MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HÌNH THỨC KINH DOANH NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 3
1. Khái niệm và đặc điểm của nhượng quyền thương mại và kinh doanh nhượng quyền. 3
1.1. Khái niệm. 3
1.1.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại. 3
1.1.2. Khái niêm kinh doanh nhượng quyền. 4
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại. 5
1.2.1. Lịch sử phát triển của Franchise. 5
1.2.2. Thủ tục đăng ký hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại. 10
1.2.3. Đặc điểm. 15
1.3. Vai trò của nhượng quyền thương mại. 17
1.3.1. Vai trò của nhượng quyền thương mại trong các nền kinh tế phát triển. 17
1.3.2. Vai trò và tiềm năng của nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. 25
1.4. Lợi ích khi kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. 27
1.4.1. Đối với bên nhượng quyền. 27
1.4.2. Đối với bên nhận quyền. 29
1.4.3. Đối với người tiêu dùng. 31
1.4.4. Đối với nền kinh tế. 32
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với những doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức nhượng quyền tại Việt Nam. 35
2.1. Thuận lợi. 35
2.2. Khó khăn. 38
3. Tình hình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại. 44
3.1. Trên thế giới. 44
3.2. Tại Việt Nam. 47
Tóm tắt chương 1 50
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH KHINH DOANH THEO HÌNH THỨC NHƯỢNG QUYỀN TẠI CÔNG TY TNHH LOTTERIA VIỆT NAM 51
1. Tổng quan về công ty TNHH Lotteria Việt Nam. 51
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH Lotteria Việt Nam. 51
1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty TNHH Lotteria Việt Nam. 54
1.3. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của công ty. 58
1.3.1. Đặc điểm về sản phẩm. 58
1.3.2. Đặc điểm về lao động. 60
1.3.3. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị. 61
1.3.4. Đặc điểm về nguyên vật liệu đầu vào. 61
1.3.5. Đặc điểm về hoạt động phát triển kinh doanh. 62
1.4. Các mặt hoạt động sản xuất chủ yếu của công ty. 62
14.1. Lĩnh vực kinh doanh. 62
1.4.2. Thị trường tiêu thụ và hoạt động Marketing. 63
1.4.3. Chi phí sản xuất và giá thành. 65
2. Tình hình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền tại công ty TNHH Lotteria Việt Nam. 66
3. Những thành công và chưa thành công trong kinh doanh nhượng quyền của Lotteria tại Việt Nam. 68
3.1. Những thành công đã đạt được. 68
3.2. Những vấn đề tồn tại hay chưa thành công. 70
Tóm tắt chương 2 70
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY KHIH DOANH THEO HÌNH THỨC NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TAI CÔNG TY TNHH LOTTERIA VIỆT NAM 72
1. Những định hướng kinh doanh nhượng quyền của Lotteria Việt Nam. 72
2. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của Lotteria trong kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam. 73
2.1. Điểm mạnh. 73
2.2. Điểm yếu. 74
2.3. Cơ hội. 75
2.4. Thách thức. 77
3. Giải pháp thúc đẩy kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tại công ty TNHH Lotteria Việt Nam. 80
Tóm tắt chương 3 82
KẾT LUẬN 83
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4377 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy quá trình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tại Công ty TNHH Lotteria Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhanh chóng hơn rất nhiều so với việc phát triển theo hình thức khác (mở văn phòng, chi nhánh, thành lập công ty v.v tại Việt Nam đối với KFC). Chính vì lý do này mà hình thức kinh doanh này đang có “nguy cơ bùng nổ” nhanh chóng tại thị trường Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Ngoài việc thúc đẩy thương mại quốc tế thì kinh doanh theo hình thưc này còn tạo giá trị gia tăng cao cho hoạt động xuất khẩu vì tất cả những sản phẩm nhượng quyền đều là những sản phẩm có thương hiệu. Ví dụ một tô phở 24 tại Jakarta có giá tương đương 2 đô la Mỹ, một ly cà phê Trung Nguyên tại Nhật có giá tương đương 3 đô la Mỹ.
