Chuyên đề Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: THUẾ NHẬP KHẨU VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2

1.1.Tổng quan về thuế nhập khẩu. 2

1.1.1. Bản chất của thuế nhập khẩu. 2

1.1. Những đặc điểm của thuế nhập khẩu. 3

1.1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu. 6

1.2. Nội dung của chính sách thuế nhập khẩu. 11

1.2.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng. 11

1.2.2. Căn cứ tính thuế nhập khẩu. 12

1.2.3. Phương pháp tính thuế nhập khẩu. 21

1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với chính sách thuế nhập khẩu. 25

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 28

2.1. Những đóng góp của thuế nhập khẩu đối với kinh tế Việt Nam. 28

2.1.1. Góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. 28

2.1.2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. 30

2.1.3. Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu. 34

2.2. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 35

2.2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 35

2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 40

2.3. Đánh giá chung về chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam với quá trình hội nhập. 48

2.3.1. Tác động của chính sách thuế nhập khẩu đối với quá trình hội nhập. 48

2.3.2. Những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu làm cản trở quá trình hội nhập 52

CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 59

3.1. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong quá trình hội nhập. 59

3.2. Các quan điểm định hướng chính sách thuế nhập khẩu đáp ứng yêu cầu hội nhập 61

3.2.1. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo nguồn thu cho NSNN 61

3.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước 62

3.2.3.Tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. 62

3.2.4. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải tiến tới phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế 63

3.3. Giải pháp thực hiện 65

3.3.1. Nhóm giải pháp trọng tâm. 65

3.3.2. Nhóm giải pháp khác. 73

KẾT LUẬN 77

 

 

