Chuyên đề Giải pháp trong việc thu hút và sử dụng FDI vào Việt Nam

 

Phần mở đầu 1

I. Sự cần thiết phải nghiên cứu vai trò của FDI trong quá trình phát triển kinh tễ xã hội 1

II. Mục tiêu nghiên cứu 2

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

Chương I: Cơ sở lý luận 3

I. Những vấn đề cơ bản về FDI 3

1. FDI là gì 3

1.1. Một vài khái niệm về FDI. 3

1.2. Đặc điểm của FDI 3

2. Phân loại FDI 4

3. Nhân tố thúc đẩy FDI

3.1. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước 5

3.2. Chu kỳ sản phẩm 5

3.3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia 6

3.4.Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại 6

3.5. Khai thác chuyên gia và công nghệ 7

3.6.Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên 7

II. Các mô hình về vai trò của nguồn vốn đối với tăng trưởng 7

1.Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế 7

1.1 Mô hình 7

1.2 Ý nghĩa 8

2. Mô hình Harrod- domar 8

2.1 Mô tả về mô hình 9

2.2 Ý nghĩa : 9

Chương II : Vai trò của FDI với phát triển kinh tế ở Việt Nam 10

I. Vai trò của FDI tới tăng trưởng kinh tế 10

1. Góp phần tăng nguồn vốn, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho phát triển KTXH 10

2. FDI với nguồn thu ngân sách và các cân đối vĩ mô. 11

3. Góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho nước chủ nhà và góp phần tạo động lực cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. 11

4. Tác động tới xuất khẩu và cán cân thanh toán 12

5. Tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế 13

II. Vai trò của FDI với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 14

1. Huy động vốn để thay đổi cơ cấu kinh tế với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. 14

2. Hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các lĩnh vực kinh tế 16

3. Thực hiện công nghiệp hoá nông thôn. 17

III. Vai trò của FDI với đảm bảo phúc lợi xã hội cho con người 19

1. Tác động tới việc làm và chất lượng nguồn lao động 19

2. Nâng cao mức sống, mức thu nhập của người dân 20

3. Nâng cao cơ sở hạ tầng cho xã hội. 21

Chương III: Giải pháp trong việc thu hút và sử dụng FDI vào Việt Nam 22

1. Một số vấn đề thống nhất về quan điểm thu hút và sử dụng FDI theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của Đảng. 22

1. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI 23

2. Một số giải pháp về sử dụng hiệu quả FDI 26

2.1. Về pháp luật, chính sách: 26

2.2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN: 26

2.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư 27

2.4 Giải pháp về lao động tiền lương 28

2.5. Giải pháp về thuế 28

2.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 29

Kết luận 30

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp trong việc thu hút và sử dụng FDI vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 700 ngàn lao động trong nước, chưa kể những lao động gián tiếp tại các vùng nguyên liệu trên phạm vi toàn quốc. Các dự án đầu tư nước ngoài đã khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng, làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương cũng như vùng lãnh thổ, tạo cơ hội đẩy mạnh sự hợp tác, liên kết kinh tế trong phạm vi tỉnh, thành phố. Vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh sau đây 1. Góp phần tăng nguồn vốn, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho phát triển KTXH - FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích luỹ nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuât trong điều kiên khoa học , kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. - Mặc dù FDI thường chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng mức đầu tư của nước chủ nhà nhưng điều đàng chú ý là vốn FDI cho phép tạo ra các ngành mới hoàn toàn hoặc thúc đẩy sự phát triển của một số ngành quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá đất nước. - Đối với Việt Nam , sau hơn 17 năm đổi mới , nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp giúp bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng tiềm lực kinh tế để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện.... Tính từ năm 1998 đến hết năm 2003, trên phạm vi cả nước đã có trên 4500 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 46 tỷ USD. Đến 2004, Việt Nam đã thu hút được vốn đầu tư trên 65 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tỷ trọng đóng góp của FDI vào GDP có xu hướng tăng lớn qua các năm: năm 1992 là 2%, năm 1996 là 7,6%, năm 1999 là 10,3%, năm 2000 chiếm 13.3% GDP, năm 2002 chiếm 13,5% , năm 2003 chiếm 14%. Nguồn vốn này cũng góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thộng vận tải, bưu chính viễn thông..., hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương. Những vấn đề trên cho thấy tác dụng và ảnh hưởng quan trọng của FDI đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. 2. FDI với nguồn thu ngân sách và các cân đối vĩ mô. Cùng với sự phát triển , FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách cho nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài..Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư thì giai đoạn 1996-2000 thu từ khu vực FDI chiến 6-7% nguồn thu ngân sách quốc gia( nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm gần 20% thu ngân sách), đạt khoảng 1,45 tỷ USD; gấp 4,5 lần so với 5 năm trước đó, với nguồn thu bình quân khoảng 290triệu USD/ năm. Đến giai đoạn 2001 -2005 tăng lên đến 1 tỷ USD/ năm. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. 3. Góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho nước chủ nhà và góp phần tạo động lực cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Sự tham gia của doanh nghiệp FDI góp phần phá vỡ cơ cấu thị trường độc quyền, tăng tính cạnh tranh của thị trường. Điều này đã đưa lại tác động tích cực lẫn tiêu cực: + Doanh nghiệp FDI với lợi thế về vốn, công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, các bí quyết marketing đã tạo ra sức ép đáng kể buộc các doanh nghiệp trong nứơc phải thay đổi cách thức quản lý, nâng cao công nghệ, sử dụng các hoạt động marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. + Đồng thời do sức cạnh tranh yếu, các doanh nghiệp trong nứơc sẽ dễ dàng để mất thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.Khi thị phần đã suy giảm, các doanh nghiệp trong nước buộc phải phân bổ chi phí cố định không đổi của họ đối với sản xuất nhỏ hơn, vì vậy càng làm tăng chi phí đơn vị và giảm khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Đứng trên quan điểm hiệu quả thì sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI sẽ dẫn đến thu hẹp khu vực trong nước, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực khan hiếm, vì vậy sẽ mang lại lợi ích hiệu quả phân bổ được cải thiện. Tuy vậy, sự thu hẹp của khu vực sản xuất trong nước thường gây ra nhiều hậu quả về xã hội và kết quả mà mọi chính phủ đều không mong muốn. Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho Việt Nam. Chuyển giao công nghệ là một trong 4 kênh làm xuất hiện “tác động tràn” đối với doanh nghiệp do đó nước ta có thể nhận đựợc những công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại( thực tế, có những công nghệ không thể mua đựơc bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệp quản lý, năng lực marketting, độ ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt( trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động. 4. Tác động tới xuất khẩu và cán cân thanh toán FDI thúc đẩy hoạt động thương mại, tạo hành lang cho hoạt động xuất khẩu và tiếp cận nhanh nhất với thị trường thế giới. Xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế, từ đó giải quyết các vấn đề xã hội. Theo quy luật của các nước đang phát triển, cán cân thanh toán của các nước này luôn ở tình trạng thâm hụt. Do vậy, hoạt động FDI đã góp phần vào việc hạn chế một phần nào đó tình trạng thâm hụt của cán cân thanh toán thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư vào nước tiếp nhận FDI. Thông qua FDI, hoạt động xuất nhập khẩu của các nền kinh tế chủ nhà được kích hoạt, trở nên hết sức sôi động. Khởi đầu là xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, tiếp đến là các sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp cần nhiều lao động như dệt may, công nghiệp chế biến và sau đó là các sản phẩm có hàm lượng tư bản cao như sản phẩm điên, điện tử, cơ khí ... Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp FDI đã chiếm tỷ trọng 13 – 14% GDP, 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và 18,6% tổng vốn đầu tư xã hội; ngoài dầu thô, chiếm tỷ trọng 33,8% kim ngạch xuất khẩu; Hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế FDI (trừ ngành dầu khí) trong năm 2003 phát triển khá. So với năm 2002, doanh thu của các doanh nghiệp FDI tăng 36,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng 35,3%; nộp ngân sách đạt 465 triệu USD, tăng 1,3%; tạo ra việc làm cho khoảng 665.000 lao động, tăng 7,3% so với năm 2002. Bảng 3 : Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hoá theo khu vực kinh tế(kể cả xuât khẩu dầu thô) Đơn vị % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Khu vực kinh tế trong nước 73.0 70.3 65.0 65.7 59.4 53.0 54.8 52.9 49.6 45.3 42.8 Khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài 27.0 29.7 35.0 34.3 40.6 47.0 45.2 47.1 50.4 54.7 57.2 Nguồn: http:// www.gso.gov.vn 5. Tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động của mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Đối với các nước đang và kém phát triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng thì quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động quốc tế. Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập kinh tế với thế giới có tác động chi phối mạnh mẽ tới sự thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của sự nghiệp CNH-HĐH cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư nước ngoài cũng như khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở thành một động lực quan trọng thức đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, là nhân tố cơ bản có vai trò đặc biệt quan trọng tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. II. Vai trò của FDI với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế FDI góp phần tái cấu trúc nền kinh tế, FDI làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá của các nước chủ nhà. 1. Huy động vốn để thay đổi cơ cấu kinh tế với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi phù hợp hơn với yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. Những năm đầu, vốn FDI tập trung phần lớn vào thăm dò, khai thác dầu khí (32,2%) và khách sạn du lịch, căn hộ cho thuê (20,6%). Nhưng những năm gần đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất của nền kinh tế (nhất là lĩnh vực công nghiệp) ngày càng gia tăng hiện chiếm 2/3 tổng nguồn vốn đầu tư chung. Trong đó, trên 60% số dự án là đầu tư khai thác và nâng cấp các cơ sở kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động; ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại... Sự xuất hiện của nhiều công trình lớn như các nhà máy xi măng Tràng Kênh, Nghi Sơn, Sao Mai, Văn Xá, Phúc Sơn, Hải Long, các nhà máy cán thép ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, các nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, các dự án liên lạc viễn thông, điện tử, các nhà máy đường ở Ninh Bình, Thanh Hoá, Long An, Tây Ninh và các dự án chế biến nông, lâm, sản... đã góp phần tăng nhanh năng lực sản xuất của các ngành, các địa phương, và từng bước hiện đại hoá một số lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đang có sự chuyển dịch tích cực sang lĩnh vực dịch vụ. Đây là nét mới và rõ nhất về tình hình thu