao như điện thoại di động, máy tính cá nhân… ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
- Cơ cầu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu năm 1990 ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP thì đến năm 2006 giảm còn 20,4% GDP, xét theo từng nhóm ngành, cơ cầu ngành kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực. Trong nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp tỷ trọng ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm, nhường chỗ cho ngành thuỷ sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ cũng thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch …
Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao động tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%), ngành điện, khí đốt, nước (tăng 11%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và quản lý. Hệ số vốn đầu tư phát triển so với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã tăng lên, mặc dù vẫn còn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ do chi phí lớn
- Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Sự chuyển đổi thể chế kinh tế hiện chủ yếu là dựa vào thị trường, để cho giá cả tự điều tiết, tôn trọng quan hệ cung cầu, khuyến khích kinh tế tư nhan, hình thành hàng loạt các thị trường. Cùng với việc hình thành khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành.
Nhìn chung, đánh giá về mặt lượng cho đến nay nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với mức độ khá cao và đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào về tăng GDP bình quân đầu người, giảm tỷ lệ nghèo đói, cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng năng suất lao động, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới thể chế. Tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách tổng quát, khách quan thì chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn chưa tốt:
*Có thể đánh giá chất lượng tăng trưởng theo nhiều cách khác nhau. Trong bài này chúng ta đi nghiên cứu đánh giá chất lượng tăng trưởng theo hiệu quả đầu tư hay thông qua chỉ số năng suất TFP.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua là do yếu tố nào là chủ yếu: gia tăng yếu tố đầu vào ( đất đai, lao động) hay la do yếu tố công nghệ? Để xác định sự đóng góp vào tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, và năng suất nhân tố tổng hợp TFP chúng ta sử dụng hàm Cobb – Douglas.
Hàm Cobb-Douglas: Yt = A.Ktα.Ltβ
Trong đó:
Y là biến số về sản lượng của nền kinh tế (thường được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội tại giá cố định).
K: là biến số về vốn.
L: là biến số về lao động.
A: là thể hiện trình độ công nghệ.
* Ta có chất lượng tăng trưởng liên quan đến tỷ trọng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp nên hiệu quả của tăng trưởng Việt Nam không cao. Tăng trưởng của nước ta đạt được chủ yếu do gia tăng về lượng các yếu tố đầu vào như vốn đầu tư, số lượng lao động. Chất lượng, hiệu quả đầu tư còn thấp, trình độ công nghệ lạc hậu và chất lượng lao động còn nhiều mặt hạn chế, đã đe doạ đến tính bền vững trong hiện tại và cả tương lai, tạo ra mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng) và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế nước ta hiện nay chủ yếu là do đóng góp của của yếu tố vốn và lao động, đóng góp của TFP có tăng nhưng còn rất thấp so với các nước đang phát triển ở Châu Á. Chúng ta có kết quả nghiên cứu về mức đóng góp của các nhân tố như sau:
Bảng 2: Mức đóng góp của các nhân tố đến tăng trưởng GDP (%).
Thời kỳ
1993 - 1997
Thời kỳ
1998 - 2002
Thời kỳ
2003 - nay
Tổng GDP
100
100
100
Đóng góp nhân tố vốn
69.3
57.5
52.7
Đóng góp nhân tố lao động
15.9
20
19.1
Đóng góp nhân tố TFP
14.8
22.5
28.2
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Theo kết quả trên từ năm 1993 cho đến nay đóng góp của TFP vào GDP có tăng lên nhưng còn chiếm tỷ trọng không lớn (từ 14,8% lên 28,2%); tỷ trọng đóng góp của lao động tăng lên trong giai đoạn 1998 – 2002 nhưng lại có xu hướng giảm xuống (từ 69,3% xuống còn 52,7%), tuy nhiên yếu tố vốn vẫn chiếm phần chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. So với các nứơc trong khu vực, tỷ trọng TFP trong tăng trưởng của nước ta còn thấp hơn rất nhiều (thời kỳ 1980 – 2000 ở Hàn Quốc là 39,96%, Ấn Độ là 40,78%).