doc81 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dần mức thuế nhập khẩu của những mặt hàng có mức thuế nhập khẩu thấp, cải tiến quy trình quản lý thu, tăng cường quản lý chống thất thu NSNN.v.v… Trong nước, việc ổn định thuế suất đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đã góp phần hạn chế những tác động bất lợi do sự biến động về giá trên thị trường thế giới. Ngoài ra, việc quy định ba loại thuế suất đối với thuế nhập khẩu là thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa hỗ trợ tích cực cho quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 2.1.3. Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu. Thuế nhập khẩu được quy định với mức thuế suất phân biệt đối với các loại sản phẩm hàng hoá khác nhau, cụ thể là với hàng hoá trong nước đã sản xuất được hoặc đang khuyến khích trong nước sản xuất thì chịu mức thuế nhập khẩu cao (trên 20%), còn các mặt hàng máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước chưa tự sản xuất được thì áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp (0%-5%). Việc bảo hộ sản xuất trong nước thông qua thuế nhập khẩu đã chuyển hướng tích cực từ bảo hộ theo chiều rộng sang bảo hộ theo chiều sâu. Việc bảo hộ bằng thuế nhập khẩu chỉ tiến hành ở các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, vì vậu vừa đảm bảo được nguồn thu NSNN vừa phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Không thể phủ nhận vai trò bảo hộ của chính sách thuế nhập khẩu trong hơn 10 năm thực hiện, đã thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những ngành sản xuất trước đây trong nước chưa phát triển, hay mới phát triển ở quy mô nhỏ thì hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng đáp ứng từng bước nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Mấy năm gần đây, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của nước ta tăng nhanh, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá cao như: dệt may, dầu thô, da dày, thuỷ sản, sắt thép, vật liệu xây dựng.v.v…là những minh chứng rõ ràng nhất. Thêm vào đó là việc hầu như không thu thuế với tất cả các mặt hàng xuất khẩu, giảm từ 20 nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu xuống còn 6 nhóm mặt hàng. Đồng thời, miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng của các dự án nhằm khuyến khích đầu tư. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với các loại vật tư nguyên liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu đã góp phần tích cực trong việc hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu theo đúng định hướng kinh tế của Nhà nước. 2.2. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 2.2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Để quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá qua vùng tự do và vùng bị tạm chiếm nhằm góp phần bảo vệ và phát triển kinh tế của vùng tự do, cùng với nhiều sắc thuế khác, năm 1951, Nhà nước ban hành thuế nhập khẩu lần đầu tiên. Đây là loại thuế được tính trên giá hàng hoá nhập khẩu với thuế suất cao, thấp tuỳ theo yêu cầu hạn chế hay khuyến khích nhập khẩu nhằm đấu tranh kinh tế với địch, có lợi cho ta. Hàng nhập khẩu được hạn chế trong phạm vi hàng cần thiết cho kháng chiến và đời sống nhân dânvùng tự do. Biểu thuế gồm 116 mặt hàng với thuế suất từ 30% trở lên để bảo vệ sản xuất trong vùng tự do. uối năm 1954, Nhà nước đã công bố hệ thống thuế mới hoàn chỉnh áp dụng thống nhất trên toàn Miền Bắc, trong đó có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Nghị định số 492/ TTg ngày 23/12/1954 của Thủ Tướng chính phủ). Thuế nhập khẩu trong thời kỳ này đánh vào các loại hàng hoá nhập khẩu qua các cửa khẩu Hải Phòng, Vĩnh Linh (Quảng Trị ). Biểu thuế được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ độc lập chủ quyền, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Nghị định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói trên đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh. Bắt đầu từ năm 1975, do đặc điểm của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước độc quyền ngoại thương, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự trợ giúp của các nước xã hội chủ nghĩa trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), Nhà nước đã cho áp dụng chế độ “thu bù chênh lệch ngoaị thương” đối với hàng hoá nhập khẩu mậu dịch và áp dụng chế độ thu thuế hàng hoá đối với hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch. Ngày 29-12-1987, Quốc hội khoá VIII đã thông qua “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch” để thay thế cho chế độ “Thu bù chênh lệch ngoại thương” trước đây. Đây là Luật thuế đầu tiên của Việt Nam nhằm phục vụ yêu cầu tăng cường quản lý các hoạt động xuất, nhập