hút FDI vào Việt Nam trong những tháng đầu năm nay, khi vẫn chưa xuất hiện những dự án được coi là “đình đàm” về quy mô vốn đầu tư, như trong năm 2006. Số liệu thống kê cho thấy, nếu như 6 tháng đầu năm 2006, tỷ lệ vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp là 72,7%, thì trong 6 tháng đầu năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 56,5%. Ngược lại, tỷ lệ vốn FDI đăng ký đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ từ 22,6% của 6 tháng đầu năm 2006 tăng lên 43,2% trong 6 tháng đầu năm 2007. Một tháng sau, tức là 7 tháng đầu năm 2007, vốn FDI đăng ký mới vẫn theo hướng đổ vào lĩnh vực dịch vụ từ 43,2% lên 44,1% (2,81 tỷ USD) của 220 dự án, trong khi đó lĩnh vực công nghiệp từ 56,5% xuống còn 53,8% (3,43 tỷ USD) của 460 dự án. Nếu xét thêm ở quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án thì dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ có quy mô lớn hơn. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lĩnh vực dịch vụ hút vốn vì thời gian qua một số ngành nghề dịch vụ đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài, như xây dựng các khu vui chơi, nghỉ dưỡng, sản xuất phần mềm, dịch vụ tư vấn - tài chính, Chỉ tính riêng trong ngành du lịch, trong 6 tháng đầu năm đã có gần 800 triệu USD (chiếm gần 15% tổng vốn FDI vào Việt Nam) rót vào ngày này với 17 dự án. Một chuyên gia kinh tế cho rằng lĩnh vực dịch vụ được các nhà đầu tư nước ngoài để mắt nhiều do Việt Nam đã cam kết mở cửa lĩnh vực này rộng hơn sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 2. Hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các lĩnh vực kinh tế Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã du nhập những công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện tử,... phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng có công nghệ thuộc loại trung bình tiên tiến ở khu vực. Nguồn vốn ĐTNN cùng các phương thức kinh doanh mới đã tạo ra sự cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phải đổi mới chất lượng sản phẩm và áp dụng phương pháp kinh doanh hiện đại. ĐTNN góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng nguồn thu ngân sách. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng gấp 50 lần so với năm 1991, chiếm 22,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các khoản nộp ngân sách từ các hoạt động ĐTNN tăng nhanh trong những năm qua: năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1996 là 263 triệu USD, từ 1997 đến nay khoảng trên 315 triệu USD, riêng năm 1999 giảm còn 260 triệu USD. Khu vực ĐTNN đã giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 29 vạn lao động, ngoài ra, còn gián tiếp tạo ra việc làm cho gần 1 triệu lao động trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan đến ĐTNN. Thu nhập bình quân của lao động Việt nam trong doanh nghiệp ĐTNN cao hơn cùng ngành nghề ở khu vực khác từ 30% đến 50%, bình quân tháng khoảng 70USD và tổng thu nhập của lao động hàng năm lên tới 300-350 triệu USD. 3. Thực hiện công nghiệp hoá nông thôn. Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây. Những đóng góp tích cực: - Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài tương đối phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành, nguồn vốn được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông, lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy; - Các dự án FDI đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới, công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao tính cạnh tranh của hàng nông lâm sản. Các chương trình mía đường, trồng và chế biến rau quả, chương trình trồng rừng, chuyển giao công nghệ mới, tạo ra các loại giống cây trồng, giống vật nuôi và các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế; - Tạo việc làm cho hàng vạn lao động công nghiệp (đến nay có khoảng 75.000 lao động công nghiệp đang làm việc tại các doanh nghiệp FDI của ngành), sản xuất nguyên liệu và các dịch vụ lao động cho công nghiệp chế biến, v.v... Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật ngày càng trưởng thành, công nhân được nâng cao trình độ, tay nghề; Một số vấn đề cần được lưu ý: - So với các ngành khác, tỉ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông, lâm nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Hiện tại, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 13,6% về số dự án và 7% về vốn đầu tư đăng ký; - Chưa có cơ quan của ngành xây dựng chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng nguồn vốn FDI trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, kể cả việc theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án; - Cần chú trọng xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển nông lâm sản theo hướng hiện đại nhằm mở rộng thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, hoàn thiện các chính sách về sử dụng đất, thuế và các chế độ ưu đãi đầu tư, đặc biệt là đầu tư trong nông nghiệp và ở các vùng nông thôn; - Cơ sở hạ tầng và tay nghề lao động ở khu vực nông thôn tuy đã được cải thiện nhiều nhờ thành tựu xoá đói giảm nghèo, song chưa đủ để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài; - Rủi ro khi đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn cao hơn nhiều so với các ngành khác. Nông nghiệp Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng; - Đa số dự án có qui mô nhỏ, phân bố không đồng đều giữa các vùng, miền trong nước. - Chưa hình thành một cơ chế gắn kết thường xuyên giữa Bộ và địa phương (Tỉnh) để chọn lựa giới thiệu với các nhà đầu tư nước ngoài các dự án FDI ưu tiên trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; - Cần có chính sách thu hút đầu tư mạnh hơn nữa vào công nghệ chế biến nông lâm sản, bảo quản sau thu hoạch, tạo cây, con giống có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; - Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài theo ý đồ chiến lược phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình. III. Vai trò của FDI với đảm bảo phúc lợi xã hội cho con người 1. Tác động tới việc làm và chất lượng nguồn lao động Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động hiện đang được xã hội quan tâm và coi đây là một trong những nhân tố góp phần làm cho xã hội phát triển công bằng và bền vững. Mọi người có việc làm sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, các vấn đề xã hội đựơc giải quyết, nâng cao đời sống cho mọi tầng lớp dân cư. Song song với việc giải quyết việc làm là việc không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng lao động, tạo ra cho nền kinh tế nhiều đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ khoa học công nghệ cao, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực quản lý vĩ mô,... góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước cũng như nâng cao hơn nữa chất lượng lao động là một trong những mục tiêu đặt ra khi thực thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu được kết quả cao hơn so với các mục tiêu khácSố liệu thống kê cũng cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp FDI trong việc tạo ra việc làm mới trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung bình 24,4%/năm (tăng gần gấp ba lần về mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000 lên 667.000 người năm 2005), bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt là 3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN. Tuy con số này còn rất khiêm tốn nhưng với đà tăng trưởng nhanh như vậy, đặc biệt là sau khi VN gia nhập WTO, triển vọng việc làm được tạo ra bởi thành phần kinh tế này khá sáng sủa. Trong tương lai, thành phần này sẽ đuổi kịp thành phần kinh tế nhà nước về mặt thu hút lao động (năm 2005, doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng 9,7% và doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng 88,8% trong tổng lực lượng lao động). Đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn sẽ cho phép họ tuyển mộ được (hay cạnh tranh để thu hút) những nhân viên ưu tú từ các doanh nghiệp nhà nước. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất của các doanh nghiệp nhà nước, tạo thêm nhiều doanh nghiệp thua lỗ, và do đó, làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng ở thành thị. Số liệu từ các cuộc khảo sát cũng cho thấy các doanh nghiệp nhà nước có năng suất thấp so với các doanh nghiệp khác, đặc biệt so với doanh nghiệp FDI. Theo một báo cáo của Mekong Economics năm 2002, một lao động trong doanh nghiệp FDI tạo ra 110 triệu đồng giá trị gia tăng năm 2000, so với 36 triệu đồng ở doanh nghiệp nhà nước và 40 triệu đồng ở doanh nghiệp tư nhân. Nếu xét về chỉ tiêu kinh doanh khác như tỷ suất lợi nhuận/tiền lương mà Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội tiến hành năm 2005 thì kết quả cũng tương tự, với con số 1,1 ở doanh nghiệp FDI, 0,3 ở doanh nghiệp nhà nước, và 0,5 ở doanh nghiệp tư nhân. Qua các con số minh họa trên, có thể nói là lao động ở các doanh nghiệp FDI có năng suất lao động và tiền lương cao hơn lao động ở doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp FDI đã trở thành đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước trên thị trường lao động, đặc biệt là lao động có trình độ. 2. Nâng cao mức sống, mức thu nhập của người dân Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy các doanh nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp cao, như các chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động quản lý trong các doanh nghiệp FDI trung bình là 12 triệu đồng/tháng (năm 2005), cao hơn nhiều so với mức lương tương ứng ở các doanh nghiệp nhà nước (4,3 triệu) và doanh nghiệp tư nhân (3 triệu). Nếu tính bình quân lương tháng của toàn bộ lao động trong doanh nghiệp qua các cuộc khảo sát tiền lương do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành từ đầu thập kỷ này thì người lao động trong doanh nghiệp FDI vẫn được hưởng mức lương cao hơn so với ở các doanh nghiệp trong nước khác (thấp nhất là ở doanh nghiệp tư nhân). 