Cơ cầu đầu tư của nước ta còn chưa hợp lý, hiệu quả đầu tư còn thấp, quản lý đầu tư còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả, thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và tăng liên tục, từ 2,7 (năm 1991) tăng lên 3,6 (năm 1997); tăng cao đột ngột năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số ICOR có giảm nhưng vẫn ở mức cao so với trước giai đoạn khủng hoảng là 4,9 (năm 2003) và lên cao nhất là 6,93 (năm 2005). Theo kết quả của WB, nếu so sánh với các nước thì chỉ số ICOR của Việt Nam so với Trung Quốc cao hơn khoảng 1,5 lần, với Thái Lan là 1,35 lần.
Năng suất lao động của nước ta hiện nay còn thấp hơn từ 2 đến 15 lần so với các nước trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động của Việt Nam mới đạt 1.260 USD (năm 2004); trong cả thời kỳ 2002 – 2005 đạt 1.243,4 USD còn thấp xa so với nhiều nước trong khu vực: Thái Lan 4.514,1 USD; Malaixia 11.276,2 USD, Hàn Quốc là 29.057,6 USD…. Năng suất lao động của nước ta tăng rất chậm chỉ khoảng 4 % - 5 %/năm.
Trình độ khoa học và công nghệ trong nền kinh tế của nước ta còn thấp, lạc hậu 3 – 4 thế hệ so với những nước công nghiệp phát triển, đứng thứ 92 trong số 117 nước được điều tra (WEF 2005 – 2006). Công nghệ trong các doanh nghiệp lác hậu nhiều thế hệ so với khu vực, chuyển giao công nghệ chưa có những tiến bộ cần thiết, trình độ công nghệ thông tin còn rất thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới đạt 20,6%; rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông tin về khoa học và công nghệ chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp đạt được trình độ công nghệ tiến tiến và phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Qua các chỉ số trên cho ta thấy tính chất tăng trưởng của nước ta còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào yếu tố vốn đầu tư, trong khi đó vốn tự có từ tích lũy trong nước còn có hạn, một phần quan trọng phải đi vay từ nước ngoài làm cho tăng trưởng có thể dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của thị trưởng vốn. Yếu tố lao động đượcc coi là nguồn lực nội sinh hiện đang có lợi thế so sánh như giá rẻ, dồi dào… đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố vốn trong tăng trưởng. Tình trạng này có thể được xem xét dựa trên các yếu tố cơ bản trong năng suất nhân tố tổng hợp, đó là hiệu quả đầu tư thấp, chất lượng lao động và năng suất lao động thấp, mặt bằng công nghệ trong nền kinh tế ở nước ta còn kém xa các nước trong khu vực.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng đóng góp các nhân tố đầu vào đối với tăng trưởng GDP (%)
Tác động của kinh tế toàn cầu đến tăng trưởng của VN.
Cuộc suy thoái kinh tế đang diễn ra và ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Vậy nó có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam hay không? Và nó ảnh hưởng như thế nào? Và mức độ ra sao?
Giống như hiệu ứng "domino" cuộc khủng hoảng tài chính – tín dụng bắt nguồn từ Mỹ đã dần lan sang các nước thuộc khu vực Châu Âu, Châu Á và đến cả những quốc gia thuộc khu tưởng chừng như ít ảnh hưởng như Trung Đông. Trước bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam cũng chịu nhiều tác động trực tiếp lẫn gián tiếp.
Ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu chủ yếu trên các mặt: Xuất khẩu, nguồn kiều hối, nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài, lượng khách du lịch, các lĩnh vực ngân hàng, tác động tâm lý đến thị trường trong nước, nhất là thị trường chứng khoán, vàng, ngoại tệ, bất động sản…
Nhiều nhận định cho rằng: “Đến nay cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ chưa tác động rõ rệt trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam”, hoặc “ tác động trực tiếp… cho đến thời điểm này là chưa có, nhưng có tác động gián tiếp ở mức độ không lớn, không nhiều”. Có những ý kiến thì cho rằng đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng sẽ rất chậm, nhưng ở lâu, không chỉ năm 2009 và sẽ gây thiệt hại không nhỏ, do nội lực của nền kinh tế nước ta còn yếu và đã hội nhập mức độ vào nền kinh tế thế giới, nhất là sau khi ra nhập WTO.
