Chuyên đề Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu trong giai đoạn đến năm 2020

Mục lục

Lời nói đầu 1

Chương I: Sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu 5

1. Khái quát các đặc điểm của ngành công nghiệp đóng tàu 5

1.1. Khái niệm công nghiệp đóng tàu 5

1.2. Các đặc điểm cơ bản về công nghệ, kỹ thuật và quy trình của ngành công nghiệp đóng tàu 5

1.2.1. Đặc điểm cơ bản của ngành công nghiệp đóng tàu 5

1.2.2. Đặc điểm quy trình đóng tàu 6

1.3. Các bộ phận cơ bản của một con tàu và các loại tàu cơ bản 9

13.1. Các bộ phận cơ bản của một con tàu 9

1.3.2. Các loại tàu thủy chính 10

1.4. Các bộ phận trong một con tàu mà Việt Nam ta cần hướng tới sản xuất trong nước 11

2. Công nghiệp phụ trợ đóng tàu 12

2.1. Khái niệm công nghiệp phụ trợ 12

2.2. Công nghiệp phụ trợ cho đóng tàu 16

2.3. Phân loại các ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu 16

3. Sự cần thiết phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu 17

4. Những lợi thế của Việt Nam trong việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu 18

4.1. Những thuận lợi của Việt Nam trong phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu 18

4.2. Những khó khăn của Việt Nam trong phát triển công nghiệp đóng tàu 19

Chương II: Thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam trong thời gian qua 21

1. Khái quát thành tựu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong thời gian qua 21

1.1. Tình hình sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp đóng tàu trong thời gian qua 21

1.1.1. Tình hình kinh doanh của ngành công nghiệp tàu thủy 21

1.1.2. Cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp tàu thủy 28

1.2. Những khó khăn tồn tại của ngành công ngiệp đóng tàu Việt Nam ta trong thời gian qua 29

2. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam ta trong thời gian qua 31

2.1. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong thời gian qua 31

2.2. Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam 36

2.2.1. Số lượng các nhà máy 36

2.2.2. Về phân bổ các nhà máy 39

2.2.3. Về công nghệ đóng- sửa chữa tàu 39

2.2.4. Về các ngành công nghiệp phụ trợ 39

Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu trong giai đoạn đến năm 2020 50

1. Định hướng phát triển các ngành phụ trợ 50

1.1. Căn cứ xác định phương hướng phát triển của ngành công nghiệp tàu thủy nước ta 50

1.2. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển công nghiệp phụ trợ 52

1.2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu 52

1.2.2. Kế hoạch thực hiện 57

2. Các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu 60

2.1. Quy hoạch phù hợp và hiệu quả 60

2.1.1. Nội dung cơ bản của quy hoạch CNTTVN đến 2010 và định hướng đến 2020 mục tiêu phát triển quy hoạch 60

2.1.2. Quan điểm phát triển quy hoạch 61

2.1.3. Nội dung quy hoạch 61

2.2. Khuôn khổ pháp lý 62

2.3. Các chính sách hỗ trợ của Nhà Nước 63

2.3.1. Chính sách tín dụng đầu tư 63

2.3.2. Chính sách bảo hộ sản phẩm 63

2.33. chính sách kích cầu tiêu dùng sản phẩm trong nước 63

2.3.4. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển 63

2.3.5. Các chính sách thuế ưu đãi 63

2.4. Kêu gợi đầu tư nước ngoài 64

2.4. Đào tạo phát triển đội ngũ thiết kế, cán bộ kỹ sư và công nhân có trình độ cao 64

2.5. Đầu tư nâng cấp các cơ sở công nghiệp phụ trợ đã có để nâng cao năng lực sản xuất 65

2.6. Cần có sự phối hợp của các ngành các cấp liên quan 66

2.7. Đầu tư có lựa chọn, có ưu tiên 67

Kết luận 68

Danh mục tài liệu tham khảo 69

 

 

