Chuyên đề Giải quyết việc làm cho lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay: thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM 3

I. VIỆC LÀM VÀ CƠ CẤU VIỆC LÀM 3

1. Khái niệm việc làm 3

2. Cơ cấu việc làm 4

3. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp 6

3.1. Khái niệm thất nghiệp 6

3.2. Phân loại thất nghiệp 7

II. TẠO VIỆC LÀM VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG 8

1. Tạo việc làm 8

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động 9

2.1. Điều kiện tự nhiên 9

2.1.1. Vị trí địa lý: 9

2.1.2. Khí hậu 10

2.1.3. Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi, núi non 10

2.2. Tăng trưởng kinh tế 11

2.3. Nhân tố về công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm 13

2.4. Tốc độ đô thị hóa 14

CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 15

I. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 15

1. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư 15

2. Chính sách về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp 16

3. Tạo việc làm thông qua trung tâm giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động, hội chợ việc làm 17

4. Phát triển đa dạng các thành phần kinh tế để thu hút lao động 18

5. Chính sách về giáo dục đào tạo của tỉnh 20

6. Giải quyết việc làm thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc làm 23

II. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 25

1. Thực trạng việc làm theo ngành kinh tế 25

3. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế 28

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 30

1. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm 31

1.1. Điều kiện tự nhiên Vĩnh Phúc 31

1.1.1. Vị trí địa lý: 31

1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên( đất, hầm mỏ, sông ngòi, núi non): 31

1.2. Tăng trưởng kinh tế 33

1.3. Nhân tố công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm 35

1.3.1. Tác động của khoa học công nghệ 35

1.3.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư 36

1.4. Tốc độ đô thị hóa 38

2. Kết quả của giải quyết việc làm ở Vĩnh Phúc 39

3. Những tồn tại trong giải quyết việc làm ở Vĩnh Phúc 40

4. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại trong giải quyết việc làm thời gian qua 45

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2009-2010 50

I. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NHỮNG DỰ BÁO VỀ CUNG LAO ĐỘNG, NHU CẦU TUYỂN DỤNG LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP ĐẾN NĂM 2010 50

1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu giải quyết việc làm của Vĩnh Phúc đến năm 2010 50

2. Dự báo về nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp đến năm 2010 51

II. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA TỈNH GIAI ĐOẠN 2009-2010 53

1. Phát triển kinh tế xã hội nhằm ổn định việc làm và tạo thêm chỗ làm việc mới nhất là phát triển các vùng kinh tế trọng điểm như khu, cụm công nghiệp, khu đô thị mới. 53

2. Tập trung phát triển đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề sát với thực tế, hỗ trợ học phí cho đào tạo nghề. 54

3. Giải quyết việc làm đối với lao động nơi có đất bị thu hồi 55

4. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp tạo việc làm và phát triển thị trường lao động 55