Qua những nghiên cứu trực tiếp ở một số quận trọng điểm và sở ngành chức năng của TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương và những ngày cuối tháng 11 – 2008 cho thấy: những tháng gần đây sức mua trên thị trường nội địa và xuất khẩu giảm rõ rệt, hàng hóa tiêu thụ khó khăn, nhiều mặt hàng giảm giá, (chỉ số giá CPI của thành phố Hồ Chí Minh tháng 11 tiếp tục giảm 0,69% so tháng 10, giá xuất khẩu gạo, cà phê, cao su giảm mạnh..), các doanh nghiệp đẩy mạnh chính sách khuyến mãi để kích cầu, nhiều doanh nghiệp doanh thu thụt giảm; số doanh nghiệp đăng ký mới trong 10 tháng đầu năm 2008 giảm và số đóng cửa, ngưng hoạt động tăng hơn so với cùng kỳ năm 2007; có nhiều doanh nghiệp cắt giảm lao động, thu hẹp sản xuất, thậm chí phá sản. Ngoài ra thị trường bất động sản ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục giảm mạnh. Thị trường chứng khoán gần đây diễn biến tương đối đồng điệu với thị trường thế giới và đã rơi đến tận đáy khi chỉ số HaSTC giảm xuống dưới mức khởi điểm 100 vào cuối tháng 11.
Tình hình đó rõ ràng là do tác động trực tiếp của các giải pháp kiềm chế lạm phát, nhưng không phải không có dấu hiệu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Lãnh đạo một số tỉnh ở đồng bằng Sông Cửu Long cho rằng cuộc khủng hoảng đã có tác động rõ rệt đến việc xuất khẩu lúa gạo và thuỷ sản các tỉnh.
Qua đó cho thấy tình hình kinh tế Việt Nam chịu sự tác động kép của 2 nhân tố:
Lạm phát và hệ quả của các chính sách kiềm chế lạm phát trong nước.
Tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Cho nên mức độ khó khăn của nền kinh tế sẽ kéo dài hơn và thiệt hại không nhỏ. Cần thấy rằng Việt Nam có thể là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất ở Châu Á do nội lực của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, tăng trưởng dựa nhiều vào nguồn lực bên ngoài (kiều hối, đâu tư nước ngoài…), xuất khẩu chiêm 3/4 GDP, thị trướng xuất khẩu chính lại là Mỹ, Nhật , EU. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sử dụng nhiều lao động, nên thất nghiệp sẽ gia tăng…
Tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2009 và những năm tới như thế nào, chịu sự tác động bất lợi hay thuận lợi nhiều hơn, khó khăn sẽ được khắc phục hay kéo dài phụ thuộc rất lớn vào việc nắm bắt tình hình và chủ trương chính sách của chúng ta, nhất là sự điều hành của Chính phủ.
Do chịu tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ giữa năm 2008 đến nay quý I/2009 của Việt Nam cũng bị suy giảm mạnh. Hầu hết các ngành sản xuất và dịch vụ đều bị giảm sút, thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp, triển vọng đầu tư nước ngoài và nguồn ngoại hối bị hạn chế
Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và xây dựng trong 2 tháng đầu năm 2009 giam mạnh. Nguyên nhân một phần là do các cơ sở sản xuất trong thời gian nghỉ lễ tết Nguyên đán và mới triển khai tìm kiếm ký kết hợp đồng, phân lớn do tiếp tục chịu tác động của cuộc suy giảm kinh tế toàn cầu. Trong đó, mức giảm tập trung ở các sản phẩm công nghiệp quan trọng như: thép, giày dép, quần áo; trừ một vài sản phẩm giữ mức tăng trưởng khá là dầu thô, điện, xi măng, chế biến thuỷ sản. Nhiều công trình dự án xây dựng, đầu tư bị chậm tiến độ triển khai do chờ vốn, chờ chính sách cũng là nguyên nhân làm giảm giá trị sản xuất công nghiệp
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, ngành nông nghiệp tiếp tục bị ảnh hưởng của dịch bệnh, giá thu mua thuỷ sản ở mức thấp trong khi chi phí đầu vào tăng cao, thị trường xuất khẩu có xu hướng bị thu hẹp nên cũng không đóng góp nhiều vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Bên cạnh đó cùng với sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới lượng khách du lịch quốc tế cũng giảm sút mạnh và có những tác động tiêu cực đến ngành dịch vụ và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Với những dấu hiệu trên dự báo tăng trưởng kinh tế quý I/2009 chỉ đạt khoảng 4 – 4,5%.
