MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I: Lý luận chung về thuế thu nhập doanh nghiệp 3
I. Bản chất, vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp . 3
1. Khái niệm về thuế thu nhập doanh nghiệp . 3
2. Đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp 4
3. Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường .5
II. Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp 6
1. Bối cảnh ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam 6
2. Nội dung cơ bản về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành .7
3. Quy trình quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp .14
3.1. Các bộ phận chính trong quy trình .14
3.2. Quy trình quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp 14
III. Kinh nghiệm quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp( thuế thu nhập công ty) của một số nước trên thế giới 22
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 25
I. Tổng quan về Cục thuế Hà Nội .25
1. Vài nét về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội 25
2. Khái quát về Cục thuế Hà Nội và phòng công nghiệp 25
2.1. Khái quát về Cục thuế Hà Nội 25
2.2. Khái quát phòng công nghiệp .29
3. Một số đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội .30
II. Thực trạng công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp 31
1. Thực trạng công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số khu vực trên địa bàn Hà Nội .31
2. Tình hình tổ chức quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội .33
III. Đánh giá tình hình quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội .35
1. Nhữnh kết quả đạt được .35
2. Những tồn tại và nguyên nhân .36
2.1. Khái quát những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu 36
2.2. Đánh giá thực trạng của từng công tác quản lý 37
2.2.1. Thực trạng công tác quản lý đối tượng kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp .37
2.2.2. Thực trạng công tác quản lý doanh thu đối với các đối tượng nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp .41
2.2.3. Thực trạng công tác quản lý chi phí hợp lý, hợp lệ .47
2.2.4. Thực trạng công tác quản lý việc thanh toán thu nộp thuế thu nhập doanh nghiệp .56
Chương III: Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội60
I. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp Hà Nội và phương hướng đổi mới công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp tại Cục thuế Hà Nội .60
1. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp Hà Nội .60
2. Phương hướng đổi mới công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp 61
II. Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 62
1. Mục tiêu của các giải pháp .62
1.1. Đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời .62
1.2. Tạo điều kiện giúp đỡ các đơn vị chấn chỉnh công tác hạch toán kế toán thống kê và nâng cao trình độ quản lý .63
1.3. Đảm bảo Luật thuế được thi hành 63
2. Các giải pháp cơ bản tăng cường công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp 63
2.1. Giải pháp chỉ đạo 63
2.2. Giải pháp cụ thể 64
2.2.1. Giải pháp tăng cường quản lý đối tượng kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 64
2.2.2. Giải pháp tăng cường công tác quản lý doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp .65
2.2.3. Giải pháp tăng cường công tác quản lý các chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp 67
2.2.4. Giải pháp tăng cường công tác quản lý thanh toán thu nộp thuế thu nhập doanh nghiệp . 70
III. Những kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp 71
1. Những kiến nghị về văn bản pháp luật 71
2. Những kiến nghị đối với chính quyền thành phố Hà Nội 74
3. Những kiến nghị đối với ngành công nghiệp 75
Kết luận 77
Tài liệu tham khảo
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3197 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện hơn 3 năm nay nhưng qua số liệu về kết quả thu thuế TNDN trong một số năm 1999, 2000 và 2001 chúng ta có thể thấy rằng công tác quản lý thu thuế của phòng công nghiệp tương đối tốt. Nhất là năm 1999 là năm đầu tiên luật thuế có hiệu lực thi hành nhưng số thuế TNDN thu thực tế vượt xa kế hoạch đề ra(vượt 64%). Số thực thu thuế TNDN năm 2000 tăng so với năm 1999 là 18.988 triệu đồng và đến năm 2001 số thực thu thuế TNDN tăng so với năm 2000 lên tới 128.307 triệu đồng.