Cuối cùng nhờ có hoạt động kinh doanh nhượng quyền mà các giá tị văn hoá của một quốc gia được chuyển tải ra thế giới và ngược lại. Chính vì vậy mà khi nói đến văn hoá Mỹ là nói đến Coca-cola, là nói đến bánh mỳ kẹp McDonald’s. Rất mong một tương lai không xa, nói đến Việt Nam là nói đến Phở 24, cà phê Trung Nguyên.
Xét về bản chất, có lẽ nhượng quyền thương mại là hình thức tổ chức kinh doanh duy nhất tạo ra các cơ sở kinh doanh mới, tạo ra các nhà doanh nghiệp mới, việc làm mới, các dịch vụ mới, cũng như các cơ hội xuất khẩu mới. (US Department of Commerce).
Trong các nền kinh tế đang phát triển, sự tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa sống còn trong việc cải thiện mức sống dân cư và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Để có tăng trưởng, đòi hỏi quốc gia phải đầu tư. Tỷ trọng đầu tư để đảm bảo tăng trưởng luôn phải ở mức cao trong cơ cấu GDP của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, sự hạn chế về tiềm lực kinh tế dẫn đến giá trị đầu tư cho dù đã ở mức cao vẫn còn rất nhỏ tính về giá trị tuyệt đối so với các nước phát triển. Do vậy, nguồn vốn đầu tư là bài toán luôn được ưu tiên nhưng không dễ trong giải quyết đối với các quốc gia đang phát triển. Đồng thời, sự thất thoát trong đầu tư sẽ làm chậm quá trình phát triển và trở thành gánh nặng cho nền kinh tế trong tương lai khi đầu tư sử dụng nguồn vốn nước ngoài như ODA, vốn vay từ chính phủ hoặc từ thị trường tài chính. Cũng không là quá đề cao khi có những phát biểu đánh giá cao về phát minh hình thức nhượng quyền thương mại khi bài toán vốn và rủi ro đầu tư, nhược điểm bản chất của nền kinh tế đang phát triển, được giải quyết rất tốt trong mô hình này.
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với những doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức nhượng quyền tại Việt Nam.
2.1. Thuận lợi.
Hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, hệ thống những doanh nghiệp nhượng quyền đang phát triển với tốc độ nhanh và mang lại nhiều lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế thế giới và quốc gia. Việt Nam đang là một thị trường béo bở cho rất nhiều nhà kinh doanh muốn đầu tư theo hình thức nhượng quyền, thị trường Việt Nam đã thể hiện được nhiều ưu thế mang đến những thuận lợi trong việc kinh doanh của những nhà nhượng quyền.
Thứ nhất, Việt Nam là một nước đã và đang tiến hành mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Bắt đầu từ ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, đánh dấu một bước chuyển minh rõ rệt trong việc mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, các rào cản vô hình và hữu hình ngày càng được lới lỏng và tiến tới xoá bỏ. Đặc biệt chúng ta đã đưa ra được những chính sách khuyến khích thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài tạo môi trường đầu tư an toàn. Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều những ông trùm về kinh doanh nhượng quyền để ý đến thị trường Việt Nam, còn một số thương hiệu đã có mặt tại Việt Nam thì ngày càng hoạt động hiệu quả hơn, hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng và thu được lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai, Franchise còn khá mới mẻ nên dễ dàng phát triển và ít cạnh tranh. Như đã nghiên cứu ở trên, kinh doanh nhượng quyền lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 90 với người đi tiên phong là chuỗi các cửa hàng cà phê Trung Nguyên. Cho đến nay, franchise tuy không còn xa lạ đối với nhiều người nhưng xét trên nhiều phương diện thì đối với thị tường Việt Nam thì phương thức kinh doanh này vẫn còn khá mới mẻ. Hiện nay thị trường Việt Nam có khoảng 70 hệ thống nhượng quyền cả trong nước và ngoài nước với những tên tuổi đã trở nên quên thuộc đối với người tiêu dùng Việt Nam như Cà phê Trung Nguyên, Phở 24, Lotteria, Metro… Vì thị trường vẫn được xem là mới mẻ nên sự cạnh tranh trên thị trường còn chưa cao, đó chính là một yếu tố rất thuận lợi cho những nhà kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam.
