MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN 8
1.1.Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN 8
1.1.1.Vốn đầu tư XDCB tư NSNN 8
1.1.1.1. Khái niệm 8
1.1.1.2. Đặc điểm của vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN 9
1.1.1.3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN 10
1.1.1.4.Phân loại nguồn vốn đầu tư từ NSNN 11
1.1.2.Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN 13
1.1.2.1. Khái niệm 13
1.1.2.2. Nguyên tắc 13
1.1.2.3. Nội dung quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN 14
1.2.Chính sách quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN 17
1.2.1.Khái niệm chính sách 17
1.2.2.Vai trò của chính sách 18
1.2.3.Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạch định và thực thi chính sách 19
1.2.3.1.Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 19
1.2.3.2.Chương trình mục tiêu quốc gia 19
1.2.3.3.Cơ chế quản lý 20
1.2.3.4.Môi trường trong nước 20
1.2.3.5.Môi trường quốc tế 20
1.3.Nội dung cơ bản của chính sách quản lý vốn dầu tư XDCB từ NSNN 21
1.3.1.Mục tiêu của chính sách 21
1.3.1.1.Tăng trưởng kinh tế 21
1.3.1.2.Tạo công bằng xã hội 22
1.3.1.3.Sử dụng nguồn vốn hiệu quả 22
1.3.2.Nội dung của chính sách 22
1.3.2.1. Các loại chính sách huy động nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN 23
1.3.2.2. Các loại chính sách phân bổ vốn đầu tư từ NSNN 24
1.3.2.3.Các chính sách liên quan đến sử dụng vốn 25
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN 27
2.1.Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 27
2.2.Thực trạng tác động của chính sách 36
2.2.1.Chính sách huy động 36
2.2.2.Chính sách phân bổ 40
2.2.2.1.Chính sách phân bổ theo ngành kinh kế 40
2.2.2.2.Chính sách phân bổ nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo vùng lãnh thổ 44
2.2.3. Chính sách sử dụng 46
2.3.1. Kết quả đã đạt được 47
2.3.2.Tồn tại và nguyên nhân 51
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN 54
3.1. Định hướng đầu tư XDCB trong những năm tới 54
3.1.1. Viễn cảnh toàn cầu 54
3.1.1.1. Đánh giá diễn biến trong nước 54
3.1.1.2.Tình hình thế giới 55
3.1.2.Quan điểm cho hoạt động đầu tư XDCB từ NSNN 56
3.1.3.Mục tiêu phát triển cho đến năm 2010: 58
3.2. Hoàn thiện chính sách 64
3.2.1. Chính sách huy động vốn đầu tư XDCB từ NSNN 64
3.2.2. Chính sách phân bổ vốn đầu tư 66
3.2.2.1. Phân bổ vốn đầu tư XDCB theo cơ cấu kĩ thuật 66
3.2.2.2.Chính sách phân bổ nguồn vốn theo ngành kinh tế 67
3.2.2.3. Chính sách phân bổ NSNN theo vùng lãnh thổ 68
3.2.3. Chính sách sử dụng vốn đầu tư 68
3.3. Kiến nghị: 70
3.3.1. Kiến nghị với các bộ, ban ngành, có liên quan đến quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN 70
3.3.2. Một số kiến nghị với Chính phủ 71
KẾT LUẬN 73
75 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện chính sách quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành kinh tế
Bộ Tài chính cho biết, năm 2007, kế hoạch vốn đầu tư toàn xã hội là 452,1 ngàn tỷ đồng, chiếm 40% GDP, trong đó vốn NSNN là 99,45 ngàn tỷ đồng, tín dụng nhà nước là 40 ngàn tỷ đồng
Ngoài nguồn vốn đầu tư bố trí trong cân đối NSNN, Chính phủ còn thực hiện huy động trái phiếu Chính phủ trong năm 2007 là 200 ngàn tỷ đồng để đầu tư cho các dự án giao thông, thuỷ lợi trọng điểm và tái định cư... Nhưng đến hết tháng 10/2007, vốn xây dựng cơ bản (XDCB) mới tập trung giải ngân được 43.991 tỷ đồng, tức chỉ đạt 52,3% kế hoạch (cùng kỳ năm 2006 là 55%) và vốn XDCB nguồn trái phiếu chính phủ giải ngân đạt 5.254 tỷ đồng, bằng 34% kế hoạch (cùng kỳ năm 2006 là 46%).