Kết quả trên đạt được là do:
- Những điều kiện khách quan mang lại:
Năm 2001, tình hình kinh tế cả nước và thành phố Hà Nội đạt được nhiều kết quả khả quan, trên địa bàn thủ đô tình hình kinh tế xã hội vẫn được duy trì ổn định và phát triển là yếu tố cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Hà Nội tổ chức thu ngân sách đạt kết quả tốt. Mặc dầu gặp nhiều khó khăn về thời tiết, giá cả hàng hoá xuất khẩu giảm, suy thoái kinh tế thế giới…nền kinh tế thủ đô vẫn đạt được nhiều kết quả khả quan, thực hiện được những mục tiêu chủ yếu do Nghị quyết HĐND đề ra, so với năm trước hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều tăng:
+Tổng sản phẩm nội địa tăng 10,03%
+ Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,90%
+ Giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng 0,72%
+ Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 9,00%
+Tổng mức bán ra hàng hoá và dịch vụ tăng 10,00%
+Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 8,60%
- Sự nỗ lực của cơ quan thuế:
+ Điều đó được thể hiện qua ý thức trách nhiệm cao của các cán bộ thuế trong việc hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp thi hành luật thuế mới.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra được tiến hành khá tốt. Cơ quan thuế thường xuyên đi sâu đi sát các đơn vị nhanh chóng tìm ra những sai phạm của các doanh nghiệp để từ đó đề ra biện pháp xử lý chống lại hiện tượng trốn lậu thuế và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác quản lý thuế. Qua công tác này, cơ quan thuế đã làm lợi cho Nhà nước khoản thu khá lớn.
+ Cơ quan thuế cũng không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ thuế thông qua việc tổ chức các khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu kết hợp với việc mở rộng các lĩnh vực đào tạo. Công tác tuyên truyền giải đáp các chính sách, luật thuế được coi trọng đồng thời có sự phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng.
- ý thức chấp hành luật thuế của các ĐTNT:
Việc chấp hành luật thuế TNDN ở các doanh nghiệp năm 2001 nói chung có tiến bộ hơn so với năm 2000, 1999 tuy còn tồn tại những hiện tượng doanh nghiệp thực hiện các hành vi trốn thuế. Một số doanh nghiệp khi bị phát hiện vi phạm đã nhanh chóng chấp hành những hình thức xử lý do cơ quan thuế đề ra và không có biểu hiện chống đối, tái phạm.
2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.1 . Khái quát những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu
Bên cạnh những kết quả đạt được còn khá nhiều những tồn tại khiến cho công tác quản lý thu thuế chưa thực sự đạt được mục đích đề ra là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời:
- Còn nhiều đơn vị kê khai sai, hạch toán sai khiến cho số thuế phải nộp không đúng với thực tế.
- Tình trạng dây dưa, nợ đọng thuế còn phổ biến khiến cho số thuế thực thu không đúng với số thuế phải nộp.
- Những nhược điểm của công tác xây dựng kế hoạch, công tác chỉ đạo và quản lý nguồn thu…
* Nguyên nhân của những tồn tại trên:
Nguyên nhân khách quan:
+ Do luật thuế mới được áp dụng không thể tránh khỏi tình trạng các doanh nghiệp chưa nắm bắt kịp thời để thực hiện đúng luật.
+ Do sự yếu kém trong yếu tố nội tại của chính các doanh nghiệp như tình hình tài chính khó khăn, trình độ của các cán bộ tài chính, kế toán thấp kém…
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hiện tượng thất thu thuế chủ yếu xuất phát từ hiện tượng tiêu cực từ phía doanh nghiệp có liên quan đến:
+ Các yếu tố làm giảm thu nhập chịu thuế: như giảm doanh thu, tăng chi phí, không kê khai các thu nhập khác.
+ Việc cố tình chiếm dụng vốn ngân sách Nhà nước như: kê khai sai, nợ đọng thuế…
Để tìm hiểu cụ thể những tồn tại và nguyên nhân chúng ta sẽ lần lượt đi vào tìm hiểu thực trạng của từng công tác quản lý thuế.
2.2 . Đánh giá thực trạng của từng công tác quản lý
2.2.1. Thực trạng công tác quản lý đối tượng kê khai nộp thuế TNDN
Dựa vào các quy định của luật đề ra và thông tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 4/6/2001 và Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ thì nhiệm vụ đặt ra của ĐTNT và cơ quan thuế là :
- Cơ sở kinh doanh phải có trách nhiệm kê khai và nộp tờ khai thuế tạm nộp cả năm theo mẫu quy định tại Thông tư này cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý chậm nhất vào ngày 25 tháng 1 hàng năm. Căn cứ để kê khai là kết quả sản xuất, kinh doanh dịch vụ của năm trước và khả năng kinh doanh của năm tiếp theo.