Thứ ba, 95% doanh nghiệp Việt Nam còn ở quy mô vừa và nhỏ nên rất thích hợp đầu tư theo mô hình nhượng quyền. Để trở thành một nhà đầu tư, ra nhập hệ thống nhượng quyền thì các doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần bỏ một số vốn không quá 100.000 USD. Với số vốn không phải là quá lớn như vậy thì rất nhiều những doanh nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng trở thành một nhà đầu tư. Chính vì vậy, thị trường Việt Nam được coi là thích hợp cho kinh doanh nhượng quyền.
Tiến sĩ Lý Quí Trung, nhà sáng lập và tổng giám đốc của Nam An Group – trong đó có Công ty Phở 24 - được xem là một trong những chuyên gia về franchise uy tín nhất Việt Nam hiện nay, đánh giá: “Franchise rất thích hợp với xu hướng kinh tế ở nước ta và sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới”. Hơn nữa, cũng theo ông Trung: “Khác với Mỹ, nơi mô hình nhượng quyền phát triển mạnh mẽ nhất, và nhiều nước khác, Việt Nam có đặc trưng là các cửa hàng bán lẻ không bắt buộc phải tập trung vào các khu thương mại dành riêng mà có thể xuất hiện bất cứ nơi nào trong thành phố. Do đó, franchsie sẽ giúp thương hiệu len lỏi vào nhiều ngõ ngách hơn. Đây là điểm khác biệt khá thú vị của kinh tế Việt Nam mà chúng ta khó có thể tìm thấy được trong các tài liệu, sách vở của các chuyên gia franchise thế giới. Mặt khác, trong xu thế hội nhập quốc tế nhanh, franchise sẽ giúp chứng minh năng lực của đội ngũ kinh doanh Việt Nam khi nhanh chóng hình thành những chuỗi cửa hiệu hùng hậu, những thương hiệu nổi tiếng, những công ty, tập đoàn mạnh”.
Theo thông tin từ Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, hiện thị trường trong nước đã có 530 nhãn hiệu được chuyển nhượng quyền sử dụng, 21.000 nhãn hiệu đã nộp đơn xin bảo hộ độc quyền, hàng loạt thương hiệu “khổng lồ” đang “hùng dũng” bước vào Việt Nam qua hình thức franchise. Các lĩnh vực franchise mạnh và thành công nhất là cửa hàng bán lẻ, dịch vụ tiện ích và dịch vụ tài chính, đào tạo. Chiếm tuyệt đại đa số nhãn hiệu thu hút mua nhượng quyền và đứng đầu các bảng thống kê hiệu quả kinh doanh là lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, hàng ăn uống.
2.2. Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi tạo đà phát triển nhanh chóng cho hệ thống kinh doanh nhượng quyền thì những nhà kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại về:
Khung pháp lý về hoạt động nhượng quyền còn chưa rõ ràng khiến cho cả bên mua và bán đều gặp khó khăn và bất trắc. Trước khi có Luật Thương mại 2005, hầu như pháp luật nước ta không đề cập đến hình thức kinh doanh mới mẻ này, các doanh nghiệp kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại phải vận dụng các quy định trong pháp luật về dân sự, kinh tế, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ... do đó, mặc dù hình thức nhượng quyền thương mại đã xuất hiện ở nước ta từ những năm 1990 thế kỷ trước nhưng sự phát triển còn rất hạn chế; đa số công chúng chưa có được sự nhận thức đúng đắn về hình thức kinh doanh mới mẻ này; quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng franchising trong nhiều trường hợp không được tôn trọng... điều đó, đòi hỏi nhà nước phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hình thức kinh doanh mới mẻ này. Ngày 14 tháng 06 năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 được ban hành trong đó có các quy định về nhượng quyền thương mại. Tiếp đến, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết hoạt động nhượng quyền thương mại; Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25 tháng 05 năm 2006 hướng dãn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây là hai văn bản hướng dẫn khá chi tiết và đầy đủ với việc xác định các vấn đề cơ bản như khái niệm nhượng quyền thương mại, quyền thương mại, điều kiện nhượng quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại, đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và các vấn đề tài chính liên quan đến nhượng quyền thương mại.