khẩu mậu dịch của các xí nghiệp trung ương và địa phương đang phát triển, góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đầu đổi mới, hình thành cơ cấu xuất, nhập khẩu hợp lý, bảo hộ nền sản xuất trong nước, hướng dẫn nhập khẩu và tiêu dùng một cách hợp lý và tạo nguồn thu cho NSNN. Từ năm 1990, Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta chuyển mạnh từ một nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, quan hệ với Liên xô và các nước Đông Âu không còn như cũ, đặc biệt với sự tan rã của khối SEV, quan hệ kinh tế đối ngoại của ta được mở rộng. Trước bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế thay đổi, chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian này đã bộc lộ những hạn chế như: phạm vi điều chỉnh hẹp, không còn phù hợp với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; còn mang nặng tính phân biệt đối xử, thiếu bình đẳng giữa các nước và không còn phù hợp. Để thực hiện mục tiêu bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho NSNN, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, phù hợp với chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngày 26-12-1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá III đã thông qua “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” có hiệu lực thi hành từ ngày 01-3-1992. Do yêu cầu về kinh tế- xã hội, Luật thuế này lại được sửa đổi, bổ sung vào tháng 7 năm 1993. Về cơ bản, Luật mới ban hành đã thống nhất được chế độ thu thuế giữa hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch, do đó đối tượng chịu thuế có sự thay đổi. Thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hoá nhập khẩu của các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, không phân biệt đó là hàng hoá mậu dịch hay hàng hoá phi mậu dịch, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước, Thuế nhập khẩu được tính dựa trên số lượng hàng hoá ghi trên tờ khai hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế và thuế suất của từng mặt hàng đó. Giá tính thuế được quy định đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập theo hợp đồng ngoại thương, kể cả phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F). Thuế suất thuế nhập khẩu bao gồm: thuế suất thông thường được quy định trong Biểu thuế và thuế suất ưu đãi do Chính phủ quy định để áp dụng đối với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam. Biểu thuế nhập khẩu được xây dựng dựa trên “Danh mục mô tả và mã hàng hoá” của tổ chức Hải quan thế giới thay thế cho “Danh mục hàng hoá” theo khối SEV trước đây. Biểu thuế nhập khẩu gồm 36 mức thuế, thấp nhất là mức 0%, áp dụng đối với các mặt hàng hoá chất, thuốc tân dược, máy bay, xe tăng và đa số các máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; cao nhất là mức 200%, áp dụng đối với mặt hàng ô tô con từ năm chỗ ngồi trở xuống. Để thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích sản xuất hàng nhập khẩu, một số chính sách xã hội của Nhà nước, Luật mới ban hành còn quy định một số trường hợp miễn thuế: Hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm xuất tái nhập để dự hội trợ triển lãm, hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo, hàng biếu tặng, hàng là vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia cho phía nước ngoài, hàng là tài sản di chuyển, hàng nhập khẩu thuộc tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao. Nhìn chung Chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian này về cơ bản đã thực hiện được yêu cầu đặt ra là: bảo hộ sản xuất trong nước, tăng thu cho NSNN, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, Luật thuế nhập khẩu bước đầu đã có những nội dung cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, từ đầu năm 1996 nền kinh tế nước ta bắt đầu tham gia hội nhập vào các Tổ chức kinh tế khu vực và thế giới thì Chính sách thuế nhập khẩu đã bộc lộ những hạn chế đó là: thiếu những yếu tố cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào quá trình buôn bán quốc tế cũng như việc bảo vệ nền sản xuất trong nước khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Để phù hợp với nội dung cải cách thuế bước I, đặc biệt là Luật thuế TTĐB, tháng 10/1995, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi khung thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng theo hướng giảm mức tối đa khung thuế suất xuống 60%, phần chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu đang thu và mức thuế nhập khẩu sẽ thu được chuyển sang thu thuế TTĐB. Do chuyển sang thu thuế TTĐB nên từ đầu năm 1996, số lượng mức thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu đã giảm đi còn khoảng 28 mức thuế, với mức thuế thấp nhất là 0%, cao nhất là 60%. Thực hiện cải