Sau khi nhận được tờ khai, cơ quan thuế kiểm tra, xác định số thuế tạm nộp cả năm và chia ra từng quý để thông báo cho cơ sở kinh doanh tạm nộp thuế hàng quý.
- Đối với cơ sở kinh doanh chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, số thuế phải nộp hàng tháng được tính theo chế độ khoán doanh thu và tỷ lệ thu nhập chịu thuế phù hợp với từng ngành, nghề do cơ quan thuế ấn định.
- Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm tạm nộp số thuế hàng quý theo thông báo chậm nhất không quá ngày cuối quý. Đối với cơ sở kinh doanh theo quy định nộp thuế hàng tháng thì thời hạn chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo.
- Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế .
Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính, cơ sở kinh doanh phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đầy đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán; nếu nộp thừa được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo.
Trong trường hợp sát nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế và gửi báo cáo quyết toán thuế trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày có quyết định sát nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản…
Trước khi đi vào đánh giá thực trạng của công tác quản lý ĐTNT chúng ta sẽ đi tìm hiểu khái quát kết quả quản lý ĐTNT đối với các doanh nghiệp công nghiệp tại địa bàn Hà Nội .
Từ khi luật thuế GTGT và thuế TNDN có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999 cùng với chính sách thuế ưu đãi nhằm khuyến khích sản xuất, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ giảm so với trước đây. Theo số liệu tổng kết năm 1998, trong số khoảng 320 doanh nghiệp công nghiệp thì có 240 doanh nghiệp có lãi ( chiếm 75%). Cho đến thời điểm hiện nay, số doanh nghiệp công nghiệp làm ăn thua lỗ đã giảm đi ( số doanh nghiệp có lãi chiếm 86% ). Khi luật thuế TNDN mới được áp dụng, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chủ yếu thuộc khối cơ khí cũ. Nguyên nhân chính là do một số mặt hàng chuyển đổi thuế suất 1-2% ( áp dụng với thuế doanh thu trước đây) thành 10% VAT hoặc 5% VAT đầu ra ( áp dụng với thuế GTGT hiện nay thay thế cho thuế doanh thu trước đây). Sau khi thực hiện việc giải quyết giảm VAT, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã giảm xuống còn 14%. Ngoài ra có một số đơn vị do áp dụng VAT nên lãi giảm so với áp dụng thuế doanh thu trước đây.
Trong Luật thuế TNDN quy định, ĐTNT tự khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế chậm nhất vào nhày 25 tháng 1 hàng năm nhằm nâng cao ý thức chủ động và tự giác của ĐTNT.
Sau đây là tình hình thực tế về việc thực hiện tự khai thuế và nộp tờ khai của ĐTNT qua 3 năm.
Biểu 4 : Tình hình nộp tờ khai của các doanh nghiệp qua các năm
Năm
Tỷ lệ % doanh nghiệp nộp tờ khai đúng hạn
1999
20%
2000
50%
2001
80%
Năm 1999 do luật thuế TNDN mới áp dụng nên các doanh nghiệp chưa kịp thời nắm bắt được những quy định trong Luật cũng như việc thực hiện cũng có nhiều vướng mắc. Việc thực hiện tờ khai đúng Luật chủ yếu là các đơn vị lớn có lợi tức phát sinh biết được. Cho đến năm 2002, do ý thức chấp hành của các đơn vị được nâng cao cùng với sự đôn đốc nhắc nhở của các cán bộ thuế nên đa phần các doanh nghiệp nộp tờ khai đúng hạn. Bên cạnh đó, việc chấp hành luật thuế của các ĐTNT còn có một số những tồn tại sau :
- Đối với các cơ sở mới thành lập :
Theo quy định thì mọi doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép kinh doanh và giấy phép thành lập doanh nghiệp thì phải đến cơ quan thuế để tiến hành đăng ký nộp thuế. Hầu hết các doanh nghiệp đều chấp hành đúng quy định, song vẫn còn một số các doanh nghiệp nhỏ đăng ký nộp thuế còn chậm so với quy định. Hiện tượng các doanh nghiệp cố tình chậm đăng ký nộp thuế so với quy định sễ gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc quản lý ĐTNT, từ đó ảnh hưởng tới toàn bộ các công tác sau của quy trình quản lý thu thuế. Ngoài tác động tiêu cực trên đây thì hiện tượng đăng ký nộp thuế chậm so với quy định còn là biểu hiện của hiện tượng trốn thuế nếu trong thời điểm các doanh nghiệp chưa đăng ký thuế nhưng vẫn tiến hành sản xuất kinh doanh và có lợi nhuận.