Về mặt thuật ngữ, nhượng quyền thương mại theo quy định tại Mục 8 của Luật Thương mại được hiểu là hình thức “bán” quyền thương mại, tuy nhiên, theo quy định tại Điều 284 thì lại được mô tả hết sức cụ thể của một phương thức kinh doanh với việc “mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tương kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền...”. Đồng thời, Nghị định số 35 còn xác lập một thuật ngữ pháp lý mới mẻ, đó là “quyền thương mại” với tư cách là điểm mấu chốt trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về thuế hiện tại vẫn chưa có quy định chính thức trong việc xác định các khoản chi phí, khoản thu là phí nhượng quyền, doanh thu từ nhượng quyền để hạch toán, tính thuế cho doanh nghiệp. Ngoài ra, về vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động nhượng quyền thương mại, Điều 24 Nghị định 35 đã liệt kê các hành vi phạm cụ thể và quy định việc xử lý được thực hiện bằng biện pháp xử phạt hành chính. Tuy nhiên, hiện nay, Chính phủ vẫn chưa ban hành nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. nhượng quyền thương mại vẫn còn khá mới mẻ đối với Việt Nam, do đó rất cần sự hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước trong việc phát triển loại hình kinh doanh đặc thù này. Để thực hiện được điều này, Nhà nước cần phải có các chính sách xúc tiến, tư vấn, hỗ trợ đào tạo trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Đối với doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, Nhà nước nên khuyến khích họ thành lập, tham gia vào các hiệp hội nhượng quyền thương mại để có điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tự đào tạo, đồng thời cũng là một trong những đầu mối tham khảo, phản biện xã hội để hoàn thiện về chính sách pháp luật về nhượng quyền thương mại. Về những quy định pháp luật hiện thời, Nhà nước cần phải xem xét, làm rõ các khái niệm phạm vi điều chỉnh giữa các luật, văn bản pháp quy có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, ban hành các quy định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại.Về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động hơn trong việc tìm kiếm, tiếp cận các kinh nghiệm, kiến thức và các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Để có được hiệu quả cao khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, doanh nghiệp phải có chiến lược xây dựng thương hiệu thật tốt, hệ thống kinh doanh được tổ chức hợp lý, hiệu quả và mang tính đặc thù. Cuối cùng, điều quan trọng hơn hết là chính doanh nghiệp thông qua hoạt động thực tế của mình, phải tích cực hơn nữa trong việc đề xuất, đóng góp ý kiến cho Nhà nước để xây dựng các chương trình phát triển nhượng quyền thương mại, ban hành các chính sách, quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
Theo dự báo, trong những năm tới, hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ “bùng nổ” ở Việt Nam. Do đó, các bên trước khi thiết lập quan hệ này cần phải tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó có các quy định của pháp luật. Về mặt pháp lý, có những vấn đề cần phải được các bên lưu ý khi thiết lập quan hệ là:
(i) Đối với bên nhận quyền: Các quy định cứng nhắc trong các điều khoản về bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ, thanh toán... sẽ làm hạn chế sự tư vấn, giúp đỡ từ bên ngoài khi gặp khó khăn, tranh chấp; Những điều khoản đơn phương thiếu tính cạnh tranh làm ảnh hưởng đến bên nhận quyền như các điều khoản về cung ứng hàng hoá, dịch vụ chẳng hạn. Điều này sẽ làm mất cơ hội tiếp cận với các hàng hoá, dịch vụ bên ngoài hệ thống nhượng quyền của bên nhận quyền.
(ii) Đối với bên nhượng quyền: Trước thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay, các quy định về SHTT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại thường nếu không được quy định chặt chẽ có thể bị vi phạm; Khó kiểm soát được hệ thống; Vi phạm cam kết trong hợp đồng.
Hơn nữa, hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện. Về bản chất, franchising là một hoạt động kinh doanh trong đó có thoả thuận của hai bên (bán, mua franchising) chuyển giao mô hình kinh doanh gắn liền với các đối tượng sở hữu trí tuệ. Việc chuyển giao công nghệ và kỹ năng trong hoạt động nhượng quyền thương mại kích thích phát triển trí tuệ của xã hội đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho sự bành trướng quyền sở hữu trí tuệ trên diện rộng trong thời gian ngắn. Vì vậy việc quản lý về quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề cần được quan tâm trong kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Bên cạnh đó việc quản lý đối với một số lượng lớn các cửa hiệu nhượng quyền còn gặp trở ngại khó khăn.