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2722 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu trong giai đoạn đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với năm 2007, sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế, kỹ thuật cao, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động với mức lương đảm bảo. Năm 2008, giá trị tổng sản lượng của Tập đoàn đạt trên 36.000 tỷ đồng, tăng 38,45% so với năm 2007. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp là 26.564 tỷ đồng, chiếm 72%, vận tải 5.463 tỷ đồng, chiếm 15%. Tổng doanh thu đạt trên 32.500 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2007. Năm 2009, Vinashin sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược xuất khẩu tàu thủy từ nay đến năm 2010 đạt xấp xỉ 1 tỷ USD/năm và đóng 3 triệu tấn tàu các loại cho các ngành vận tải biển, hàng hải, dầu khí, xi măng…để từ năm 2015 xuất khẩu được trên 2 tỷ USD/năm và đóng được 5 triệu tấn tàu mỗi năm. Tập đoàn Vinashin xác định, nhu cầu vận tải biển nước ta đến năm 2015 là rất lớn, cần tổng số đội tàu trong nước khoảng 5 triệu tấn trọng tải. Đến năm 2020, cần 25 triệu tấn tàu để đảm bảo vận tải Bắc -Nam khoảng 30 triệu tấn và 30% vận tải nhập khẩu dầu thô, dầu sản phẩm, quặng sắt, than đá… như vậy trung bình mỗi năm thị trường đóng tàu nước ta có thể đảm bảo 1 triệu tấn trọng tải. Bảng 3: Dự báo số tàu thuyền tăng thêm trong giai đoạn 2001-2010 và 2020 Tàu thuyền 2001-2010 2001-2010 2010-2020 2010-2020 chiếc triệu tấn Chiếc triệu tấn Tàu chở hàng 229 1.65 284 2.1 Tàu công-ten-nơ 28 0.47 58 1 Tàu chở dầu 37 1.11 43 Bang 4: Dự báo số tàu chở khách tới giai đoạn 2005-2010 Tầu thuyền 2005 2010 Đường biển 59 79 Đường sông 522 650 Tổng số 581 729 Đây là cơ hội lớn để Việt nam ta phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Bên cạnh đó, ngành tập trung cho các hợp đồng lớn với các nước như Anh Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… và phấn đấu giữ vững thị trường, uy tín của ngành đóng tàu Việt Nam hiện nay cũng như đón bắt cơ hội, chiếm lĩnh thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, khai thác triệt để các đơn hàng trong nước để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo việc làm cho người lao động. Bảng 5: Bảng năng lực đóng mới của Vinashin đến 2015 cỡ tàu tàu chở hàng <= 200000DWT tàu chở conteiner <= 7000TEU tàu chở dầu 300000DWT các loại tàu thủy khác tàu chở khách, tàu công trình, tàu cứu hộ, tàu quân sự, tùa cá,… 1.1.2. Cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp tàu thủy Về cơ sở hạ tầng, thì cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp đóng tàu hầu như dang ở giai đoạn củng cố hoàn thiện cơ sở hạ tầng hiện có, nâng cấp bổ sung trang thiết _ công nghệ mới để có thể đóng sửa chữa tàu phục vụ chủ tàu trogn nước và quốc tế. Cơ sở hạ tầng ngành đóng tàu được phân thành ba khu vực chủ yếu như sau: Thứ nhất khu vực Hải Phòng _ Quảng Ninh: Hải phòng hiện nay đanglaf nơi tập trung chủ yếu cảu các nhà máy đóng tàu của cả nước,các nhà máy đều được xây dựng từ những năm 60 – 70, cơ sở hạ tầng những năm gần đây đang được nâng cấp mở rộng và nâng cấp để đáp ứng nhu cầuddongs và sửa chữa trong nước và quốc tế. Tại đây có bốn tổ hợp đóng tàu lớn là Nam Triệu, Phà Rừng, Hạ Long, Bạch Đằng có khả năng đóng tàu tới 100000 tấn, cùng các khu công nghiệp Cái Lân, An Hồng sản xuất thép và đóng tàu, máy móc trnag thiết bị tàu thủy,… Thứ hai là khu vực miền Trung: các máy do địa phương bàn giao nhìn chung chưa được đầu tư, hầu hết là các cơ sở đóng và sửa chữa các loại tàu có trọng tải dưới 1000 tấn. Hiện nay đang được đầu tư nâng cấp để đóng các tàu đánh cá tàu ven biển có trọng tải đến 5000 tấn. Đang xây dựng các cơ sở hiện đại như Nghi Sơn – Thanh Hóa để đóng tàu trọng tải 50000 tấn, cơ sở tại Dung Quất – Quảng Ngãi để đóng tàu chở dầu có trọng tải cỡ 300000 tấn, cơ sở đóng tàu tại Đà Nẵng để đóng tàu trọng tải đến 100000 tấn,… Thứ ba là khu vực Miền Nam: các cơ cở mới đang được đầu tư xây dựng và nâng cấp đồng bộ, hoàn chỉnh và xây dựng hạ tầng để có thể đóng tàu đến 50000 tấn. Bao gồm các cơ sở như: công ty công nghiệp tàu thủy Sài Gòn được đầu tư cơ sơ hạ tầng để đóng và sửa chữa tùa biển đến 20000 tấn; công ty đóng tàu và công nghiệp hằng hải Sài Gòn đang được đàu tư để có khả năng sửa chữa tàu đến 20000 tấn. Các nhà máy đóng tàu Soài Rạp ( Tiền Giang), Nhơn trạch ( Đồng Nai), Cà Mau, Hậu Giang,… đang tiến hành xây dựng để đóng tàu có trọng tải đến 50000 tấn, 1.2. Những khó khăn tồn tại của ngành công ngiệp đóng tàu Việt Nam ta trong thời gian qua Theo đánh giá của một số chuyên gia, công nghiệp đóng tàu Việt Nam hiện chủ yếu vẫn là lắp ráp. Hợp đồng đóng tàu mới dừng lại ở trình độ làm gia công theo thiết kế các loại, mẫu mã, vật tư, nguyên liệu, động cơ, cũng như giám sát, đăng kiểm… đều của nước ngoài Chất lượng tàu biển Việt Nam tuy được cải thiện nâng cao nhưng chất lượng vẫn chưa thực sự đạt yêu cầu. Tuổi trung bình của cả đội tàu là 14,5 năm ở mức tương đối thấp so với các loại tùa của các nhà máy đóng tàu trên thế giới Năng lực cạnh tranh tấp. Trong năm 2007 toàn bộ đội tàu quốc gia mới chỉ tham gia vận chuyển được 21,4% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, do các nguyên vật liệu, các bộ phận để đóng tàu mới nước ta đang dùng chủ yếu hiện nay đều là đang được nhập khẩu nên giá thành tương đối cao so với tàu của các nước tự thiết kế sản xuất được toàn bộ con tàu. Thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao: thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề và công nhân chuyên môn phục vụ cho chuyên đóng tàu. Sinh viên ngành tàu thủy cũng giống như sinh viên của nhiều ngành khác cua nước ta ra trường về cơ sở họ lại mất công đào tạo lại từ đầu, do đó ngành vẫn thiếu những cán bộ có thể làm việc được ngay. Đội ngũ công nhân cũng như đội ngũ trí thức của ngành còn vừa yếu vừa kém cả về chất lượng cũng như số lượng. Thiếu đội ngũ thiết kế, nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đào tạo liên quan tới tàu biển. Chuyển giao công nghệ mà không có người có tay nghề để vận dụng thì cũng như không có công nghệ. Ngành đang thiếu trầm trọng những gười có đủ khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ, vận dụng được các công nghệ được chuyển giao. Thiếu những người làm công tác quản lý đóng tàu đủ tầm từ cấp tổ trưởng trở lên. Hầu hết các cơ sở nhỏ mới thành lập trong thời gian vừa qua đều có cơ sở vật chất kỹ thuật sơ sài, máy móc thiết bị thô sơ, cũ. Do nguồn vốn đầu tư hạn chế, đến nay, cơ bản nước ta chưa có công nghiệp phụ trợ cho ngành đóng tàu, hầu hết vật tư, máy móc phải nhập khẩu, dẫn đến giá trị gia tăng trong sản phẩm đóng tàu nhỏ bé, sức cạnh tranh thấp. Tập đoàn tàu thủy Việt Nam đang tập trung củng cố, hoàn thiện các cơ sở hiện có, nâng cấp, đầu tư trang, thiết bị, công nghệ tại ba khu vực: Hải Phòng-Quảng Ninh, miền trung và miền nam hình thành hệ thống công nghiệp phụ trợ. Công nghệ lạc hậu,hầu hết việc đóng tàu đều được thực hiện bằng các lao động chân tay đơn thuần Môi trường làm việc của công nhân không được đảm bảo, độc hại Năng suất lao động thấp, do trình độ công nhân thấp, cộng với thiếu đội ngũ giám sát nên năng suất làm việc c ủa ngành là tương đối thấp. Mất cân đối giữa tỷ lệ cơ sở đóng tàu và sữa chữa tàu biển: Việt Nam có nhiều nhà máy đóng tau, đội tàu biển tăng trưởng nhanh, nhưng lại co s quá ít cơ sở sửa chữa. Mặc dù nhà nước đã có quy hoạch ngành nhưng những dự án quy hoạch vẫn nằm trên giấy tờ, hoặc có được triển khai tì cũng rời rạc, thiếu tập trung. Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu còn hạn chế, vừa thiếu vừa yếu cả về chất và lượng, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạtkhoang 30-35% nên giá trị của tàu thấp. 2. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam ta trong thời gian qua 2.1. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong thời gian qua Trong những năm qua, ngành công nghiệp phụ trợ đã được chú ý đầu tư nhưng do nguồn vốn hạn chế nên hiện nay hầu như nền công nghiệp phụ trợ đóng tàu hầu như là không có. Hầu hết toàn bộ máy móc phục phụ cho đóng tàu đều phải nhập khẩu. Theo ước tính, trên 90% vật liệu phục phụ cho đóng tàu và sửa chữa tàu biển trong nước phải nhập khẩu từ nước ngoài với các thị trường chính là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Âu. Các cơ sở sản xuất vật liệu, máy và trang thiết bị dùng cho công nghiệp đóng tàu như vật liệu hàn, vật liệu chống cháy, máy lái, xuồng cứu sinh, thiết bị hạ xuồng, nồi hơi, chân vịt, neo, xích neo, trang bị nội thất, bảng điều kiển,sơn,…chúng ta đều có nhưng số lượng rất hạn chế. Số lượng các sản phẩm sản xuất trong nước đáp ứng được các tiêu chuẩn tế để lắp đặt trên tàu lớn là không đáng kể; mà chủ yếu các sản phẩm trong nước sản xuất ra chủ yếu là đóng các tàu nhỏ ven biển. Lượng thép và kim loại dung cho dóng tàu chế tạo trong nước chiểm một tỷ trọng hết sức nhỏ, không đáng kể; các cơ sở chế tạo động cơ diesel, động cơ điện, bơm, van,… là hầu như chúng ta chưa có. Tất cả các trang thiết bị trên tàu như vô tuyến điện, thông tin liên lạc, nghi khí hằng hải, thiết bị ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra và hầu hết các trang thiết bị cứu sing, cứu hỏa đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nước ta cũng có rất ít các cơ sở dịch vụ kỹ thuật hằng hải đủ năng lực để thực hiện kiểm tra không phá hủy; lắp đặt và bảo dưỡng các thiết bị hằng hải, vô tuyens điện, cứu sinh, cứu hỏa; kiểm tra và sửa chữa phần chìm của con tàu bằng thợ lặn,..gây nên nhiều khó khăn cho ngành công nghiệp đóng tàu và ngành vận tải tàu biển, đậc biệt là đối với các tùa đang khai thác. Nước ta cũng hầu như chưa có trung tâm thử nghiệm và cơ sở thí nghiệm đạt tiêu chuẩn để thử nghiệm vật liệu, động cơ, thiết bị điện, kết cấu chống cháy, trang bị cứu sinh, cứu hỏa, vô tuyến điện,.. theo quy định của hằng hải quốc tế (IMO) phục phụ cho công nghiệp đóng tàu và vận tải biển. Từ những yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp tàu thủy dẫn tới ngành công nghiệp tàu thủy của nước ta có bước phát triển nhanh, nhưng hiệu quả còn hạn chế và chưa vững chắc. Trước vận hội mới để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, vấn đề đặt ra cho công nghiệp tàu thủy trong những năm tới là phải tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ. Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy, trong 6 tháng đầu năm, hoạt động sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp đóng tàu tiếp tục đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ. Giá trị sản xuất đạt 4.430 tỷ, tăng 53,2%, doanh thu đạt 3.685 tỷ, tăng 48%. Theo Bộ Thương mại, dự kiến đến năm 2010 ngành đóng tàu Việt Nam có thể xuất khẩu được giá trị đạt 1,7 tỷ USD.Những thế mạnh của ngành đóng tàu Việt Nam là bờ biển dài 3.250km với nhiều địa điểm có thể xây dựng các cảng nước sâu có cơ hội để đón nhận xu thế đầu tư công nghệ diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Nhiều đánh giá cho thấy trong 5 năm tới, ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam có thể đóng được các loại tàu từ 150.000 tấn đến trên 200.000 tấn và sửa chữa được các tàu có trọng tải lớn hơn. Ngoài ra, có thể đa dạng hóa