- Đối với cơ sở kinh doanh đã tiến hành đăng ký thuế với cơ quan thuế :
Nhìn chung các đơn vị này đều chấp hành việc nộp tờ khai thuế đúng hạn, tuy nhiên vẫn còn tình trạng nộp chậm tờ khai thuế . Do đó đã gây khó khăn cho các cán bộ thuế trong tất cả các công tác tiếp theo trong quy trình quản lý thu thuế như công tác ra thông báo thuế, công tác đôn đốc nộp thuế, công tác kiểm tra thanh tra thuế.
Ngoài ra, chất lượng và nội dung tờ khai qua sự kiểm tra cũng phát hiện các chỉ tiêu kê khai còn nhiều thiếu sót chủ yếu là đối với các đơn vị nhỏ.
Sau khi nhận được tờ khai của ĐTNT, cán bộ thuế phải thực hiện công việc tiếp theo trong quy trình quản lý thu thuế đó là kiểm tra tờ khai căn cứ vào quyết toán của năm trước mà đơn vị đã giải trình để thông báo cho ĐTNT số thuế tạm nộp từng quý (được tính bằng số thuế tạm nộp cả năm chia đều cho 4 quý). Căn cứ vào báo cáo kết quả kinh doanh hàng quý của đơn vị mà cơ quan thuế có thể ra thông báo cho đơn vị nộp tờ khai thuế TNDN bổ sung để nộp bổ sung thuế.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu kê khai thu nhập khác của doanh nghiệp chủ yếu là tiền lãi cho vay hoặc tiền gửi ngân hàng còn các thu nhập khác như thu nợ khó đòi, thu phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản nợ phải trả không còn chủ, thu nhập bỏ sót các năm trước do phát sinh ngẫu nhiên nên hầu như không dự tính được. Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp phải khó khăn trong việc kê khai thuế TNDN bổ sung do doanh nghiệp không tự tính được thuế TNDN bổ sung nhất là vào năm 1999 (khi luật thuế TNDN và luật thuế GTGT mới đưa vào áp dụng ở Việt Nam ) như Tổng công ty điện lực, Công ty bia Hà Nội,…Chủ yếu là do năm đầu thực hiện luật thuế TNDN nên các doanh nghiệp này không biết họ có thuộc đối tượng nộp thuế TNDN bổ sung hay không. Tuy nhiên, sang các năm sau như năm 2000, 2001, 2002, các doanh nghiệp này đã tự tính được thuế TNDN bổ sung.