Trung Nguyên là thương hiệu tiên phong trong hoạt động nhượng quyền (khoảng năm 2000), thế nhưng việc xây dựng một hệ thống nhượng quyền chuẩn mực, mang tính hàn lâm vẫn là Phở 24. Sở dĩ nói như vậy là vì Trung Nguyên thành công trong việc nhân rộng mô hình quán cà phê trên khắp Việt Nam, nhưng Trung Nguyên lại không chú trọng đến việc quản lý duy trì, phát triển hệ thống theo những chuẩn mực, nguyên tắc nhất định của phương thức franchise, vì thế kể từ năm 2004 trở về sau, hệ thống quán cà phê Trung Nguyên bị “khựng lại”, không còn dấu hiệu mạnh mẽ như trước.
Thách thức thứ nhất các nhà quản lý gặp phải nằm ngay trong lợi thế của nó. Khi mạng lưới phân phối dày đặc rộng lớn tồn tại yếu điểm với một số lượng lớn cửa hiệu nhượng quyền cách trở về địa lý, thông tin thì việc quản lý của các nhà quản lý sẽ gặp trở ngại nhất là khi cần có sự xử lý kịp thời và mang tính chuyên môn (một vấn đề có thể là hạn chế đối với bên mua). Đôi khi chỉ là thái độ thiếu lịch sự của một nhân viên một cửa hàng franchise hay vết bẩn trong món ăn dẫn tới tổn hại chung cho cả thương hiệu và các đối tác trong hệ thống.
Trong những năm đầu do là đơn vị đi tiên phong trong lãnh vực franchise tại Việt Nam nên Trung Nguyên đã khá bối rối trong hướng đi của mình và khá dễ dãi trong việc bán franchise dẫn đến hiện trạng có quá nhiều quán café cùng mang nhãn hiệu Trung Nguyên nhưng không cùng một đẳng cấp. Nói cách khác Trung Nguyên rơi vào tình thế mất kiểm soát chất lượng và tính đồng bộ của mình vì bắt đầu bán franchise với số lượng lớn khi chưa có đủ sự chuẩn bị.Thật vậy có quán thì khá bề thế có quán lại quá xập xệ, khiêm tốn hay có quán có máy lạnh phục vụ tốt tay nghề khá và có quán tay nghề kém bình dân, trang trí nội thất cũng không đồng bộ theo một chuẩn mực chung. Từ cuối năm 2002 Trung Nguyên đã cho mời chuyên gia người Úc sang để khắc phục tình trạng này nhưng trên thực tế để điều chỉnh lại hệ thống với hơn 400 quán cà phê trải dài khắp nước quả là một thách thức của người điều hành mỗi quán cafe và của người chủ thương hiệu nói chung.
Nguy cơ bị mất cắp bí quyết kinh doanh trong quá trình hoạt động cũng là một thách thức đặt ra đối với một nhà quản lý thương hiệu. Bên mua franchise sẽ được chủ thương hiệu đào tạo phương thức hoạt động cung cấp những phương công thức chế biến đặc biệt mang đặc trưng thương hiệu. Đặc điểm này khiến cho kinh doanh nhượng quyền thương mại khó có thể diễn ra ở những nơi có hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh như là ở Việt Nam
Các nhà quản lý của bên nhượng quyền cũng phải đối mặt với một khó khăn không nhỏ đó là đối tác chủ thương hiệu ( bên mua ) thường có xu hướng trở thành đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp nhượng quyền trong nỗ lực giành lấy khách hàng và thị phần (trong trường hợp cạnh tranh không lành mạnh). Mặc dù có quyền cao nhất trong khu vực hoạt động của mình, nhưng bên mua vẫn phải chịu một số ràng buộc với chủ thương hiệu theo thỏa thuận trong hợp đồng nếu không sẽ bị phạt vi phạm. Sau đây là những thách thức đối với các nhà quản lý khi quản lý và điều hành hoạt động của các doanh nghiệp frachise:
- Không được tự ý điều chỉnh việc kinh doanh: thay đổi menu, hạ giá thành sản phẩm… việc kinh doanh nhắm đến một đối tượng khách hàng với một mục tiêu nhất định theo phân khúc thị trường mà bên nhượng quyền đã xác định trong chiến lược kinh doanh của mình.