sản phẩm từ việc đóng được các loại tàu từ tàu dầu sản phẩm đến tàu dầu thô cũng như các tàu container, các tàu khách ven biển và các loại tàu hàng khác. Bên cạnh đó, mục tiêu khác mà ngành đóng tàu hướng tới là phải nội địa hoá trên 60% bằng việc ký một loạt các thoả thuận hợp tác về chuyển giao công nghệ cho mục tiêu nội địa hoá của ngành. Đồng thời nâng mức sản lượng từ 300.000 tấn tàu lên 3 triệu tấn vào năm 2010 và chiếm khoảng 6-7% thị phần đóng tàu thế giới với việc xây dựng thêm một số nhà máy đóng tàu lớn, sản xuất được các máy móc, trang thiết bị tàu thuỷ, cũng như các dịch vụ đi kèm. Hiện tại, xuất khẩu tàu thủy hiện nay đạt khoảng 150 triệu USD/năm. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, ngành đóng tàu Việt Nam trước hết phải khắc phục những vấn đề tồn tại không nhỏ hiện nay. Đó là năng lực nhỏ bé, trình độ lạc hậu, đầu tư phân tán và manh mún. So sánh những dự án gần đây của ngành đóng tàu Việt Nam với quốc tế cho thấy, quy mô dự án trong nước vẫn còn nhỏ và phải chia cho nhiều mục tiêu khác nhau, từ dự án tàu tải trọng lớn, tàu container, đến tàu dầu, tàu chở ôtô... Ðến nay, ngành công nghiệp tàu thủy nước ta đã đóng và xuất khẩu các loại tàu có sức chở đến 53 nghìn tấn, cho các chủ tàu Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðức, Ðan Mạch, Nga. Từng bước đầu tư nâng cao năng lực đóng và sửa chữa các loại tàu có tính năng phức tạp như: tàu chở container 1.700 TEU (tương đương sức chở 22 nghìn tấn), tàu chở dầu 13.500 tấn, tàu hút bùn 1.500 m3/giờ, tàu cao tốc, tàu kéo 6.000 sức ngựa... và đang triển khai đóng các loại tàu có sức chở hơn 100 nghìn tấn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan thì ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam hiện chủ yếu vẫn là lắp ráp. Hợp đồng đóng tàu mới dừng lại ở trình độ làm gia công theo thiết kế các loại, mẫu mã, vật tư, nguyên liệu, động cơ, cũng như giám sát, đăng kiểm... đều của nước ngoài. Do đó, ngành tuy có phát triển nhưng GDP do của ngành vẫn ở mức thấp tương đối so với các ngành công nghiệp khác.Nguyên nhân chủ yếu của sự yếu kém của ngành là do nguồn vốn đầu tư hạn chế, đến nay, cơ bản nước ta chưa có công nghiệp phụ trợ cho ngành đóng tàu, hầu hết vật tư, máy móc phải nhập khẩu, dẫn đến giá trị gia tăng trong sản phẩm đóng tàu nhỏ bé, sức cạnh tranh thấp. Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Viashin đang tập trung củng cố, hoàn thiện các cơ sở hiện có, nâng cấp, đầu tư trang, thiết bị, công nghệ tại ba khu vực: Hải Phòng-Quảng Ninh, miền trung và miền nam hình thành hệ thống công nghiệp phụ trợ. Theo xu thế chuyển giao công nghệ và phân công quốc tế, nền công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã xây dựng và phê duyệt quy hoạch, định hướng phát triển. Trong đó công nghiệp phụ trợ ngành đóng tàu được lựa chọn công nghệ, sản phẩm để xây dựng các dự án đầu tư thích hợp, hiệu quả. Để phát triển công nghiệp phụ trợ, với năng lực hiện có của Việt Nam thì cần phát triển có lựa chọn, có ưu tiên. Lựa chọn, ưu tiên phát triển những chi tiết mà Việt Nam co lợi thế để tập trung đầu tư phát triển trước. Theo nhận định thì, vỏ tàu và máy tàu là hai yếu tố quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất về giá trị con tàu cho nên công nghiệp phụ trợ trước hết cần tập trung đầu tư vào hai khâu sản xuất quan trọng này để tạo ra sự đột phá. Tiếp đến là triển khai đầu tư sản xuất các loại thiết bị trên boong, máy phụ, phụ kiện đường ống, thiết bị, khí cụ điện, vật liệu phụ, nội thất tàu thủy.  