5. Nhóm giải pháp về quản lý 55

KẾT LUẬN 56

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3503 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải quyết việc làm cho lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất, số lượng cơ sở dạy nghề, quy mô và chất lượng đào tạo cũng đã có sự thay đổi để từng bước đáp ứng nhu cầu trên thị trường lao động và phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động. Phát triển mạnh về mạng lưới dạy nghề và quy mô dạy nghề: Mạng lưới dạy nghề: phát triển theo đúng định hướng quy hoạch phát triển hệ thống đào tạo nghề, từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về phân bố giữa các vùng và các ngành. Năm 2006 toàn tỉnh có 52 cơ sở dạy nghề, thì đến năm 2008 trên địa bàn tỉnh có 55 cơ sở dạy nghề bao gồm: 4 trường cao đẳng dạy nghề, 4 trường trung cấp dạy nghề, 8 trung tâm dạy nghề và 29 cơ sở dạy nghề khác. Nhìn chung các cơ sở dạy nghề vẫn còn thiếu so với yêu cầu thực tế. Quy mô nghề: Quy mô đào tạo của các cơ sở dạy nghề tăng từ 22550 học viên năm 2006 lên 36400 học viên năm 2008. Hàng năm số học viên được đào tạo nghề tương đối lớn được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.1: Số học sinh được đào tạo nghề ra trường hàng năm Đơn vị: người Năm Số học sinh 2006 2007 2008 Sơ cấp nghề 13180 17840 19076 Dạy nghề thường xuyên 4100 8626 8700 Dạy nghề dài hạn 3207 3593 4712 Tổng số học sinh 20487 30059 32488 Nguồn: sở lao động thương binh Xã hội Vĩnh Phúc Qua bảng số liệu ta thấy quy mô dạy nghề tăng qua các năm thể hiện qua số học sinh được đào tạo nghề tốt nghiệp ra trường. Năm 2007 số học sinh ra trường tăng mạnh 46,72%, năm 2008 có tăng nhưng tăng nhẹ 8,1%. Nhìn chung bình quân mỗi năm Vĩnh Phúc đã đào tạo nghề cho 27678 người/ năm. Tuy nhiên quy mô số học sinh dạy nghề tốt nghiệp của dạy nghề dài hạn và dạy nghề thường xuyên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu dạy nghề đặc biệt là dạy nghề dài hạn, sơ cấp dạy nghề vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất qua các năm. Điều này cho thấy quy mô dạy nghề dài hạn vẫn còn thấp so với tổng số lao động được đào tạo nghề ra trường hàng năm. Mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các loại hình, hình thức đào tạo nghề: Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động, cũng như nhu cầu của thị trường lao động, một số cơ sở dạy nghề đã chủ động xây dựng kế hoạch mở rộng đào tạo các nghề mới, nâng cao quy mô năng lực đào tạo nghề. Bên cạnh việc đào tạo nghề cho người lao động thường xuyên, dạy nghề dài hạn, ngắn hạn; sơ cấp nghề; các cơ sở dạy nghề còn tổ chức đào tạo nghề cho người lao động dưới nhiều hình thức như: dạy nghề gắn với giải quyết việc làm, dạy nghề theo hợp đồng lao động của các doanh nghiệp, dạy nghề theo hình thức vừa học vừa làm tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề truyền thống, dạy nghề lưu động tại các địa phương, các khu, cụm công nghiệp. Tăng cường đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý: Đội ngũ giáo viên phát triển về số lượng, chất lượng từng bước được nâng cao. Đại bộ phận cán bộ quản lý tại các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề là những giáo viên có trình độ có kinh nghiệm nhưng nhìn chung năng lực tổ chức quản lý đào tạo còn hạn chế. Đầu tư nguồn lực, tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề: Việc xây dựng các cơ sở dạy nghề được đẩy mạnh, trường đào tạo nghề Vĩnh Phúc, trung tâm dạy nghề thị xã Phúc Yên, trung tâm dạy nghề Lập Thạch và Vĩnh Tường cơ bản đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, các cơ sở dạy nghề này đã cơ bản có đủ phòng học lý thuyết, xưởng thực