- Khảo sát cho thấy 100% các doanh nghiệp nhượng quyền đều giới hạn việc sử dụng thương hiệu trong một khu vực kinh doanh nhất định. Ngoài mục đích kinh doanh chính các franchisee không được phép thay đổi bất kỳ một sự xáo trộn nào không được phép quy định trong hợp đồng. Tất cả các chương trình quảng bá khuyến mãi đều phải thông qua ý kiến của bên nhượng quyền. Lý giải về việc này anh Hoàng Trung phụ trách đào tạo nhượng quyền của doanh nghiệp Trung Nguyên cho biết : “mục đích là để bảo vệ thương hiệu cho franchisor và đảm bảo sự công bằng cho các franchisee khác trong hệ thống không làm ảnh hưởng đến doanh số của nhau khi có những chương trình khuyến mãi, giảm giá tự phát của một số cửa hàng”.
- Các franchisee phải đóng môt khoản phí định kỳ hàng tháng cho các franchisor. Trên thế giới khoản phí này dao động trong khoảng từ 3 – 10% tổng doanh thu hàng tháng còn ở Việt Nam là 2 – 3%. Tuy nhiên đây là khoản tính trên tổng doanh thu sau khi đã trừ thuế vì vậy nếu bên mua franchisee quản lý chi phí không tốt, kinh doanh thua lỗ thì vẫn phải nộp cho bên chủ thương hiệu một khoản phí định kỳ dựa trên doanh số bán ra. Đây cũng là một khó khăn lớn mà các nhà quản lý bên mua franchisee thường gặp phải.
Quản lý kinh doanh là một công việc phức tạo đòi hỏi các nhà quản lý phải có kinh nghiệm hoặc hiểu biết chuyên môn. Đây cũng là điều mà các franchisee cần xem xét quyết định có nên đăng ký xin được chuyển nhượng hay không.
3. Tình hình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại.
3.1. Trên thế giới.
Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận là khởi nguồn tại Mỹ nhưng thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với hình thức có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng kinh doanh. Năm 1840, các nhà sản xuất bia của Đức cho phép một vài quán bia quyền bán sản phẩm của họ. Năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký cho thực hiện hợp đồng nhượng quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm 1880 bắt đầu nhượng quyền bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền trong lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas. Trong thời gian này, phạm vi hoạt động nhượng quyền chỉ là chuyển quyền phân phối và bán sản phẩm của các nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã thực sự phát triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng vọt nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã trở thành mô hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng trong ngành công nghiệp thức ăn nhanh và khách sạn. Vào thập niên 60-70, nhượng quyền bùng nổ và phát triển mạnh ở Mỹ, Anh và một số nước khác.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra rất nhanh, mạnh trong tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy vai trò của nó trên toàn thế giới. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có một hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5% công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc lập. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế giới là điều tất yếu.
Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế giới : Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Nếu so sánh với GDP của Việt Nam cùng năm thì hệ thống này gấp trên 28 lần và còn có dấu hiệu vượt hơn nữa trong những năm gần đây. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao động tức là 1/7 tổng lao động ở Mỹ và có hơn 550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng nhượng quyền mới ra đời.
Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với 167.500 cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro. Tạo ra hơn 1.5 triệu việc làm. Riêng ở Anh, nhượng quyền thương mại là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 doanh nghiệp nhượng quyền, doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh, thu hút một lượng lao động khỏang 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ.
Tại Úc, tổng cửa hàng nhượng quyền thương mại khoảng 54.000, đóng góp 12% vào GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động
Theo Hiệp hội nhượng quyền Quốc tế (IFA) thì nhượng quyền kinh doanh ở châu Á đã tạo doanh thu hơn 500 tỷ USD mỗi năm. Một số nước có hệ thống nhượng quyền đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển của mình như: Tại Thái Lan, số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó có tới 67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng 20.000-65.000 USD. Bộ thương mại Thái Lan công bố chương trình khuyến khích và quảng bá thương hiệu nội địa ra thị trường quốc tế qua nhượng quyền thương mại. Các doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức này được hỗ trợ đào tạo trung và ngắn hạn về công nghệ nhượng quyền thương mại. Do vậy, năm 2004 đạt doanh số 25 triệu Baht, năm 2005 tăng 10% và tăng rất nhanh cho các năm tiếp theo. Tại Nhật Bản, nhượng quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996, đến năm 2004 đã có 1.074 hệ thống nhượng quyền thương mại và 220.710 cửa hàng kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại, doanh thu từ hệ thống này vào khoảng 150 tỉ USD, tăng trưởng hàng năm 7%.