Trong những năm tới, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy sẽ tăng cường tìm đối tác triển khai các liên doanh thực hiện chuyển giao công nghệ từ các hãng sản xuất thép nổi tiếng của thế giới để đầu tư sản xuất các loại thép đóng tàu như: thép có kích thước lớn, thép hình, thép ống không hàn, cường độ cao, thép chế tạo, thép không gỉ... với mục tiêu năm 2008, sản xuất được thép tấm khổ rộng 3 m và thép hình. Thực hiện hình thức mua bản quyền của một số hãng động cơ hàng đầu thế giới: B&W, Wartsila, Mitsubishi, Yanmar, tổ chức nhập khẩu linh kiện lắp ráp động cơ, từng bước tiến đến chế tạo được các loại động cơ tàu thủy công suất từ 300 đến 60 nghìn sức ngựa. Theo lộ trình, năm 2008, lắp ráp được động cơ Man B&W, Mitsubishi công suất đến 9.000 sức ngựa, loại hai thì, thấp tốc, đến năm 2009, lắp ráp được động cơ Yanmar, một nghìn và hai nghìn sức ngựa, bốn thì, trung tốc và cao tốc, sau năm 2010, chế tạo từng phần các loại động cơ. Tập đoàn hiện đang liên doanh với hãng Alborg Industry (Ðan Mạch) sản xuất các loại nồi hơi, với hãng Macgregor chế tạo nắp tấm lớn hầm hàng đóng mở thủy lực cho tàu 53 nghìn tấn, tàu container 1.700 TEU để xuất khẩu sang nước thứ ba. Ðang đàm phán liên doanh với đối tác nước ngoài để chế tạo máy lái, hệ thống điều khiển tàu tại Việt Nam, triển khai đầu tư từ năm 2008. Các nhà máy của tập đoàn đang chế tạo, lắp đặt toàn bộ nội thất của tàu, năm sau sẽ sản xuất các loại dây, neo, trang bị trên boong theo thiết kế với tiêu chuẩn quốc tế... Con đường phát triển công nghiệp phụ trợ ngành đóng tàu cần sự phối hợp, liên kết của các ngành công nghiệp cơ khí, luyện kim, hóa chất... Thông qua vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, ngành công nghiệp tàu thủy sẽ đầu tư sản xuất sản phẩm phụ trợ có lợi thế theo sự phân công của sản xuất cơ khí, chủ động trong việc đóng tàu. Mục tiêu phấn đấu, sau năm 2010, công nghiệp phụ trợ cung cấp được một số vật tư, máy móc, thiết bị chiếm tỷ lệ 60% giá trị con tàu, sau năm 2015, đạt tỷ lệ hơn 70%, bảo đảm cho ngành công nghiệp tàu thủy đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường đóng tàu quốc tế. Ðể phát triển công nghiệp phụ trợ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của ngành đóng tàu, từng bước nâng cao giá trị gia tăng, theo một số giám đốc doanh nghiệp trong ngành cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp. Ðó là phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, giữa các tập đoàn, tổng công ty, với Tập đoàn công nghiệp tàu thủy, thông qua nhiều hình thức hợp tác, đầu tư, huy động vốn lớn để phát triển công nghiệp phụ trợ, tránh đầu tư trùng lắp lãng phí, kém hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước có cơ chế, chính sách thích hợp trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là chính sách tài chính, tạo nguồn vốn, để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. Huy động các nguồn lực và sự hỗ trợ của Nhà nước, tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bảo đảm cung ứng lao động có chất lượng cao cho các cơ sở sản xuất. Cải cách thủ tục hành chính, xử lý kịp thời các vướng mắc bảo đảm bàn giao mặt bằng đúng tiến độ để xây dựng công trình, sớm đưa vào sản xuất. Theo các chuyên gia đánh giá thì hiện nay ngành công nghiệp tàu thuỷ trong nước đang chuyển từ công nghệ "lắp ráp" thành thực sự "đóng mới". Hiện tại, ngoài công việc đóng được vỏ tàu, phía Việt Nam gần như ít sản xuất thêm chi tiết trên tàu. Hầu hết các trang thiết bị thậm chí cả thép tấm đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Dẫn tới giá thành của một con tàu là tương đối cao.Do vậy, trong thời gian qua, để giảm giá thành cho con tàu nhiều nhà máy đóng tàu mua tàu cũ rồi lấy máy lắp trên tàu mới, coi đây là giải pháp tình thế khi ngành chế tạo máy của nước ta chưa phát triển. Tuy nhiên đối với tàu cỡ nhỏ thì có thể chấp nhận được. Mặt khác, nếu tính kinh tế thì chi phí cho dầu máy, sửa chữa sau vài năm lớn