II. Thực trạng phát triển khoa học công nghệ Việt Nam.
Những thành tựu phát triển khoa học công nghệ.
Trong những năm qua hoạt động khoa học công nghệ Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định vã đã có những chuyển biến mới, tập trung vào nghiên cứu ứng dụng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp thiết thực, có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Lĩnh vực khoa học công nghệ được chú trọng, vốn đầu tư liên tục tăng trong cac năm.
Năng lực khoa học công nghệ đã được tăng cường và có bước phat triển mới. Các Viện nghiên cứu đầu ngành được trang bị tương đối hiện đại, cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ khá dồi dào. Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ ở nước ta và đang là lực lượng chính trong quản lý, vận hành và khai thác các dây truyền công nghệ nhập khẩu của nước ngoài. Đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất và dịch vụ đã được triển khai. Trình độ khoa học công nghệ của một số ngành, lĩnh vực đã được nâng lên. Việc chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp quốc doanh đã được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả va sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ. Một số kết quả nghiên cứu của các viện, trường đã được chuyển giao thông qua các chợ công nghệ và thiết bị,
Trong 10 năm qua KH&CN Việt Nam đã có những tiến bộ, gặt hái được nhiều thành công. Từ năm 2000 đến nay, KH&CN của nước ta đã tạo ra 142 giống cây trồng mới; 100% diện tích điều, 90% diện tích lúa, 80% diện tích bắp, 60% diện tích mía dung giống mới, tạo nhiêu giống thuỷ sản mới như cá rô phi toàn đực, cá mè toàn cái, tôm càng xanh, cua biển, ốc hương, bào ngư; làm chủ các công nghệ bê tong dự ứng lực (đến 60 m), bê tông đúc hẫng (đến 200 m), đóng tàu biển 100.000 tấn; ứng dụng thành công các kỹ thuật: ghép tạng, nội soi, chữa bỏng..; nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất vác xin với 9/10 loại trong chương trình tiêm chủng mở rộng; hàng trăm tiến bộ KHCN được chuyển giao ứng dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn; nhiều công trình KH – CN trong nước đã tiết kiệm cho quốc gia hàng trăm triệu USD so với công nghệ ngoại nhập…
* Những thành tựu nghiên cứu ứng dụng Khoa học công nghệ phục vụ phát triển ngành, lĩnh vực
- Khoa học xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội đã tập trung điều tra, nghiên cứu và cung cấp được những tư liệu và các luận cứ khoa học phục vụ thiết thực yêu cầu hoạch định các chủ trương, định hướng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và xây dựng các cơ chế chính sách quản lý kinh tế xã hội của nước ta trong tiến trình đổi mới.
- Khoa học tự nhiên.
Đã tăng cường các hoạt động điều tra nghiên cứu, đánh gía tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và phòng tránh thiên tai
Bước đầu đổi mới cơ chế quản lý, đa dạng hóa phương thức giao nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết hoặc ký hợp đồng với các tổ chức KH&CN được mở rộng và nâng cao hiệu quả.
- Khoa học công nghệ.
Trong lĩnh vực nghiên cứu Khoa học công nghệ đã tập trung triển khai nghiên cứu những đề tài cấp nhà nước và cấp bộ, tỉnh, thành phố phục vụ yêu cầu đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm. Ứng dụng trong sản xuất những kết quả nghiên cứu để cải tiến, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của các dây chuyền sản xuất hiện có; khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu trong nước; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước; lựa chọn và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đã được cải tiến, đổi mới và nâng lên một bước quan trọng góp phần phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Khoa học công nghệ cao đã có những bước phát triển nhanh. Hai khu công nghệ cao là TP. Hồ Chí Minh và Hoà Lạc đang được tập trung đầu tư xây dựng, đồng thời xúc tiến thu hút đâu tư. Nhiều tập đoàn và công ty lớn đã tiến hành đầu tư tại hai khu công nghệ cao này như tập đoàn Intel đầu tư dự án nhà máy sản xuất bộ vi xử lý với tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ USD và một số tập đoàn lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan
Trong nông nghiệp: đã áp dụng trong sản xuất các kết quả nghiên cứu vào sản xuất đại trà, nổi bật là thành áp dụng các giống mới, những tiến bộ kỹ thuật về ưu thế lai các loại giống cây trồng, vật nuôi được tạo lập nhờ kỹ thuật mới di truyền, công nghệ sinh học và các biện pháp đồng bộ về kỹ thuật canh tác, tưới tiêu, thâm canh, phòng trừ dịch bệnh tổng hợp, thay đổi cơ chế mùa vụ,.. là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định làm biến đổi về chất nền nông nghiệp nước ta cả về phương thức canh tác, cơ cấu mùa vụ, cả về năng suất và sản lượng.