Nhìn nhận, đánh giá về lĩnh vực đầu tư XDCB những năm qua vẫn còn mộ số “mảng tối” như tình trạng thất thoát, lãng phí, tiêu cực, đầu tư dàn trải, hiệu quả đồng vốn đầu tư đạt thấp đã trở nên khá phổ biến. Có thể khẳng định việc thất thoát, lãng phí thể hiện ở tất cả các giai đoạn, các khâu trong lĩnh vực đầu tư, trước hết là trong công tác phê duyệt thủ tục đầu tư, tư vấn, lập thiết kế, dự toán... Trên thực tế đã có không ít các dự án, cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán... thiếu chính xác phải điều chỉnh nhiều lần, làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng thi công, gây ra lãng phí vốn đầu tư... Việc thực hiện kế hoạch đầu tư vốn chờ công trình, thời gian đầu tư kéo dài, chậm đưa vào khai thác, sử dụng gây lãng phí, hạn chế hiệu quả đầu tư vẫn còn phổ biến, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư lớn và kéo dài nhiều năm, triển khai kế hoạch vốn đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương thường chậm, cùng với xu hướng ngày càng tăng các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư vẫn được bố trí kế hoạch cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng đầu tư.
Một vấn đề đã được đề cập đến rất nhiều là trong khi nguồn vốn NSNN còn hạn hẹp thì tình trạng đầu tư còn quá dàn trải, phân tán, thiếu tập trung, vẫn trở nên phổ biến và đang có xu hướng tăng lên ở các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là các dự án B, C. Theo số liệu tổng hợp của năm 2001 tổng số các dự án đầu tư thuộc các nhóm khoảng 7.000 dự án (trong đó nhóm A là 112 dự án), năm 2002: 8000 dự án (nhóm A: 101 dự án), 2003: 10500 dự án (111 dự án nhóm A) và đến năm 2004 tổng số các dự án đã tăng lên đến 12.355 và chủ yếu là các dự án nhóm B, C... với bình quân bố trí vốn đầu tư dành cho cho một dự án hàng năm là khá thấp. Có những dự án nhóm C chỉ được bố trí vốn khoảng 3-400 triệu đồng/năm, nếu so với tổng vốn của dự án thì không biết đến bao giờ mới hoàn thành. Mặt khác, việc đầu tư quá dàn trải đã dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công các công trình, dự án; nguồn vốn Ngân sách đã hạn hẹp lại phải phân tán, “rải mành mành” làm nhiều dự án cùng dở dang chậm đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả đồng vốn đầu tư. Đây là một nguyên nhân không nhỏ gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB, nhưng việc khắc phục còn chậm, chưa mang lại hiệu quả.
Việc thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB còn có nhiều nguyên nhân khác như công tác quy hoạch còn hạn chế, không theo kịp với tốc độ đầu tư, nên nhiều dự án phải điều chỉnh, hoặc di chuyển làm kéo dài thời gian, cũng như gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư...
Thất thoát qua đấu thầu, chỉ định thầu các dự án, ách tắc tiêu cực trong giải phóng mặt bằng cũng làm mất đi không ít những đồng vốn mà Nhà nước đang phải “thắt lưng buộc bụng” để dành cho đầu tư. Việc thực hiện nguồn vốn ODA, bố trí vốn đối ứng không đủ không những làm chậm tiến độ giải ngân, kéo dài thời gian hoàn thành đưa công trình vào sử dụng mà còn làm tăng chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng... Ngoài ra, cơ chế chính sách trong quản lý vốn đầu tư chưa đồng bộ, năng lực của các cá nhân tham gia các khâu trong quá trình đầu tư chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra trong đó có một số bộ phận cán bộ cố ý làm trái gây thất thoát, tiêu cực, việc thực hiện giám sát, quản lý chất lượng công trình cũng như xử lý các sai phạm còn hạn chế, nương nhẹ... cũng làm “đậm” thêm sự lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư XDCB.