- Các đơn vị đang còn coi nhẹ việc tạm tính thuế TNDN. Các đơn vị cố tình khai giảm thuế TNDN trong kê khai thuế đầu năm. Điều này sẽ gây cản trở cho công tác quản lý thuế TNDN của cơ quan thuế vì chỉ kết thúc năm tài chính có quyết toán năm các doanh nghiệp mới thực hiện tính tổng cộng số thuế chính thức phải nộp gây nên hiện tượng chiếm dụng vốn ngân sách.Với một khối lượng công việc nhiều( mỗi cán bộ thuế phải quản lý hồ sơ hơn 10 doanh nghiệp) và theo quy trình quản lý thu thuế mới thì hàng tháng cán bộ thuế sẽ không có điều kiện đi sâu vào kiểm tra số liệu chi tiết về doanh thu, chi phí thực tế phát sinh từng tháng của các doanh nghiệp mà chỉ thanh tra kiểm tra chứng từ hạch toán kế toán của các doanh nghiệp vào dịp quyết toán thuế. Do vậy, sẽ không thể kịp thời uốn nắn nhắc nhở các đơn vị ngay được. Ngoài ra, còn có thể gây hiện tượng thất thoát hoá đơn chứng từ là nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện tiêu cực của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có các chi nhánh thực hiện hạch toán phụ thuộc thì chi nhánh đó không phải nộp thuế TNDN ở địa bàn hoạt động mà nộp thuế TNDN ở công ty mẹ. Một số các doanh nghiệp do phòng Công Nghiệp quản lý có một số các chi nhánh hạch toán phụ thuộc ở các địa phương khác như: Chi nhánh công ty kim khí Hà Nội thuộc công ty kim khí Hà Nội đóng ở thành phố Hồ Chí Minh, các chi nhánh của công ty cơ khí năng lượng và mỏ ở các tỉnh, các công ty điện lực ở các tỉnh hạch toán trực thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam …Theo quy định thì các chi nhánh đơn vị trực thuộc của các công ty trên sẽ tiến hành nộp thuế GTGT ở các tỉnh nơi các chi nhánh này đặt địa điểm nhưng phần kê khai về chi phí của các chi nhánh này phải gửi về công ty mẹ ở Hà Nội. Do các chi nhánh này nằm ở các địa phương xa Hà Nội, vì thế cán bộ thuế sẽ không có điều kiện để đi sâu đi sát kiểm tra tính trung thực của các số liệu được kê khai. Việc quản lý các chi nhánh thực hiện hạch toán phụ thuộc theo phương pháp trên đã ảnh huởng trực tiếp tới công tác quản lý ĐTNT của cơ quan thuế, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập chịu thuế.
Qua một số thực trạng trên đối với công tác quản lý đối tượng kê khai nộp thuế TNDN ta có thể thấy bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
- Việc nộp chậm tờ khai tính thuế cho cơ quan thuế là do nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, sự thiếu trách nhiệm của cán bộ tài chính của các doanh nghiệp làm ảnh hưởng trực tiếp tới các công tác quản lý thu thuế tiếp theo.
- Nguyên nhân của việc kê khai giảm thuế TNDN tạm nộp cả năm là do ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp còn hạn chế. Hơn thế nữa là do các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng vốn ngân sách khi chưa đến thời điểm quyết toán thuế. Đây là một trong những hiện tượng tiêu cực của công tác chấp hành luật thuế TNDN đối với các doanh nghiệp đòi hỏi phải tìm ra những biện pháp khắc phục kịp thời. Cơ quan thuế cần phải có biện pháp kiên quyết xử lý những đơn vị kê khai thiếu trung thực không sát với tình hình thực tế như có thể phạt hành chính với các đơn vị đó.
Trên đây là thực trạng và các nguyên nhân của thực trạng công tác quản lý đối tượng nộp thuế TNDN. Để thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý thu thuế TNDN, ngoài việc quản lý tốt các ĐTNT chúng ta cũng cần phải quản lý tốt doanh thu để tính thu nhập chịu thuế.
2.2.2. Thực trạng công tác quản lý doanh thu đối với các đối tượng nộp thuế TNDN
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội đang từng bước hoạt động có hiệu quả, khai thác được những thế mạnh vốn có của mình, có nhiều biện pháp trong việc mở rộng sản xuất, mở rộng quy mô đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm…Do đó, các doanh nghiệp này ngày càng có khả năng cạnh tranh và uy tín cao, doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng đều qua các năm. Đây là một thực tế rất đáng mừng, tuy nhiên nó lại đặt ra những nhiệm vụ nặng nề cho công tác quản lý thu thuế TNDN. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế TNDN là một nhân tố quan trọng cấu thành nên thu nhập chịu thuế. Chỉ có quản lý chặt chẽ được doanh thu để tính thu nhập chịu thuế thì kết quả tính thuế TNDN mới chính xác được. Như vậy việc tăng cường quản lý doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là hết sức quan trọng đối với công tác quản lý thu thuế TNDN.
Căn cứ vào Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 4/6/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Thông tư số 18/2002/TT-BTC ngày 20/2/2002 hướng dẫn thi hành Nghị định trên quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế TNDN là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ( không có thuế GTGT) bao gồm cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở sản xuất, kinh doanh được hưởng. Nếu cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là giá bên mua thực thanh toán có cả thuế GTGT.