hành. Để đáp ứng công tác đào tạo nghề được thực hiện tốt, Vĩnh Phúc đã đầu tư vào cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề. Năm 2006, tỉnh đã đầu tư trên 70 tỷ đồng cho đào tạo nghề trong đó mua sắm máy móc thiết bị dạy nghề cho các cơ sở đào tạo nghề công lập gần 15 tỷ đồng. Năm 2007 chỉ đầu tư được gần 4 tỷ đồng cho cơ sở vật chất đào tạo nghề, không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra( kế hoạch là 14,5 tỷ). Đến năm 2008, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề là 7,1 tỷ đồng, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên trang thiết bị dạy và học nghề của nhiều cơ sở, nhất là trung tâm dạy nghề vẫn còn thiếu và lạc hậu. Chất lượng đào tạo nghề:. Chất lượng đào tạo nghề cũng chưa được sát với yêu cầu công việc trong thực tế và kỹ năng nghề, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, sức khỏe và ngoại ngữ của các học viên học nghề còn nhiều hạn chế. Nguồn kinh phí cho dạy nghề: Kinh phí cho đào tạo nghề thời gian qua theo xu hướng, nguồn từ ngân sách giảm và đóng góp của học viên tăng. Năm 2006 là kinh phí sự nghiệp đào tạo nghề là 10,5 tỷ đồng trong đó ngân sách là 7,8 tỷ đồng, đóng góp của học viên là 2,5 tỷ, nguồn khác 0,2 tỷ. Nhưng đến năm 2007 kinh phí là 11,3 tỷ trong đó ngân sách là 4,9 tỷ( giảm 2,9 tỷ), đóng góp của học viên là 3,8 tỷ( tăng 1,3 tỷ), nguồn khác 2,7 tỷ. Như vậy kinh phí cho học nghề do học viên đóng góp tăng cao, và do đó sẽ hạn chế số học theo học đào vì không có đủ kinh phí theo học. Tóm lại, chính sách giáo dục đào tạo của tỉnh cho người lao động đã có bước phát triển, cụ thể là phát triển về mạng lưới dạy nghề, quy mô dạy nghề được mở rộng, đội ngũ giáo viên dạy nghề được tăng cường cả về số và chất lượng, cũng như đầu tư vào các trang thiết bị dạy nghề. Các chính sách giáo dục đào tạo này đã tác động đến chất lượng nguồn lao động của tỉnh, từng bước đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, từ đó gián tiếp góp phần giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh. 6. Giải quyết việc làm thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc làm Cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm theo nghị quyết 120/HĐBT ( nay là chính phủ) ra đời năm 1992 nhằm thực hiện chính sách tín dụng hỗ trợ cho các đối tượng tạo việc làm, tăng thu nhập với lãi suất ưu đãi khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, tạo ra nhiều việc làm mới và ổn định việc làm cho người lao động trong các cơ sở sản xuất. Thực hiện chủ trương đó trong những năm qua Vĩnh Phúc đã triển khai nguồn vốn cho vay đối với các đối tượng lao động trong tỉnh. Trong giai đoạn 2006-2008: Bảng 2.2: Quỹ quốc gia cho vay hỗ trợ việc làm giai đoạn 2006-2008 Đơn vị 2006 2007 2008 1. Tổng nguồn quỹ( cả TW-ĐP) Triệu đồng 12000 11500 11500 Trong đo: tổng số vốn thu hồi Vốn bổ sung mới Triệu đồng 8000 8000 8000 Triệu đồng 4000 3500 3500 2. Số dự án được duyệt vay vốn Số tiền cho các dự án vay Dự án 49 60 54 Triệu đồng 12000 11500 11500 3. Số lao động được tạo việc làm Người 600 1855 Nguồn: Sở lao động thương binh và xã hội Vĩnh Phúc Qua bảng số liệu cho thấy, quỹ quốc gia giải quyết việc làm năm 2006 đã duyệt được 49 dự án với tổng số tiền cho vay là 12 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 4 tỷ đồng. Năm 2007, quỹ đã duyệt được 60 dự án với tổng số tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 3,5 tỷ đồng. Như vậy năm 2007 số dự án được duyệt cho vay đã tăng thêm 11 dự án so với năm 2006 nhưng số tiền cho vay lại giảm 0,5 tỷ đồng. Năm 2008, quỹ đã duyệt được 54 dự án với tổng số tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 3,5 tỷ đồng. Năm 