Kế hoạch “chi tiêu” đối với đầu tư phát triển từ NSNN trong năm cuối của kế hoạch 5 năm còn khá nặng, dự kiến khoảng 64,5 tỷ đồng, tăng 9,2% so với thực hiện năm 2004 và chiếm 28% tổng chi ngân sách năm nay. Tuy vậy một vấn đề còn “nặng” hơn là làm sao quản lý hiệu quả nguồn vốn này cho “xứng tầm” với năm chống lãng phí, thất thoát, đầu tư dàn trải trong đầu tư XDCB. Bởi nguyên nhân của tình trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong đầu tư nêu trên không hề có gì mới và đã được “đúc rút” từ nhiều năm trước, nhưng trên thực tế thì vẫn đang rất lúng túng và khó khăn để tìm được “liều thuốc đặc trị” thực sự hiệu quả.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 -2010 sẽ diễn ra trong điều kiện nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới chính sách, đổi mới thể chế, đi đôi với việc hành động một cách quyết liệt và một trong những tư tưởng chính sách xuyên suốt trong kế hoạch là: phải coi doanh nghiệp là đội quân chủ lực trong phát triển kinh tế và hội nhập; Xây dựng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh chính là một thành tố quan trọng bậc nhất của chiến lược phát triển KTXH 5 năm 2006-2010;Coi nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2.2.Thực trạng tác động của chính sách
2.2.1.Chính sách huy động
Cần nhận thức rõ ràng rằng trong chính sách huy động vốn ĐTXDCB từ NSNN trong những thập kỉ 90 mang những nét nổi bật : thực hiện chính sách xóa bỏ dần bao cấp trong vốn đầu tư băng nguồn vốn NSNN, khai thác và phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiến hành đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển, chyển đổi cơ cấu đầu tư phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây nguồn tích lũy trong nước còn rất nhỏ bé (chỉ khoảng 2-5% thu nhập) so với nhu cầu đầu tư rất lớn của đất nước, chính vì thế đã không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết. Trong giai đoạn tiến hành công cuộc CNH – HĐH đất nước thì nhu cầu sử dụng vốn lớn và hiệu quả ngày càng trở nên búc xúc và là một trong những mục tiêu hàng đầu. Hàng loạt các chính sách cho việc khai thác và huy dộng nguồn vốn đầu tư XDCB được đưa ra, và nét nổi bật đó là đa dạng hóa mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bao gồm cả XDCB bằng việc tận dụng mọi nguồn vốn mọi nội lực có thể : vốn từ NSNN, vốn trong nhân dân, vốn của các doanh nghiệp và cả những nguồn vốn từ nước ngoài. Xây dựng quan điểm hết sức rõ ràng : vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng.
Để công việc này được tiến hành đồng bộ và nhất quán, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể bằng các Nghị định , Nghị quyết, thông tư. hệ thống luật pháp… với một số điểm chính như: tiến hành ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thực hiện một cách nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, bảo hộ mọi hình thức sở hữu hợp pháp và quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, ban hành các đạo luật đầu tư trong và ngoài nước, giải quyết từng bước quan hệ giữa Tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp, dân cư nhằm cải thiện công tác động viên vào NSNN và hoạt động đầu tư của dân cư, doanh ngiệp; từng bước hình thành thị trường vốn, đó là hệ thống các ngân hàng đầu tư và thương mại, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… ; thể chế hóa các chính sách để khuyến khích và hỗ trợ các nỗ lực đầu tư.
Việc cơ cấu tổng vốn đầu tư xã hội với mục tiêu tăng cường ngày càng nhiều các nguồn khác nhau được thực hiện, các chính sách đa dạng hóa trong khai thác và huy động vốn đầu tư, đầu tư XDCB đã được vận dụng trong thực tiễn hoạt động khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn trong kinh tế cùng tham gia ĐTXDCB.