Theo quy trình quản lý thu thuế TNDN hiện nay, khi lập tờ khai thuế TNDN, ĐTNT ước tính tổng doanh thu thực hiện trong năm, các khoản giảm trừ doanh thu và kê khai theo mẫu. Kết thúc năm tài chính, ĐTNT lập báo cáo quyết toán thuế TNDN kèm tờ khai chi tiết doanh thu, chi phí, thu nhập trên cơ sở hoạt động thực tế trong năm gửi tới cơ quan thuế.
Xét trên một góc độ nào đó thì việc để ĐTNT tự kê khai sẽ có tác dụng đề cao ý thức tự giác của ĐTNT vì ĐTNT phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của báo cáo quyết toán thuế. Tuy nhiên về phía cơ quan thuế, để quản lý tốt doanh thu tính thuế không thể chỉ đơn thuần dựa trên số liệu kê khai của đơn vị mà cơ quan thuế phải lập kế hoạch và tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế tại cơ sở. Căn cứ để kiểm tra doanh thu tính thuế là: báo cáo quyết toán thuế, báo cáo tài chính năm, các hoá đơn chứng từ và sổ sách kế toán…Trong quá trình kiểm tra, cán bộ thuế tiến hành đối chiếu giữa số trên hoá đơn bán hàng và số báo cáo quyết toán năm, số dư trên các tài khoản kế toán để xem có sự phù hợp, ăn khớp không. Từ đó sẽ phát hiện những khoản hạch toán sai, bỏ sót, những khoản để ngoài doanh thu…
Thực tế công tác kiểm tra quyết toán thuế TNDN do phòng công nghiệp thực hiện vào năm 2000 và 2001 cho thấy: Kiểm tra 130 đơn vị đã phát hiện số doanh thu năm 1999 báo cáo giảm so với kiểm tra là 45.367 triệu đồng. Kiểm tra 179 đơn vị phát hiện số doanh thu năm 2000 báo cáo giảm so với kiểm tra là 6.780 triệu đồng.
Như vậy, với số liệu trên cho thấy càng ngày ý thức chấp hành Luật thuế của các doanh nghiệp đã tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, hiện tượng các doanh nghiệp tổng hợp doanh thu chưa đầy đủ và kê khai thiếu doanh thu tính thuế TDNT vẫn còn xảy ra.
Sau đây ta có thể đưa ra một số các doanh nghiệp điển hình trong việc tổng hợp doanh thu chưa đầy đủ và kê khai thiếu doanh thu tính thuế TNDN.
Biểu 5: Một số các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện tập hợp doanh thu chưa đầy đủ và kê khai thiếu doanh thu điển hình trong năm 2000 tại Hà Nội
Đơn vị : Triệu đồng
Tên đơn vị
Số doanh thu báo cáo theo quyết toán
Số doanh thu kiểm tra xác định lại
Chênh lệch
1- Viện nghiên cứu cơ khí
16.847,1
19.641,3
2.794,2
2-Công ty may Đức Giang
130.433,9
130.913,6
479,7
3-Công ty vật tư mỏ địa chất
27.513
28.013
500
Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nguyên nhân cụ thể dẫn tới doanh thu mà đơn vị báo cáo nhỏ hơn thực tế kiểm tra báo cáo quyết toán:
Doanh nghiệp không kê khai đầy đủ doanh thu phát sinh trong kỳ
* Doanh thu đối với hàng hoá trao đổi, biếu tặng
Theo quy định, tất cả các hoạt động bán hàng trực tiếp theo phương thức hàng đổi hàng hoặc thanh toán với các doanh nghiệp khác trực tiếp bằng sản phẩm của mình thì vẫn được coi là tiêu thụ hàng hoá, phải được quản lý bằng hoá đơn chứng từ và phải tính vào doanh thu bán hàng trong kỳ. Tuy nhiên trường hợp này, doanh nghiệp thực hiện các giao dịch bán hàng hoá với bên ngoài hoặc dùng sản phẩm sản xuất để thanh toán với các doanh nghiệp khác theo hình thức trực tiếp hàng đổi hàng lại không có hoá đơn chứng từ. Vì vậy, khi cơ quan thuế kiểm tra không thể phát hiện được các khoản doanh thu khai thiếu. Hiện tượng này tuy không diễn ra phổ biến nhưng cũng không ít các doanh nghiệp đã thực hiện và gây nên hiện tượng khai giảm doanh thu đáng kể. Để quản lý được hiện tượng này, các cán bộ thuế cần phải căn cứ vào kết quả của công tác kiểm tra nội bộ từng doanh nghiệp mới có thể phát hiện ra số liệu chính xác của bộ phận doanh thu kê khai thiếu. Nhưng việc lấy số liệu của chứng từ kiểm tra nội bộ luôn động chạm tới rất nhiều vấn đề nội bộ của doanh nghiệp, vì thế công tác này thường bị các doanh nghiệp gây khó dễ và thể hiện rõ thái độ không muốn giúp đỡ cán bộ thuế thực hiện nhiệm vụ.