2008, số dự án được duyệt lại giảm so với năm 2007 là 6 dự án nhưng quy mô tiền vốn cho vay lại không đổi. Nhìn chung cả thời kỳ 2006-2008, quy mô vay vốn của tỉnh đã mở rộng hơn về số dự án, thu hẹp hơn về số tiền vay. Năm 2008, số dự án cho vay tăng thêm nhưng số tiền vay không đổi và số lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn cho vay này tăng thêm 1255 lao động so với năm 2007, có được điều này là do sự thay đổi chính sách cho vay vốn của tỉnh, các dự án tỉnh duyệt đều là các dự án sử dụng ít vốn nhưng lại sử dụng nhiều lao động. Đó là một một giải pháp tốt mà tỉnh đã sử dụng, góp phần giải quyết được nhiệu việc làm cho lao động, tuy nhiên tổng số tiền cho vay còn thấp và trong thời gian tới cần tăng quy mô số tiền cho vay lên. Tóm lại, qua một loạt những cố gắng trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008, và để thấy rõ hơn những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh, tôi sẽ tiến hành phân tích thực trạng về việc làm theo ngành và theo khu vực của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008 ở mục II sau. II. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 1. Thực trạng việc làm theo ngành kinh tế Số lao động được tạo việc làm theo ngành có xu hướng tăng trong giai đoạn 2006-2008( năm 2008 tăng 3,23% so với năm 2006), trong đó ngành dịch vụ có xu hướng tăng dần tỷ trọng số lao động được tạo việc làm, ngành nông nghiệp và công nghiệp có xu hướng giảm dần tỷ trọng số lao động được tạo việc làm. Ngành công nghiệp vẫn là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất cho lao động của tỉnh( chiếm 52,77% năm 2006, 60,45% năm 2007 và 48,56% năm 2008 trong tổng số lao động được tạo việc làm từng năm). Do đặc điểm Vĩnh Phúc là tỉnh có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển. Xu hướng chuyển dịch số lao động được tạo việc làm qua các năm của Vĩnh Phúc được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng2.3: Tổng số lao động được tạo việc làm theo ngành và Tỷ lệ lao động được tạo việc làm Năm Ngành 2006 2007 2008 I. Số lao động được tạo việc làm (lao động) 20.064 22.000 20.712 1. Nông- Lâm- Ngư nghiệp 5.800 5.100 5.274 2. Công nghiệp- xây dựng 10.587 13.300 10.058 3. Dịch vụ 3.677 3.600 5.380 II. Phần trăm lao động được tạo việc làm(%) 100 100 100 1. Nông- Lâm- Ngư nghiệp 28,9 23,18 25,46 2. Công nghiệp- Xây dựng 52,77 60,45 48,56 3. Dịch vụ 18,33 16,36 25,98 Nguồn: Sở lao động thương binh xã hội Vĩnh Phúc Qua bảng số liệu ta thấy, tỷ trọng số lao động được tạo việc làm giữa các năm có sự biến đổi tăng giảm giữa các ngành trong nền kinh tế. Cụ thể, trong năm 2006, ngành nông nghiệp đã tạo được việc làm cho 5.800 lao động, chiếm 28,9% trong tổng số lao động được tạo việc làm; ngành công nghiệp xây dựng tạo ra việc làm cho 10.587 lao động chiếm 52,77% trong tổng số lao động được tạo việc làm; trong đó ngành dịch vụ chỉ tạo ra được việc làm cho 3.677 lao động chiếm 18,33% trong tổng số lao động được tạo việc làm toàn tỉnh. Như vậy ngành dịch vụ tạo ra ít việc làm nhất. Nhưng sang năm 2007, Vĩnh phúc đã thực hiện rất nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thì tổng số lao động được tạo việc làm tăng so với năm trước là 1936 người. Cơ cấu việc làm đã có sự chuyển dịch từ ngành nông nghiệp, ngành dịch vụ sang ngành công nghiệp xây dựng, điều đó được giải thích bởi chính sách thu hút đầu tư của tỉnh. Trong năm 2006 và 2007 là hai năm mà UBND tỉnh có chính sách mở rộng các khu công nghiệp, thu hút các nhà đầu tư vào đầu tư do đó công tác xây dựng ban đầu tại các khu công nghiệp đã thu hút không ít lao động vào làm việc. Khi hoàn thành đầu tư các dự án vào khu