Với mục tiêu huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển ngày càng cao như hiện nay thì ước tính nhu cầu phát triển kinh tế 5 năm tới lên đến 140 tỉ USD, tỉ trọng huy động vốn đầu tư trung bình cả giai đoạn là 38 - 40% GDP, tốc độ tăng bình quân là 12 - 13%, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm từ 60 – 65%.
Trong giai đoạn 2001 - 2005 vốn đầu tư qua kênh tài chính trung gian tài chính vào nền kinh tế chiếm 20 - 22% tổng vốn bình quân, huy động vốn giai đoan 2001 – 2005 đạt 20 - 25% luồng vốn đầu tư từ NSNN, còn lại là vốn từ khu vực dân cư, FDI, kiều hối và vốn qua kênh NHTM.
Nguồn vốn từ tích lũy của Nhà nước đang dần đạt tới trạng thái ổn định và đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu : vốn của NSNN chỉ chiếm 25 - 30% còn lại là huy động từ trong và ngoài nước, điều này làm giảm đi rất lớn gánh nặng mà NSNN phải gánh trong suốt những năm trước đây. Kết quả dó là do việc vận dụng một cách triệt để, chính xác chính sách đa dạng hóa trong khai thác và huy động vốn đầu tư XDCB cụ thể là việc vận dụng ngay đối với công tác huy động các nguồn vốn phục vụ cho mục tiêu đầu tư, đầu tư XDCB từ NSNN. Một loạt các hình thức huy đông vốn đầu tư đã được Nhà nước sử dụng, ví dụ : phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình xây dựng nhà máy xi măng Hoàng Thạch, thủy điện Yaly, khu đô thị Linh Đàm...; Chính phủ bảo lãnh vay vốn thực hiện nhiều dự án dưới hình thức BOT, BT ( dự án cầu đường Bình Triệu, An Sương – An lạc, quốc lộ 51, các dự án thoát nước thành phố Hồ Chí Minh, hay các dự án cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...); và hàng loạt các cơ chế của Nhà nước để hỗ trợ tài chính (Nhà nước đóng góp và nhân dân cùng đóng góp thực hiện các dự án phục vụ trực tiếp đời sống nhân dân trong vùng dự án).
Đây là cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội
( Tỉ đồng )
2001 – 2005
2006
2007
Kế hoạch
2008
Tổng vốn toàn xã hội
242,243
398,900
452,1
567,3
Vốn từ NSNN
56,9
86,4
89,4
98,13
Vốn tín dụng đầu tư
29,921
25,8
40
45
Vốn DNNN
36,960
60,2
70
85
FDI
39,953
68
73
96
Vốn dân cư và tư nhân
72,08
129,1
151
195
Vốn huy động khác
10,805
29,4
28,7
48,17
Bảng 2.3: Vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển nền kinh tế
(nguồn : Bộ tài chính)
2.2.2.Chính sách phân bổ
Xuất phát từ nhu cầu phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư XDCB từ NSNN nói riêng để đề ra các chính sách phân bổ và sử dụng một cách hợp lý, tuy nhiên nó phải được xuất phát từ những yêu cầu cụ thể và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong nhưng giai đoạn nhất định. Hiện nay đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH và HĐH đất nước, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế rõ rệt để mục tiêu đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp là 34 – 35%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 19 – 20%, dịch vụ chiếm 45 – 46%.
Thực trạng việc thực hiện chính sách phân bổ và sử dụng nguồn vốn :
2.2.2.1.Chính sách phân bổ theo ngành kinh kế
Mang ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp tới khả năng cạnh tranh và xuất khẩu chung của cả nền kinh tế.