Từ năm 1980, nhượng quyền thương mại vào Trung Quốc. Đến năm 2004, nước này đã có 2.100 hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với 120.000 cửa hàng nhượng quyền trong 60 lĩnh vực khác nhau. Biểu đồ tăng trưởng hoạt động nhượng quyền của Trung Quốc dựng đứng kể từ khi nước này gia nhập WTO. Từ năm 2000, bình quân mỗi năm hệ thống nhượng quyền tăng 38% vượt xa mức tăng trưởng 10%/năm của hàng tiêu dùng, các cửa hàng nhận nhượng quyền tăng 55%. Đặc biệt, hệ thống nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp Trung Quốc cạnh tranh ngang hàng với thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng của nước ngoài. Ở Malaysia, nhìn thấy lợi ích của nhượng quyền thương mại từ 1992, Chính phủ thành lập chương trình quốc gia về chuyển nhượng (Franchise Development Programme - FDP) với 2 mục tiêu: (i) Gia tăng số doanh nghiệp bán / mua nhượng quyền thương mại; (ii) Thúc đẩy phát triển những SP / dịch vụ đặc thù nội địa thông qua nhượng quyền thương mại.
3.2. Tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, hình thức nhượng quyền thương mại hình thành vào những năm 90 của thế kỷ 20 và mang tính tự phát rất cao. Trung Nguyên có thể coi là nhà tiên phong tại Việt Nam áp dụng hình thức kinh doanh này bằng cách phát triển hệ thống đại lý của mình theo hình thức nhượng quyền. Cũng như các nước khác, hình thức này cũng đã phát huy tính hiệu quả của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đến nay theo Hiệp hội Nhượng quyền Quốc tế, Việt Nam có trên 70 hệ thống kinh doanh nhượng quyền và ngày càng phát triển. Việt Nam trong những năm gần đây có những điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%, một quốc gia có dân số trên 82 triệu người, tình hình kinh tế ổn định, nhà nước khuyến khích đầu tư, sức mua của thị trường được đánh giá là rất cao trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước. Trong bối cảnh như vậy, rõ ràng việc quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh nào đảm bảo cho nhà đầu tư có được hiệu quả tốt nhất về sử dụng vốn, phát triển nhanh thị trường, mở rộng nhanh thị phần và kiểm soát được hệ thống nhằm tạo được tiếng nói đối với thị trường này là điều rất đuợc quan tâm? Rõ ràng, hình thức nhượng quyền thương mại sẽ là một sự lựa chọn cho cả nhà nhượng quyền và nhà nhận quyền và hình thức kinh doanh này sẽ phát triển mạnh tại Việt Nam trong những năm tới.
Thương hiệu Phở 24 đã có 35 cửa hàng sau 3 năm nhượng quyền. Dự kiến, đến năm 2008, sẽ có khoảng 100 cửa hàng tại Việt Nam. Phở 24 đã xuất hiện tại Philippines, Indonesia và chuẩn bị ra mắt tại Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Mức giá nhượng quyền thương hiệu trong nước là 7.000 USD và ở nước ngoài là 12.000 USD, chưa kể phí vận hành 3% trên tổng doanh thu của từng cửa hàng đã chuyển nhượng. Foci đã áp dụng nhượng quyền từ năm 1998 với 35 đối tác nhận nhượng quyền và đã mở 48 cửa hàng trên cả nước. Đến cuối năm 2007, Foci sẽ có mặt tại tất cả địa phương và năm 2008 dự kiến có tối thiểu 100 cửa hàng. Dự kiến 2007 Foci mở 7 cửa hàng tại Mỹ theo hình thức nhượng quyền thương mại. Công ty Kinh Đô đã mở được 30 cửa hàng bánh Bakery, theo kế hoạch sẽ có 100 cửa hàng và tiến đến mở rộng hình thức kinh doanh thành tiệm cà phê, bánh ngọt và thức ăn nhanh Kinh Đô. Trà sữa trân châu Tapio đã mở được 10 cử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26610.doc