hơn cả đầu tư cho đóng một chiếc tàu mới hoàn toàn. Tuy nhiên, những con tàu này không được kiểm định quốc tế công nhận nên không được phép chạy các tuyến quốc tế. Đó cũng là lý do mà ngành công nghiệp tàu thuỷ của chúng ta đang phải đối mặt với thực trạng là hàng năm ở các cảng lớn số lượng tàu của Việt Nam bị giữ lại do không được kiểm định quốc tế công nhận thuộc loại cao trên thế giới. Chính vì thế bấy lâu nay, ngành công nghiệp đóng tàu được quan tâm đầu tư nhưng ngành vẫn chưa phát triển đúng như mong muốn. Theo nhiều ý kiến hiện nay, giải pháp mang tính định hướng lâu dài cho đóng tàu Việt Nam nếu muốn vươn lên trở thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn là tập trung vào một vài cụm công nghiệp đóng tàu nơi có sẵn lợi thế. Đồng thời, tập trung vào những công đoạn phù hợp, phát huy được lợi thế khi so sánh với đóng tàu quốc tế trong chiến lược phát triển các ngành phụ trợ. Trên phương diện vĩ mô, thay vì đầu tư rất lớn cho kế hoạch hiện nay, Việt Nam nên tìm phương thức kết hợp lợi thế vốn có của mình là lao động rẻ với công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Nhà nước có thể xem xét mở rộng thêm cơ hội và phương thức đầu tư cho các đối tác nước ngoài, nhất là Hàn Quốc và Nhật Bản. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự chuyển giao công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ hạ nguồn. Nói tóm lại ngành công nghiệp phụ trợ cho đóng tầu của Việt Nam ta vừa quá yếu lại quá kém, với rất nhiều nỗ lực của nhà Nước nhưng hiện nay ngành này vẫn bị coi như chưa có mặt trên thị trường công nghiệp đóng tàu của VIệt Nam. Công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu vẫn là một ngành công nghiệp mới, non trẻ của Việt Nam mà cần được ngành công nghiệp đóng tàuc hú trọng đầu tư phát triển, cần được nhà Nước quy hoạch một cách hiệu qur hơn. 2.2. Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam 2.2.1. Số lượng các nhà máy Trong những năm qua, nước ta đã có sự đầu tư vào phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu nhưng do nguồn vốn hạn chế, kết quả là hiện nay chúng ta coi như chưa có ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu. Hầu hết toàn bộ máy móc , vật tư đóng tàu đều phải nhập khẩu dẫn đến khả năng cạnh tranh của ngành đóng tàu Việt Nam chưa cao, giá trị gia tăng trong một con tàu đóng mới không lớn (khoảng 30% giá trị con tàu).Tuy nhiên ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu cũng đã có những thành tựu đánh dấu sự cố gắng của mình rất đáng khích lệ. Ngoài các cơ sở đóng và sửa chữa tàu truyền thống tại Quảng Ninh,Hải phòng, Nha trang, Thành phố Hồ Chí minh, trên toàn lãnh thổ VIệt Nam đã và đang xuất hiện thêm nhiều trung tâm đóng tàu mới tại Hải Dương,Nam ĐỊnh, Thanh Hóa, NGhệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Quảng Ngĩa, Vũng Tàu, Đồng Nai, TIền Giang, Cần Thơ, Cà mau,… Hiện nay trên cả nước có 34 nhà máy và cơ sở sửa chữa và đóng mới tàu trọng tải từ 500DWT trở lên với 64 ụ/nổi, triền/ đà tàu(sau đây được gọi tắt là ụ/triền đà ) dang khai thác ,trong đó : Loại <600DWT: 38 ụ/triền đà Loại 1000DWT: 12 ụ/triền đà( Nam Triệu ,Hà Nội,An phú ,CNHH Sài Gòn, đóng ,sửa chữa tàu Cần Thơ, Sửa chữa phương tiện tàu Cần Thơ, Sửa chữa phương tiện tàu thuỷ Cần Thơ ,Hải Dương, Nam Định,Sông Đào) Loại 3000DWT :8 ụ/triện đà Loại 6000-10000D WT: 2 ụ/triện đà(Bạch đ ằng ,c ông nghi ệp tàu thuỷ sài gòn) Loại 10000-25000D WT: 7 ụ/triện đà Loại >100000D WT: 2 ụ/tri ên đ à( liên doanh huyndai- Vinasin) và 5 ụ/triện đà nâng hạ tàu loại 10000-70000 hiện đang được đầu tư ,dự ki ến đưa vào khai thác trong vòng 1-2 năm tới Nhìn chung các công trình nâng hạ tàu lớn đều là loại đà trư ợt chuyên đóng mới ,khai thác không cao .21/34 nhà máy