Ta có thể lấy ví dụ : Theo số liệu kiểm tra năm 2000 đối với công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông phát hiện trị giá hàng đổi hàng là 150 triệu đồng mà không đưa vào doanh thu.
Nguyên nhân chính là do thái độ cố tình làm sai quy định nhằm thực hiện hành vi trốn thuế của các doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi cần phải có những biện pháp kiên quyết, dứt điểm để hiện tượng này không còn xảy ra nữa.
* Doanh thu đối với các sản phẩm xuất dùng nội bộ, bán nội bộ hoặc doanh thu hàng mẫu
Nhìn chung, đối với các sản phẩm bán nội bộ có sử dụng hoá đơn chứng từ để quản lý thì khi kiểm tra các cán bộ thuế sẽ dễ dàng phát hiện được nếu nó không được đưa vào doanh thu tính thuế. Tuy nhiên có trường hợp doanh nghiệp không sử dụng hoá đơn chứng từ đối với các sản phẩm xuất dùng nội bộ thì việc phát hiện và xử lý là rất khó khăn.
Ví dụ như : Công ty giày Thượng Đình xuất dùng nội bộ 26 triệu đồng và doanh thu 80 triệu đồng do xuất hàng làm mẫu chào hàng được người mua ưng thuận muốn mua luôn lô hàng đó nhưng công ty lại không hạch toán vào doanh thu.
Công ty dệt Thành Công bán nội bộ 144 triệu đồng nhưng cũng không tính vào doanh thu.
Trường hợp trên đòi hỏi cán bộ thuế phải thường xuyên nắm bắt được chi tiết tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Nhất là trong điều kiện hiện nay đã xoá bỏ chế độ chuyên quản, cán bộ thuế không có nhiều dịp xuống cơ sở nắm bắt tình hình như trước đây nữa. Do đó, việc bám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là một công việc hết sức cần thiết đòi hỏi cán bộ thuế phải linh hoạt, thường xuyên thu nhận thông tin về hoạt động của doanh nghiệp từ nhiều nguồn khác nhau…
* Doanh thu chi nhánh
Một số doanh nghiệp có các chi nhánh nằm ở các tỉnh khác hoặc nằm xa công ty mẹ thường lợi dụng việc các cán bộ thuế khó khăn trong việc kiểm tra các chi nhánh ở xa để hạch toán giảm doanh thu nhằm trốn thuế. Cụ thể là khi có tăng doanh thu trong chi nhánh nhưng doanh nghiệp không đưa vào trong báo cáo của công ty mẹ.
Ví dụ : Theo số liệu kiểm tra công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông năm 2000 phát hiện 300 triệu đồng doanh thu của Chi nhánh miền nam không có trong báo cáo quyết toán thuế của công ty này.
Vì vậy, để quản lý chặt chẽ doanh thu của những đơn vị có nhiều chi nhánh nằm rải rác trên các địa bàn khác nhau, yêu cầu cần phải có sự phối hợp tốt với các cơ quan thuế địa phương.
* Doanh thu đối với các công trình xây dựng đã bàn giao nhưng chưa tập hợp được chi phí
Một số các doanh nghiệp có các công trình xây dựng đã bàn giao nhưng chưa tập hợp được đầy đủ chi phí nên đã để ngoài doanh thu tính thuế.