cách thuế bước II, phù hợp với một số Luật thuế mới được ban hành (đặc biệt là Luật thuế GTGT) và các quy định thương mại quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ thực hiện, tháng 4/1998 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nội dung sửa đổi chủ yếu là: - Sửa đổi quy định về thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi: thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ Thương mại với Việt Nam được quy định cụ thể cho từng mặt hàng trong Biểu thuế thuế nhập khẩu ưu đãi. - Sửa đổi quy định về thuế suất thuế nhập khẩu thông thường: thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước không có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ Thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định cao hơn thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng. - Bổ sung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt: áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. - Để tăng cường công cụ pháp lý bảo vệ sản xuất trong nước cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện tự do hoá thương mại, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn quy định thu thuế nhập khẩu bổ sung đối với 3 trường hợp: + Hàng phá giá; + Hàng được nước xuất khẩu trợ cấp làm cho giá hàng nhập khẩu thấp hơn giá của hàng hoá cùng loại trong nước; + Hàng nhập khẩu từ các nước có chính sách phân biệt đối xử hàng nhập khẩu có xuất xứ từ Việt Nam. Ngoài ra, còn sửa đổi một số nội dung khác như: nơi kê khai, kiểm tra hàng nhập khẩu, thời hạn thông báo thuế và thời hạn nộp thuế, xét miễn thuế, kiểm tra truy thu thuế, xử lý vi phạm… Với việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1993 và 1998, cùng các Nghị định, Thông tư của Chính Phủ và Bộ Tài Chính; Công cụ thuế nhập khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng để tạo nguồn thu cho NSNN, bảo hộ nền sản xuất trong nước và điều tiết các hoạt động ngoại thương. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần phải hoàn thành các cam kết trong khuôn khổ hội nhập AFTA, theo đó các mặt hàng nhập khẩu thuộc diện cắt giảm thuế theo hiệp định CEPT chỉ còn thuế suất thuế nhập khẩu từ 0%-5%, đồng thời phải loại bỏ các rào cản phi thuế quan đối với các hàng hoá này. 2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 2.2.2.1. Các quy định chung. Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm một tập hợp các quy phạm pháp luật trong đó những quy phạm quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành là những quy phạm chủ đạo, có giá trị pháp lý cao nhất. Cũng như các quy phạm pháp luật khác về thuế, các quy phạm pháp luật thuế nhập khẩu quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm các nội dung chủ yếu của một đạo luật về thuế như: những quy định chung; căn cứ tính thuế; chế độ kê khai thu nộp thuế; chế độ ưu đãi thuế; chế độ xử lý vi phạm khen thưởng; chế độ xử lý khiếu nại. Thông thường, nội dung cơ bản của các quy phạm thuộc từng phần như sau: - Phần những quy định chung của Luật thuế XNK sẽ bao gồm các quy phạm quy định về đối tượng chịu thuế (là tất cả các loại hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước); đối tượng không chịu thuế (là những hàng hoá không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thuế NK); đối tượng nộp thuế (là các pháp nhân, thể nhân NK hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế). - Phần căn cứ tính thuế sẽ quy định các yếu tố để tính thuế (như số lượng, trọng lượng hàng hoá NK; trị giá tính thuế (căn cứ và nguyên tắc xác định trị giá); mức thuế, Biểu thuế (các loại thuế, thẩm quyền, nguyên tắc xây dựng.v.v). - Phần chế độ kê khai thu nộp thuế sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc kê khai làm thủ tục hải quan, khai báo tên hàng, cung cấp, chứng từ có liên quan đến việc phân loại mã số, giá tính thuế; Quyền và nghĩa vụ của cán bộ thu thuế và của cơ quan thu thuế trong việc thu nộp thuế; các căn cứ để xác định thời điểm tính thuế, thời hạn nộp thuế.v.v. - Phần quy định về chế độ ưu đãi về thuế NK sẽ bao gồm các quy phạm quy định về chính sách miễn, giảm thuế NK: đối tượng được miễn, giảm; thẩm quyền xử lý miễn, giảm; thủ tục hồ sơ để xử lý miễn giảm.v.v. - Phần quy định về chế độ xử lý các vi phạm và khen thưởng bao gồm các quy phạm quy định các hình thức, chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm: xử phạt tiền, cưỡng chế hành chính, truy thu đủ thuế, truy cứu trách nhiệm hình sự .v.v đối với đối tượng nộp thuế; xử lý trách nhiệm đối với cán bộ thu thuế; khen thưởng bằng tiền, tuyên dương đối tượng, cán bộ thuế chấp hành tốt pháp luật thuế XNK. - Phần quy định về xử lý khiếu nại sẽ bao gồm các quy phạm quy định về trình tự giải quyết khiếu