Lĩnh vực công nghiệp: Đảng và Nhà nước đã đề ra các chủ trương, chính sách một cách cụ thể : sử dụng khả năng phát triển của tất cả các thành kinh tế, tăng cường xuất khẩu hàng tiêu dùng, ưu tiên tiến hành liên doanh hợp tác với nước ngoài; đẩy mạnh phát triển công nghiệp tư liêu sản xuất, khai khoáng và chế biến, tập trung trước hết vào sản xuất phục vụ nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chú trọng trong công tác quy hoạch xây dựng phát triển năng lượng; tăng cường khả năng liên kết liên doanh với nước ngoài từ công nghiệp khai thác cho đến công nghiệp chế biến dầu khí; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đổi mới công nghệ, kỹ thuật với sản phẩm trong các ngành cơ khí, công nghệ điện tử tin học.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10 - 10,5%/năm. Đến năm 2010, công nghiệp và xây dựng chiếm 40 - 41% GDP và sử dụng 23 - 24% lao động. Giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70 - 75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảo đảm cung cấp đủ và an toàn năng lượng (điện, dầu khí, than); đáp ứng đủ nhu cầu về thép xây dựng, phân lân, một phần phân đạm; cơ khí chế tạo đáp ứng 40% nhu cầu trong nước, tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất xe cơ giới, máy và thiết bị đạt 60 - 70%; công nghiệp điện tử - thông tin trở thành ngành mũi nhọn; chế biến hầu hết nông sản xuất khẩu; công nghiệp hàng tiêu dùng đáp ứng được nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu.
Với những khó khăn thách thức và những đòi hỏi trong thời đại mới về vốn đầu tư, nhóm chính sách về phân bổ nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong lĩnh vực công nghiệp trong giai đoạn này là: vốn đầu tư (gồm đầu tư XDCB) từ NSNN chỉ ưu tiên tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật và công nghệ cao... các thành phần kinh tế khác không thể thực hiện được, hoặc những ngành mà không mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp hay rất thấp nhưng lại mang lại hiệu quả kinh tế và đặc biệt là hiệu quả xã hội đối với toàn bộ nền kinh tế là rất lớn. Ví dụ : các dự án về thủy điện, cảng biển, quốc phòng, ...
Có được những kết quả trên là do chúng ta đã thu hút được nhiều nguồn vốn cùng tham gia vào quá trình đầu tư, qua đó giảm gánh nặng cho NSNN có thể chuyển đổi cho các công trình XDCB quan trọng khác mà các thành phần kinh tế khác không có đủ điều kiện để thực hiện nhằm phát triển kinh tế - xã hội được toàn diện.
Đối với hạ tầng kỹ thuật: Giao thông, Bưu điện: Hoạt động đầu tư cho giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc... là loại hình đầu tư thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và là một lĩnh vực rất quan trọng vì nó đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn, kỹ thuật cao nhưng lại không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp; tuy vậy kết quả đầu tư lại có một ý nghĩa rất quan trọng quyết định đến khả năng cạnh tranh cấp quốc gia, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy quả trình thu hút nguồn vốn đầu tư khác từ trong và ngoài nước và hơn thế nữa nó còn liên quan đến an ninh quốc gia (bưu điện).
Chính tầm quan trọng và đặc thù của nó mà Nhà nước chủ trương tập trung vốn NSNN để đầu tư XDCB cho lĩnh vực giao thông và bưu điện, còn sự tham gia của các thành phần kinh tế khác chỉ mang tính hỗ trợ.
Kết quả thu được sau khi thực hiện một cách triệt để chủ trương này là: hàng loạt các công trình giao thông lớn đã được đầu tư xây dựng, nâng cấp tạo cơ sở động lực phát triển kinh tế thông thương của các vùng; Nổi bật là lĩnh vực thông tin liên lạc trong thời gian qua đã có những bước tiến đáng kể tốc độ phát triẻn cao chưa từng có, tạo nên một cơ sở hạ tầng kĩ thuật tiên tiến đáp ứng được nhu cầu thời đại. Hệ thống giao thông trục Bắc – Trung – Nam ngày càng được mở rộng, đường Hồ Chí Minh đã hoàn thành, hàng loạt các quốc lộ trọng điểm đã hoàn thành: quốc lộ 18, 6, 15 ...
Lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp và thủy hải sản: Chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII : Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp phải gắn liền với công nghiệp chế biến, thực hiện phát triển một cách toàn diện nền kinh tế nông thôn và mục tiêu xây dựng nông thôn mới; Nông lâm ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển và hoàn thiện hệ thống thủy lợi, giải quyết căn bản khâu nước tưới cho các vùng trọng điểm, cấp lương thực và cây công nghiệp tập trung; Lâm nghiệp tiếp tục được quan tâm với nhiệm vụ chính hướng dẫn, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; Đẩy mạnh trồng rừng, khoanh nuôi, phủ xanh đất trống đồi núi trọc; Ngư nghiệp đẩy mạnh phát triển hình thức đánh bắt xa bờ và nuôi trồng hải sản, hướng mạnh vào xuất khẩu; Nhà nước tiếp tục hỗ trợ và huy động nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn.
Dưới đây là bảng phân bổ vốn đầu tư XDCB theo ngành kinh tế
INVESTMENT OUTLAYS BY KIND OF ECONOMIC ACTIVITIES
(Giá hiện hành - Đơn vị triệu đồng)
Năm
2004
2005
TỔNG SỐ - TOTAL
2.021.611
2.924.049
1. Nông lâm nghiệp - Agriculture and forestry
221.854
280.820
2. Thủy sản - Fishing
152.805
167.101
3. Công nghiệp khai thác mỏ - Mining and Quarrying
25.205
40.155
4. Công nghiệp chế biến - Manufacturing
346.205
561.749
5. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt & nước
58.155
74.115
Electricity, gas and water supply
6. Xây dựng - Construction
36.629
40.741
7.Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ và
đồ dùng cá nhân
77.523
110.104
Wholesale and retail trade; Repair of motor vehicles,
motor cycles and personal goods
8. Khách sạn Nhà hàng - Hotels and Restaurants
327.583
553.816
9. Vận tảI, kho bãI và thông tin liên lạc
380.975
571.041
Transports ; Storage and Communication
10. Tài chính, tín dụng - Financial Intermedation
5.299
7.664
11. Hoạt động khoa học và công nghệ
1.252
2.011
Scientific activities and Technology
12. Các hoạt động liên quan tới kinh doanh tài sản
và dịch vụ tư vấn
12.019
17.384
Real estate; Renting business activities
13. Quản lý nhà nước và ANQP, đảm bảo xã hội bắt buộc
25.552
29.485
Public Administration and Defence; Compulsory
social security
14. Giáo dục và đào tạo - Eduacation and Training
107.509
150.501
15. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
35.248
45.234
Health and Social work
16.Hoạt động văn hoá thể thao
23.275
35.944
Recreational, Culture and Sporting activities
17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
2.427
2.801
Activities of party and of membership Organization
18. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng
182.096
233.383
Community, Social and Personal service activities
Bảng 2.4: cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo ngành kinh tế
(nguồn: Tổng cục thống kê)
2.2.2.2.Chính sách phân bổ nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo vùng lãnh thổ
Chính sách phát triển vùng lãnh thổ với nội dung chính đó là : kết hợp phát triển vùng kinh tế trọng điểm thành đầu tầu nhằm lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế gắn với phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh lệch và nhịp độ phát triển giữa các vùng. Với những mục tiêu như trên thì phương hướng của quá trình phân bổ nguồn vốn được thực hiện kết hợp, tập trung đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm và từng bước nâng cao đầu tư cho các vùng kinh tế còn khó khăn, những vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bảo dân tộc, các vùng biên giới, miền núi và hải đảo .