Công nghiệp: có nhiều kết quả nghiên cứu về các công nghệ cơ bản trong gia công, chế tạo máy; công nghệ thiết kế, chế tạo phụ tùng, thiết bị, máy móc và công cụ; công nghệ khai thác, chế biến và sử dụng tổng hợp tài nguyên thiên nhiên; chế biến nông sản thực phẩm; các công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu và công nghệ tự động hoá đã được ứng dụng trong sản xuất
Lĩnh vực y tế: có những kết quả về miễn dịch học, trình độ khoa học và kỹ thuật trong chuẩn đoán và chữa bệnh, phòng chống các bệnh truyền nhiễm như viêm gan, viêm não Nhật Bản, các bệnh nhiễm khuẩn, hiểm nghèo..đã được ứng dụng trong thực tế. Đã nghiên cứu thành công đưa vào sản xuất một số vacxin viêm gan B, chống tả để đáp ứng yêu cầu phòng chống và điều trị của người dân.
2. Thực trạng nguồn nhân lực công nghệ cao của Việt Nam.
Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu và yếu, cung không kịp cầu
Hiện cả nước có 321 trường đại học, cao đẳng có đào tạo các ngành công nghệ cao (CNC) về: Công nghệ tin học, Công nghệ sinh học, Công nghệ vật liệu và 193 trường đại học, cao đẳng có đào tạo các ngành CNC trình độ cao đẳng. Nhưng trên thực tế, con số những sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng nói trên khi ra trường có thể làm được việc trong những lĩnh vực được đào tạo không nhiều.
Cụ thể trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), hiện các trường đại học trong cả nước cung cấp cho thị trường lĩnh vực này khoảng 110.000 kỹ sư/năm nhưng trên thực tế chỉ 10% sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT có thể phục vụ tốt ngành này. Điều này dẫn đến tình trạng mặc dù thiếu nhân lực nhưng các doanh nghiệp phần mềm không thể tuyển dụng ngay số lượng nhân viên như mong muốn.
Tương tự trong lĩnh vực Công nghệ vật liệu, nguồn nhân lực CNC cũng rơi vào tình trạng “ cung không kịp cầu” mặc dù việc đào tạo trong lĩnh vực này được triển khai ở hầu hết các trường trong cả nước như: ĐH Bách khoa Hà Nội . Bách khoa Đà Nẵng, Bách khoa TP.Hồ Chí Minh, ĐH Xây dựng, Viện khoa học Vật liệu xây dựng, Viện đào tạo quốc tế, Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D)...nhưng số liệu thống kê về số lượng đào tạo cũng chưa được cập nhật đầy đủ
Việc thiếu nguồn nhân lực CNC trong lĩnh vực Tự động hoá (TĐH) cũng đang diễn ra tình trạng đào tạo không kịp với nhu cầu sử dụng thực tế. Một thời gian dài, ngành TĐH chưa được đầu tư đúng dẫn đến việc thiếu trầm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Hầu hết số nhân lực TĐH chưa theo kịp được với nhu cầu phát triển của ngành
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học (CNSH), hiện nguồn nhân lực CNH của Việt Nam đang đi sau hàng chục năm so với nhiều nước đang phát triển. Tính đến năm 2007, Việt Nam mới đào tạo được 1.500 công nhân/kỹ sư, 400 thạc sỹ và 90 tiến sỹ và CNSH. Trong lĩnh vực gien thì con số đào tạo cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này cũng không quá 10 đầu ngó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp phát triển khoa học công nghệ nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.DOC