Ví dụ như: Theo số liệu kiểm tra năm 2000 đối với công ty hỗ trợ phát triển phát hiện 1 tỷ đồng của các công trình chưa quyết toán được dù đã được bàn giao năm 2000. Khi có kiểm tra thì doanh nghiệp mới xin được quyết toán hết vào năm 2001.
Như vậy các doanh nghiệp này đã làm sai quy định bởi theo như quy định thì tất cả các công trình xây dựng đã bàn giao đều phải tính vào doanh thu của kỳ đó.
Hiện tượng các doanh nghiệp làm sai quy định về hạch toán giá trị các công trình hoàn thành đã bàn giao vào doanh thu có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân chính, đó là : Do các doanh nghiệp cố tình thực hiện sai Luật mặc dù đã nắm vững quy định của luật thuế về công trình được bàn giao. Một nguyên nhân khác là do các doanh nghiệp chưa hiểu Luật cho nên có quan niệm chỉ khi các công trình đã bàn giao tập hợp đầy đủ các chi phí liên quan đến công trình mới tính giá trị các công trình vào doanh thu trong kỳ. Do có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến hiện tượng hạch toán sai ở các đơn vị nên để quản lý tốt khoản doanh thu này các cán bộ thuế phải có sự xem xét đánh giá cụ thể trước khi đưa ra biện pháp xử lý.
2.2.2.2. Doanh nghiệp bỏ sót hoá đơn không kê khai
Ví dụ : Chi nhánh công ty XNK Điện tử Hà Nội đã bỏ sót không kê khai 2 hoá đơn số 99995 ngày 28/12/2000 và số 99997 ngày 29/12/2000 với tổng số tiền là 20 triệu đồng.
Công ty Cổ phần Hàm Long đã bỏ sót 2 hoá đơn không kê khai làm cho doanh thu tính thuế năm 2000 giảm 37 triệu đồng.
Nguyên nhân của hiện tượng trên có thể là do công tác quản lý hoá đơn và sổ sách kế toán của doanh nghiệp chưa được tốt, hoặc có thể do doanh nghiệp cố tình bỏ sót một số hoá đơn không kê khai để làm giảm doanh thu tính thuế nhưng lại đổ lỗi cho “công tác hạch toán kế toán còn hạn chế ”. Do đó, khi xuống kiểm tra quyết toán thuế tại doanh nghiệp, các cán bộ thuế phải thật sáng suốt để phân tích nguyên nhân của hiện tượng. Nếu để rơi vào lý do đầu thì có thể chỉ nhắc nhở và hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện tốt hơn. Nhưng nếu phát hiện thấy biểu hiện tiêu cực, đáng nghi ngờ thì phải nghiêm khắc áp dụng các biện pháp cảnh cáo, xử phạt để đảm bảo lần sau doanh nghiệp sẽ không tái phạm.
2.2.2.3. Doanh nghiệp bỏ qua doanh thu từ các hoạt động cung ứng dịch vụ, cho thuê tài sản
Hiện nay, nền kinh tế đang hết sức sôi động và để tồn tại các doanh nghiệp thường có nhiều hoạt động rất đa dạng và phong phú mang lại thu nhập. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, họ không chỉ thu được tiền từ việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp mà còn thu được tiền từ làm dịch vụ, cho thuê tài sản như đất đai, nhà xưởng…Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ kê khai doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh chính mà bỏ qua doanh thu các hoạt động khác. Có thể nêu một số điển hình sau:
Xí nghiệp in 15: không kê khai doanh thu dịch vụ khoa học kỹ thuật là 162 triệu đồng.
Công ty cơ khí Gia Lâm: không kê khai khoản tiền thu được từ cho thuê đất liên doanh là 73 triệu đồng.
Các doanh nghiệp treo trên các tài khoản công nợ các khoản đã được chấp nhận thanh toán nhưng chưa thu được tiền
Ví dụ: Công ty May 10 năm 2000 có 100 triệu đồng tiền tiêu thụ sản phẩm đã có hoá đơn hợp lệ chấp nhận thanh toán của đơn vị mua, nhưng đến cu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100327.doc