Dưới đây là bảng số liệu cơ cấu vốn đầu theo vùng lãnh thổ:
(đơn vị %)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng
100
100
100
100
100
100
Miền núi phía Bắc
7,9
7,7
7,3
7,2
7,97
8,02
Đồng bằng sông Hồng
24,4
26,4
26,0
25,8
24,18
24,37
Bắc Trung Bộ
9,4
7,0
6,8
6,0
7,69
7,9
Duyên Hải MiềnTrung
11,2
11,3
11,4
12,1
11,81
12,19
Tây Nguyên
5,2
4,8
4,7
4,6
4,88
5,02
Đông Nam Bộ
26,3
28,4
29,2
29,3
28,57
27,37
Bảng 2.5: cơ cấu vốn đầu tư theo cùng lãnh thổ
(nguồn : Bộ Tài chính)
Từ sơ đồ trên ta thấy việc thực hiện chính sách này đã hình thành nên các vùng kinh tế lớn, vùng kinh tế trọng điểm (vùng Bắc Bộ, vùng kinh tế Đông Nam Bộ và vùng Kinh tế miền Trung), đó là các vung kinh tế đóng vai trò là động lực, mở đường và thúc đẩy các vùng kinh tế khác (vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế Tây Nguyên...) cùng phát triển. Các vùng kinh tế này có tác động qua lại với nhau, gắn bó chặt chẽ trong tổng thể nền kinh tế cả nước hợp tác, hỗ trợ nhau cho sự phát triển chung. Cũng không thể mắc phải ngững hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà nguyên nhân chính là nguồn vốn đầu tư còn hạn chế mà nhu cầu đầu tư lại rất lớn dẫn đến cơ cấu đầu tư dàn trải, và chưa tập trung được đúng mức vào các vùng kinh tế trọng điểm.
2.2.3. Chính sách sử dụng
Trong suốt quá trình đổi mới chính sách quản lý việc sử dụng vốn luôn được thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của Đất nước, các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn luôn được cập nhật và đổi mới theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cùng với việc nâng cao trách nghiệm của các cấp quản lý, các ngành, địa phương nhằm huy động sử dụng ngày càng hiệu quả hơn các nguồn vốn đầu tư.
Cụ thể Nghị định 385/HĐBT đã ra đời nhằm tay thế Nghị định 232/HĐBT, tiếp đó Nghị định 177/CP năm1994 đời thay thế Nghị định 385/HĐBT có một số đổi mới như : dần tiếp cận được với các thông lệ quản lý đầu tư trong khu vực và thế giới, các dự án đã được phân loại rõ ràng thống nhất theo 3 nhóm A, B, C dựa trên tính chất và quy mô của chúng; các dự án liên quan đến FDI được tách riêng và được quản lý theo luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam; vốn tín dụng đã được phân thành tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại với đối tượng vay khác nhau, trong đó vốn tín dụng ưu đãi được Nhà nước hỗ trợ về lãi xuất và các điều kiện vay trả; vốn của NSNN không để đầu tư cho các công trình sản xuất kể cả các công trình then chốt; không chỉ có vậy hình thức chỉ định thầu đã được bãi bỏ và thay vào đó là chế độ đấu thầu trong XDCB.
Nghị định 42/CP ra đời năm 1996 và thay thế cho Nghị định 177/CP cho phù hợp với giai đoạn mới, sau đó nó lại được sửu đổi bằng Nghị định 92/CP, vấn đề đấu thầu đã được tách ra và quy định trong một văn bản riêng( Nghị định 43/CP và được bổ sung bằng Nghị định 93/CP). Qua một loạt các sửa đổi, phạm vi quản lý đã được mở rộng thêm đối với các dự án quy hoạch, và đưa ra một số quy định thêm về nguồn vốn theo Luật Ngân sách Nhà nước,đồng thời cũng có những quy định một cách rõ ràng hơn quyền hạn và trách nghiệm của các Tổng công ty trong quản lý đầu tư và xây dựng.
Tiếp đến là các Nghị định như Nghị định 52/1999/NĐ-CP và Nghị định 12/2000/NĐ-CP bổ xung cho Nghị định 52, hiện nay chúng ta vẫn đang sử dụng quy định về quản lý vốn đầu tư phần lớn dựa trên 2 Nghị định này. Nội dung xuyên suốt đó là việc bãi bỏ và đơn giản hóa nhiều thủ tục không thực sự cần thiết, tạo điều kiện hết sức cho các doanh nghiệp và các cơ quan hoạt động một cách hiêu quả : tiến hành xóa bỏ việc cấp giấy phép đầu tư cho các tổ chức đầu tư không dùng vốn của Nhà nước; cho phép các dự án nhỏ không phải nộp báo cáo nghiên cứu khả thi nữa mà chỉ cần lập Báo cáo đầu tư. Một điểm rất quan trọng nữa đó là Chính phủ đã dần nâng mức vốn phân loại nhóm các dự án đầu tư lên, theo hướng là giảm các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cùng với đó là tăng các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cấp Bộ và tỉnh, thành phố.