3. Nâng cao cơ sở hạ tầng cho xã hội. Kết cấu hạ tầng giữ vai tṛò quan trọng, nó tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế đặc biệt là công nghiệp xây dựng và dịch vụ, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Việc nâng cao kết cấu hạ tầng sẽ làm tăng khả năng thu hút FDI vào Việt Nam. Vì vậy, Chính phủ nên kêu gọi khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, vì sự tham của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng là rất cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực cảng biển, điện năng. Việt Nam cần phải chuyển từ lời kêu gọi thuần túy sang việc cho phép trên thực tế, để các nhà đầu tư có thể tham gia và nhanh chóng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng mà Việt Nam đang rất cần. Chương III: Giải pháp trong việc thu hút và sử dụng FDI vào Việt Nam Mặc dù, trong mấy năm trở lại đây và đặc biệt là trong 5 tháng đầu năm 2006, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá, như vốn thực hiện và vốn đăng ký mới, nhìn chung mới đạt khoảng 40% mức dự kiến cả năm. Vì vậy để tạo ra bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có đầu tư nước ngoài như báo cáo của chính phủ đã nêu trước Quốc hội vừa qua, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: 1. Một số vấn đề thống nhất về quan điểm thu hút và sử dụng FDI theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, để thu hút mạnh hơn và sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài , thực tế cho thấy cần có sự thống nhất cao vệ nhận thức trong lĩnh vực này theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thể hiện những nội dung chủ yếu sau. Thứ nhất, thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI nhằm phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và phát huy nộ lực là hai mặt của một vấn đề có quan hệ hữu cơ với nhau,chúng không đối lập nhau, ngược lại có thể kết hợp, bổ sung cho nhau một cách biện chứng, tạo thành sức mạnh tổng hợp theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra là: phát huy nội lực để thu hút mạnh hơn ngoại lực, thu hút ngoại lực để khai thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nội lực theo tinh thần “ Nội lực là quyết định, ngọai lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Thứ hai, gắn chặt việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Thứ ba, phải đặt nhiệm vụ thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI là bộ phận khăng khít của chính sách phát triển kinh tế đối ngoại và chiến lược phát triển KT-XH; trong đó, FDI đóng vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ tư, đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI gắn với việc nâng cao hiệu quả trong phân bổ, sử dụng một cách toàn diện và hợp lý để phát huy cao nhất vai trò, tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế nước ta. Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài phải góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, bảo đảm an ninh- quốc phòng và bảo vệ môi trường. 1. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI Một là, cải thiện môi trường đầu tư, tăng sự hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng các giải pháp sau: Đơn vị % 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ tăng của GDP 6,79 6,89 7,08 7,34 7,69 Tốc độ tăng của khu vực có VĐT nước ngoài 11,44 7,21 7,16 10,52 11,09 Tỷ trọng vốn FDI trong tổng VĐT phát triển của Việt Nam 18,0 17,6 17,5 16,3 15,5 Nền kinh tế 100 100 100 100 100 NN,LN,TS 25,53 23,24 23,03 22,54 21,76 CN,XD 36,73 38,13 38,49 39,47 40,09 ĐV 38,74 38,63 38,48 37,99 38,15 (1)   Phát triển các dịch vụ phục vụ cho FDI như các trung tâm giới thiệu việc làm, giới thiệu công nhân có tay nghề, cán bộ kỹ thuật, các trung tâm cung ứng vật tư, các trung tâm điều hoà ngoại hốiĐồng thời coi trọng việc nâng cao chất lượng các mạng lưới dịch vụ (ăn, ở, đi lại, giải trí) để các nhà đầu tư nước ngoài an tâm làm việc lâu dài với Việt Nam. (2)   Cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đàu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh công cuộc xây dựng các đặc khu kinh tế, khu chế xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4750.doc
Tài liệu liên quan