công nghiệp các doanh nghiệp thu hút thêm lượng lớn lao động nữa vào làm việc, bên cạnh đó việc thu hồi đất xây dựng các dự án đã đẩy nhiều hộ gia đình mất đất nông nghiệp và các gia đình đang kinh doanh dịch vụ phải chuyển sang làm trong lĩnh vực khác làm cho cơ cấu nông nghiệp và dịch vụ cũng chuyển sang ngành công nghiệp xây dựng. Cụ thể ngành nông nghiệp do mất đất sử dụng, lao động bị thu hút sang các ngành khác một phần nên số lao động được tạo việc làm giảm 700 người tương đương giảm 5.72%; còn ngành công nghiệp số lao động được tạo việc làm tăng mạnh 2.713 người tương đương tăng 7,68%; trong đó ngành dịch vụ có giảm nhưng giảm nhẹ, chỉ giảm đi 77 người tương đương 1,97%. Năm 2008, tổng số lao động được tạo việc làm ít hơn năm 2007 nhưng vẫn cao hơn năm 2006, cơ cấu việc làm lại có chiều hướng chuyển dịch ngược lại. Ngành nông nghiệp và dịch vụ lại thu hút lao động từ ngành công nghiệp- xây dựng chuyển sang. Công tác quản lý vốn không hiệu quả gây nhiều thất thoát, và do một nguyên nhân khách quan nữa là cơn bão giá toàn cầu đã làm các khu công nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động vốn gặp nhiều khó khăn lại càng khó khăn hơn, các doanh nghiệp buộc cắt giảm nhân công để giảm giá thành, các công trình xây dựng dở dang trì hoãn xây dựng do giá đầu vào tăng khiến không ít người lao động mất việc. Trong tình hình đó những lao động không có trình độ sẽ bị sa thải khỏi ngành công nghiệp làm số lao động được tạo việc làm của ngành giảm 3.242 lao động tương đương giảm 11,89%. Số lao động không có trình độ chuyển sang làm việc trong những ngành không đòi nhiều về trình độ chuyên môn như nông nghiệp, các dịch vụ nông nghiệp, chủ yếu là dịch vụ nhỏ lẻ khác, và như vậy làm cho lao động được tạo việc làm trong các ngành này tăng tương tương ứng 174 và 1780 lao động. Và số lao động toàn nền kinh tế của tỉnh giảm 1.288 lao động. Nhìn chung số lao động được tạo việc làm trong toàn tỉnh có sự biến động không đồng đều giữa các năm nhưng nhìn chung có biến động nhẹ theo chiều hướng tốt. Trong ba năm lao động trong ngành nông nghiệp có giảm, ngành dịch vụ tăng và ngành công nghiệp tuy có giảm nhưng giảm nhẹ so với năm 2006. Hay nói khác chuyển đổi việc làm có xu hướng chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, nhưng vẫn ở những công việc có trình độ thấp. Và tính tổng số lao động được tạo việc làm năm 2008 so với 2006 là có tăng 648 người. 3. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế Số lượng lao động có việc làm theo khu vực có xu hướng tăng liên tục trong ba năm giai đoạn 2006-2008, năm 2007 tăng 10.815 người tương đương 1,61%, năm 2008 tăng mạnh so với năm 2007 với quy mô tăng 27.022 người tương đương 4%. Cơ cấu lao động có việc làm có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông thông sang thành thị. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.4: Số lao động và tỷ lệ lao động có việc làm chia theo khu vực thành thị nông thôn 2006 2007 2008 I. Số lao động có việc làm theo khu vực ( người) 671.592 682.407 709.429 1. Thành thị 84.891 84.569 103.757 2. Nông thôn 596.701 597.838 605.672 II. Tỷ lệ số lao động có việc làm theo khu vực(%) 100,00 100,00 100,00 1. Thành thị 12,64 12,39 14,63 2. Nông thôn 87,36 87,61 85,37 Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Phúc Qua bảng số liệu ta thấy, về quy mô số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn có xu hướng tăng nhưng tỷ trọng số lao động có việc làm khu vực nông thôn có xu hướng tăng vào năm 2007 nhưng lại tỷ trọng này lại giảm mạnh vào năm 2008. Cụ thể năm 2007 số lao động có việc làm tăng 1.137 người tương đương tăng tỷ trọng 0,25 % so với năm 2006. Năm 2008, số lao động có việc làm khu vực nông thôn tăng 7.834 người nhưng tỷ trọng số lao động có việc làm khu vực nông thôn lại giảm mạnh 2,24%. Ở khu vực thành thị số lao động có việc làm và tỷ trọng lao động có việc làm đều có xu hướng tăng trong cả giai đoạn 2006-2008. Năm 2007, số lao động có việc làm giảm người, tương đương giảm 0,25% về tỷ trọng. Nhưng sang năm 2008, số lao động có việc làm tăng nhanh đột biến với số lượng tăng 19.188 người, tương đương tăng 2,24% về tỷ trọng. Có sự thay đổi tăng lên về quy mô số lao động có việc làm trong cả hai khu vực là do các khu vực kinh tế mở rộng quy mô các ngành nghề, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên lại có sự chuyển dịch trong tỷ trọng số lao động có việc làm từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị, do tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, việc mở rộng hoạt động sản xuất trong khu vực thành thị đã làm mở rộng quy mô sử dụng lao động trong khu vực thành thị thu hút nhiều lao động ở khu vực nông thông chuyển sang. Nhìn chung cả giai đoạn 2006-2008, số lao động có việc làm có xu hướng tăng lên và tỷ trọng số lao động khu vực thành thị có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông thôn sang. Đây là xu hướng chuyển dịch tốt, thể hiện sự phát triển trong nền kinh tế. Tuy nhiên xét về mặt cơ cấu thì vẫn chưa đồng đều, số lao động có việc làm cao hơn rất nhiều so với khu vực thành thị và tỷ trọng lao động có việc làm khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng cơ cấu( trên 85%). Tóm lại, sau khi phân tích thực trạng việc làm của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008 là cơ sở để để mục III đưa ra những nhận xét, những đánh giá về giải quyết việc làm của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến còn tồn tại trong giải quyết việc làm. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008 Trước khi tiến hành đánh giá về công tác giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc, thì phải phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm để thấy được những kết quả đạt được chịu ảnh hưởng tích cực từ các nhân tố nào, và những tồn tại chịu ảnh hưởng tiêu cực của những nhân tố nào, từ đó giúp tìm ra được các nguyên nhân của những tồn tại đó để có các giải pháp giải quyết phù hợp. 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm 1.1. Điều kiện tự nhiên Vĩnh Phúc 1.1.1.. Vị trí địa lý: Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ tiếp giáp với Hà Nội và một số tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Tây, Phú Thọ với diện tích tự nhiên vào khoảng 1371,41km2. Vĩnh Phúc có vị trí thuận lợi, nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội- Lào Cai, là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan trọng đối với vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, đặc biệt đối với thủ đô Hà Nội, góp phần cùng với thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của Thủ đô Hà Nội. Với vị trí thuận lợi đó, đã giúp Vĩnh phúc có những lợi thế mới để phát triển kinh tế như; tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía bắc; chịu ảnh hưởng mạnh mẽ trước sự lan tỏa của các khu công nghiệp lớn thuộc Hà Nội như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn… Sự hình thành phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm kinh tế. Từ các lợi thế về kinh tế đã tạo nhiều cơ hội cho Vĩnh Phúc thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các vào các ngành, các khu công nghiệp tỉnh. Nhiều ngành nghề mới phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động của tỉnh. 1.1.2.. Tài nguyên thiên nhiên( đất, hầm mỏ, sông ngòi, núi non): Tài nguyên đất: Tỉnh Vĩnh Phúc có 219.200ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó: diện tích đất nông nghiệp là 66.781 ha chiếm 48,69 %; diện tích đất lâm nghiệp là 30433 ha chiếm 22,18 %, diện tích đất chuyên dung là 18693 ha chiếm 13,63 %, diện tích đất ở là 5.158 ha chiếm 3,67%, diện tích đất chưa sử dụng và song suối đá là 16017 ha chiếm 11,71 %. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 53.587 ha chiếm 89,64%, riêng đất lúa chiếm 96,18%, gieo trồng hai vụ; diện tích đất trồng cây lâu năm là 1.139 ha chiếm 1,7%; diện tích đất cơ mặt nước nuôi trồng thủy sản là 2.171 ha chiếm 3,25%. Diện tích đất trống đồi trọc cần phủ xanh là 7608 ha, bãi bồi có thể sử dụng là 1.426 ha, đất mặt nước chưa được khai thác 533 ha. Với tài nguyên đất phong phú như thế giúp cho Vĩnh Phúc phát triển đa dạng loại ngành nghề: nông lâm nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông, lâm nghiệp, các ngành dịch vụ phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp; từ đó tạo cơ hội giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong tỉnh. Nhưng hiện nay một phần đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã gây không ít khó khăn cho công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở vùng bị thu hồi đất tìm kiếm việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp; bởi trình họ là những lao động không có trình độ cao. Tài nguyên rừng: Toàn tỉnh có 30.439 ha rừng, trong đó: diện tích rừng tự nhiên là 9592 ha, diện tích rừng trống là 20.847 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên có 15.482 ha thuộc vườn quốc gia Tam Đảo quản lý. Diện tích rừng rộng, tài nguyên rừng phong phú về chủng loại, tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc phát triển các ngành lâm nghiệp, nuôi trồng cây công nghiệp, cây dược liệu quý từ rừng; đặc biệt khu rừng sinh thái Tam Đảo giúp tỉnh phát triển ngành du lịch tạo điều kiện giải quyết nhiều việc làm cho lao động của tỉnh. Tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản cũng phong phú về chủng loại, có 4 loại khoáng sản đó là: Khoáng sản nguyên vật liệu xây dựng và nguyên liệu làm sứ gốm: đất sét làm gạch ngói, trữ lượng hàng tỷ m3; cát sỏi lòng sông và bậc thềm, trữ lượng hàng chục m3; đá xây dựng, trữ lượng hàng tỷ m3 gồm đá khối, đá tảng, đá dăm. Nhóm nguyên vật liệu làm sứ: đất cao lanh có trữ lượng hàng triệu m3 để sản xuất gốm sứ và gạch chịu lửa. Khoáng sản kim loại gồm có: đồng, vàng, thiếc, sắt. Khoáng sản là than chưa khai thác gồm: than đá antraxit có khoảng 1000 tấn ở xã Đạo Trù, than nâu trữ lượng vài nghìn tấn, than bùn ở nhiều điểm. Với trữ lượng khoáng sản phong phú về chủng loại, nhiều về số lượng đã tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc phát triển nhiều ngành nghề liên quan đến công nghiệp thác và chế biến các sản phẩm khai thác, tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc giải quyết được nhiều việc làm cho lao động trong tỉnh. 1.2. Tăng trưởng kinh tế Nền kinh tế Vĩnh Phúc( kể từ khi tái lập tỉnh trên cơ sở tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú) đã có những phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 10 năm qua đạt khoảng 17%, GDP bình quân đầu người ước đạt 21,6 triệu đồng, tăng 37,4% so với năm 2007. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ năm 2008 đạt 82% trong cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng kinh tế(GDP-giá so sánh 1994) tuy không đạt kế hoạch, nhưng vẫn tăng trưởng ở mức cao so với cả nước, ước đạt 14,78%( kế hoạch là trên 18%), trong đó khu vực công nghiệp-xây dựng tăng14,91%, khu vực dịch vụ tăng 18,99%, khu vực nông lâm nghiệp thủy sản tăng 6,89%. Kinh tế tăng trưởng cao, từ đó tỷ lệ tiết kiệm cho tái đầu tư mở rộng quy mô sản xuất cao, từ đó giúp tỉnh có điều kiện giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cũng gây ra sự mất cân đối giữa việc làm khu vực nông thôn và thành thị. Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Vĩnh Phúc có bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006-2008 có tốc độ tăng trưởng bình quân gần 30%, trong đó kim ngạch xuất khẩu năm 2008 trên địa bàn tỉnh ước đạt 425 triệu USD. Hàng công nghiệp xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 248 triệu USD chiếm 96% tổng kim ngạch, năm 2007 đạt 315 triệu USD chiếm 92%, riêng 7 tháng đầu năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt 248 triệu USD chiếm 97% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hiện nay sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp Vĩnh Phúc đã có mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có các nước EU, ASEAN, Nhật Bản, Nam Mỹ và Hoa Kỳ. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu này có tác động rất lớn đến mức tăng trưởng kinh tế cũng như mức thay đổi cơ cấu GDP các ngành của tỉnh, cụ thể xuất khẩu giúp các ngành mở rộng quy mô theo hướng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế của tỉnh, từ đó tác động tới mở rộng quy mô việc làm trong tỉnh. Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng mà Vĩnh Phúc đạt được trong thời gian qua kết hợp với chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi thông thoáng đã giúp tỉnh thu hút được vốn đầu tư mạnh ( với khoảng 4 tỷ USD và trên 600 dự án đầu tư), giúp mở rộng đầu tư phát triển quy mô sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong tỉnh. Tái cơ cấu kinh tế diễn ra theo chiều hướng tích cực, các ngành nghề mới nhiều do đó đã tăng thêm nhu cầu về lao động trong các ngành nghề góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động, đặc biệt là những lao động có trình độ trong tỉnh. Tái cơ cấu trong tỉnh đã làm cho một bộ phận lớn lao động không có trình độ mất việc làm, gây không ít khó khăn cho giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này. 1.3. Nhân tố công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm 1.3.1. Tác động của khoa học công nghệ Trong những năm qua, khoa học công nghệ đã thực sự góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp đạt kết quả. Một số giống lúa mới có năng suất cao, thích hợp với các vùng sinh thái được tuyển chọn và đưa vào sản xuất đại trà. Sự kết hợp giữa các giống lúa mới có năng suất cao với khả năng thâm canh tăng vụ của nông dân nên năng suất lúa đại trà năm sau cao hơn năm trước. Nhiều tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi như lai tạo giống con có năng suất cao, chương trình Sind hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn, gà công nghiệp, đưa đàn cá lai nhập lội đã tăng lên rõ rệt về số lượng và chất lượng sản phẩm. Các kết quả trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã giúp kinh tế nông nghiệp phát triển, giúp người lao động vùng nông thôn đạt hiệu quả trong sản xuất, mở rộng thâm canh tăng vụ, nhân rộng các mô hình kinh tế, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này. Trong công nghiệp dịch vụ, bước đầu đã thúc đẩy cải tiến công nghệ, nhập các công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch góp phần nâng cao trình độ công nghệ trên địa bàn tỉnh, tăng sản phẩm và năng suất lao động, bảo vệ môi trường. Trong những năm qua đã nhập và đưa vào sản xuất 12 công nghệ tiên tiến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22025.doc
Tài liệu liên quan