2.3. Đánh giá thực trạng tác động của các chính sách
2.3.1. Kết quả đã đạt được
Suốt những chặng đường đổi mới, với chiến lược phát triển kinh tế linh hoạt đất nước đã có những bước đột phá nhất định, gặt hái được khá nhiều thành công trong công cuộc đổi mới.
Đánh giá những kết quả đã đạt được của hoạt động đầu tư của nền kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động đầu tư XDCB nói riêng đã có những thành quả nhất định : hàng loạt các công trình trọng điểm đã được đưa vào sử dụng, tạo một động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế, góp phần tăng năng lực sản xuất cho ngành kinh tế trong vùng như : nhà máy thủy điện Hòa Bình với công suất 1.920MW, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, Nhà máy lọc dầu Dung Quất, đường dây 500KV Bắc Nam với chiều dài hơn 1500 km, đường ống dẫn khí Bạch Hổ - Thủ Đức với công suất 1,5tỷ m3/năm, hoàn thành hàng loạt các tuyến đường và quốc lộ quan trọng QL1, QL5, QL18, tuyến đường Hồ CHí Minh xuyên suất đất nước,... xây dựng mới các cầu Sông Gianh, Hiền Lương, Mỹ Thuận, Thanh Trì..
Với cơ chế sáng tạo và hợp lý, khuyến khích được sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, giảm bớt gánh nặng cho NSNN, từng bước thu hẹp phạm vi bao cấp của nền kinh tế để có thể tập trung tốt hơn cho những lĩnh vực trọng điểm không thể không chịu sự quản lý của nhà nước, điều này góp phần làm hiệu quả đồng vốn của Nhà nước tăng lên rõ rệt. Nhà nước luôn có những sự hỗ trợ nhất định đối với các thành phần phi Nhà nước, tạo mọi điều kiện để thành phần này ngày càng phát huy tính năng động, sáng tạo kết hợp với hiệu quả tài chính. Hoạt động đầu tư đã được lên kế hoạch và có những quy hoạch một cách cụ thể, công khai sao cho phù hợp với vùng kinh tế, chuyển vai trò của mình từ thế bị động sang thế chủ đông hơn. Hiệu quả tài chính của mỗi dự án, tính khả thi luôn là tiêu chí hàng đầu và được Nhà nước xem xét tính toán một cách nghiêm túc và chính xác. Các chính sách được đưa ra phù hợp đã tạo được sự ủng hộ đồng tình của nhân dân, giúp cho việc huy động và sử dụng nguồn vốn đóng góp của người dân vào các dự án để quay lại phục vụ trực tiếp cho đời sống kinh tế - xã hội ngày càng hiệu quả.
Huy động vốn cho đầu tư:
Đã thu hút được mọi nguồn lực cùng tham gia, tạo nên tính đa dạng với nhiều hình thức và số lượng lớn để có thể đáp ứng được với các nhu cầu của thời đại mới. Từ đó biến nguồn vốn của NSNN thành một chất dẫn, bôi trơn để thu hút, đưa các nguồn vốn khác (FDI, ODA, vốn trong dân cư...) chảy vào nền kinh tế một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên không vì thế mà vai trò của nguồn vốn từ NSNN bị xem nhẹ đi, mà nó là nền tảng phải luôn luôn được đảm bảo duy trì trong mọi hoàn cảnh, chính vì thế mà Nhà nước luôn dành nguồn vốn đầu tư ( trong đó có đầu tư XDCB ) từ NSNN trong suốt thời
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện chính sách quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.DOC