nằm trong khu vực nội thành ,không còn quy đất để mở rộng .Hầu hết các nhà máy đóng tàu <10000DWT đều nằm sâu trong sông ngòi ,tính không cầu đ ường bộ thấp ,luồng lạch ra vào nhà máy khó khăn,khả năng đóng tàu cỡ lớn hết sức hạn chế.Với cơ sở hạ tầng hiện có ,ngành CNTT trong nước có khả năng đóng mới 344 chiếc /năm (trong đó loại dưới 1000DWT: 320 chiếc/năm,loại 1000DWT đến 12000 DWT: 22 chiếc /năm), sửa chữa 1070 (trong đó loại dưới 1000 DWT: 715 lượt chiếc/năm,loại 1000 DWT đến 400 DWT: 350 lượt chiếc/năm) Ngoài 34 nhà máy kể trên ,còn một số nhà máy có quy mô nhỏ và mang tính chất tam thời chủ yếu dùng sửa chữa một số phương tiện dưới 500 DWT thuộc các doanh nghiệp vận tải của một số ngành ,địa phương Mạng lưới các các nhà máy sửa chữa , đóng mới tàu quốc phòng có 8 cơ sở sữa chữa tàu quân sự tương đương tàu trọng tải đến 1000DWT và sửa chữa lớn nhất đến 20000DWT tại NMĐT Ba Son: Công ty Hồng Hà –Tổng Cục Công Nghiệp quốc phòng (An Hải-TP Hồ Chí Minh): đóng tàu vỏ thép đến 1000DWT và đang triển khai dự án đonhs tàu quân sự 5000 -10000DWT tại Đình Vũ. Công ty Hải Long-Quân chủng hải quân (Hồng Bàng-Hải Phòng): đóng tàu cao tốc đến 300 DWT ,tàu hàng đến 600 DWT và các loại sà lan. Công ty Hải Sơn –Biên Phòng (Nam Sơn-Hải Phòng, Bắc Sơn và Thái Sơn _TP HCM): đóng tàu vỏ thép ,vỏ nhôm, tàu cao tốc,tàu cao tốc ,tàu vận tải quân sự đến 400DWT , tàu trở khách 100 chỗ. Công ty Sông Thu-TCCNQP (Đà Nẵng) : đóng àu kéo đến 4000CV, tàu vận tải đến 600 DWT. Xí nghiệp liên hợp Ba Son –Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (TP HCM)đóng tàu các loại đến 1000 DWT ,sửa chữa tàu đến 20000 DWT và đang triển khai dự án di dời xây dựng nhà máy mới tại Thị Vải có khả năng đóng tàu 70000DWT ,sửa chữa tàu 150000DWT. Công ty Hải Minh –Quân chủng Hải Quân (TPHCM) : đóng mới tàu vận tải đến 600DWT ,tàu kéo đến 300 CV,tàu tuần tiễu và tàu cá các loại. Công ty Hải Bình –Quân chủng Hải Quân(Cần thơ): đóng tàu cá và sà lan các loại,tàu vận tải đến 1000 DWT . Số nhà máy trên ngoài nhiệm vụ đóng và sửa chữa tàu quân đội, hàng năm có thể tham gia đóng mới khoảng 30 chiếc /năm tàu đến 1000DWT; sửa chữa khoảng 50 lượt chiếc năm cỡ tàu đến 1000DWT và 10 chiếc /năm cỡ tàu 10000-20000 DWT. 2.2.2. Về phân bổ các nhà máy Các nhà máy chủ yếu tập trung ở khu vực phía bắc (18/34 nhà máy ) và các nhà máy ở khu vực phía nam (11/34 nhà máy) .Khu vực miền trung trên chiều dài 1400 km bờ biển hiện có NMLD Huyndai Vinasin và 5 nhà máy đóng mới , sửa chữa phương tiện thủy cỡ nhỏ. 2.2.3. Về công nghệ đóng- sửa chữa tàu Các nhà máy chủ yếu thuộc Tổng công ty CNTT Việt Nam trong mấy năm gần đây tuy đã được đầu tư chiều sâu ,đổi mới các trang thiết bị công nghệ như ở: NMĐT Phà Rừng,Bạch Đằng, Hạ Long ,Sông Cấm ...,đã sử dụng các thiết bị hàn ,cắt bán tự động, tự động(CNC) ,và cần trục sức nâng lớn để đóng tổng đoạn tàu 120T tại NMĐT Bạch Đằng và 70-80T tại NMĐT Hạ Long..., song tốc độ đầu tư còn chậm, chưa đồng bộ ,khả năng tự động hóa, cơ giới hóa chưa cao ,năng suất và sức cacnhj tranh của sản phẩm vẫn còn hạn chế mặc dầu đã được các chủ tàu trong và ngoài nước chấp nhận 2.2.4. Về các ngành công nghiệp phụ trợ Mạng công nghiệp vệ tinh đóng và sửa chữa tàu còn thiếu ,chưa đáp ứng được nhu cầu dóng tàu trong nước : Tổng Công ty thép Việt Nam hiên có 14 nhà máy sản xuất và cán thép với tổng công suất 3,3 triệu T/năm chủ yếu phục vụ cho xây dựng .Theo quy hoạch phat triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010, sản lượng thép trong nước đạt trên 6,5 triệu T/năm 2001.Chưa có sản phẩm thép tám phục vụ đóng tàu. Tổng công ty máy Động Lực và máy nông nghiệp –Bộ Quốc Phòng có 21 đơn vị thành viê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22134.doc
Tài liệu liên quan