nại, thẩm quyền xử lý và thủ tục hồ sơ để xử lý khiếu nại. - Ngoài những nội dung trên, pháp luật thuế XNK còn bao gồm những quy phạm quy định về việc thực hiện các Điều ước, các Hiệp định đã ký kết hoặc tham gia, như cam kết cắt giảm thuế NK, biện pháp và cơ chế áp dụng các biện pháp nhằm tận dụng các cơ hội và giảm bớt các bất lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. v.v. 2.2.2.2. Giá tính thuế. Trừ những mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu phải tính thuế theo mức giá quy định tại Bảng giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu do Bộ Tài chính quy định, giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá theo hợp đồng nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định (Những mặt hàng hiện hành Nhà nước quản lý giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu gồm: Thuốc lá lá, thuốc lá sợi, cọng thuốc lá; Đồ uống; Lốp, săm, yếm của xe đạp, xe máy, ô tô; Gạch ốp, lát, thiết bị vệ sinh; kính, gương, kính phản quang; Phích nước, ruột phích; Động cơ, máy nổ; Quạt điện; Xe máy, linh kiện và phụ tùng xe máy; ô tô và phụ tùng ô tô). Trường hợp giá trên hợp đồng mua, bán ngoại thương của các mặt hàng quy định giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu cao hơn giá mua tối thiểu do Bộ trưởng Bộ Tài chính qui định thì giá tính thuế là giá trên hợp đồng ngoại thương. Về nguyên tắc, hàng hóa nhập khẩu không thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu, được tính thuế theo hợp đồng. Nhưng, nếu không đủ điều kiện để xác định giá tính thuế theo hợp đồng quy định tại Thông tư số 08/2002/TT-BTC ngày 23/1/2002 của Bộ Tài chính, hoặc hàng hóa nhập khẩu theo các phương thức khác không phải là hợp đồng mua, bán (như hàng biếu, tặng, nhập khẩu phi mậu dịch, hoạt động nhập khẩu của cư dân vùng biên giới...); không thanh toán qua ngân hàng (như hàng đổi hàng, hàng trả công ...); hoặc nếu đủ điều kiện nhưng mức giá ghi trên hợp đồng thấp hơn 80% so với giá quy định trong bảng giá thì giá tính thuế thực hiện theo Bảng giá mua tối thiểu tại cửa khẩu đối với những mặt hàng không thuộc diện quản lý giá tính thuế nhập khẩu tối thiểu do Bộ Tài chính qui định hoặc Cục Hải quan địa phương qui định bổ sung. Hiện nay, chúng ta đang cố gắng hoàn thiện và đưa vào áp dụng trị giá tính thuế cho hàng nhập khẩu là giá tính thuế thực tế của lô hàng nhập khẩu theo quy định GATT nhằm phù hợp hơn nữa với thông lệ quốc tế. 2.2.2.3. Thuế suất. Thuế suất thuế nhập khẩu: để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của Việt nam trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và khốc liệt, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định 3 loại thuế nhập khẩu được áp dụng tại Việt Nam hiện nay đó là: Thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường. Trong đó: Thuế suất = Thuế suất + Thuế suất ´ 70% Thông thường ưu đãi ưu đãi Tuy không quy định chung trong một Biểu thuế, nhưng nguyên tắc xây dựng, cấu tạo và nguyên tắc phân loại của 3 loại thuế suất này là hoàn toàn giống nhau. Ngoài 3 loại thuế suất nêu trên; để tăng cường công cụ pháp lý bảo hộ cho hàng sản xuất trong nước, đối phó lại các hành vi phá giá, trợ giá hoặc phân biệt đối xử; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam còn quy định thu thuế bổ sung đối với các hành vi trên. Đây là cơ sở pháp lý để Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp đối kháng chống lại các hành vi có thể gây nguy hại cho nền sản xuất trong nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe các nước khác nếu như họ có các hành vi kể trên đối với chúng ta. 2.2.2.4. Tổ chức kê khai, nộp thuế. Kê khai nộp thuế: Tổ chức, cá nhân mỗi lần có hàng hóa được phép nhập khẩu phải kê khai đầy đủ, chính xác các nội dung theo qui định của cơ quan Hải quan, nộp tờ khai hàng hóa nhập khẩu và nộp thuế nhập khẩu cho cơ quan Hải quan và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai. Thời điểm tính thuế: Là ngày đối tượng nộp thuế đã nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu cho cơ quan Hải quan. Tuy nhiên, nếu quá 15 ngày kể từ ngày nộp tờ khai cho cơ quan Hải quan mà chưa có hàng thực nhập khẩu thì tờ khai hàng hóa nhập khẩu đã nộp cho cơ quan Hải quan không có giá trị làm thủ tục Hải quan. Khi có hàng thực tế nhập khẩu, đối tượng nộp thuế phải làm lại thủ tục kê khai và nộp lại tờ khai cho cơ quan Hải quan, thời điểm tính thuế là ngày nộp tờ khai lần sau. Thời hạn thông báo thuế: được thực hiện trong thời hạn 8 giờ làm việc kể từ khi cơ quan Hải quan tiếp nhận tờ khai. Tuy nhiên, nếu có khác biệt về số thuế phải nộp so với thông báo theo kê khai ban đầu, cơ quan Hải quan phải thông báo lại cho đối tượng nộp thuế số thuế còn thiếu hoặc thừa so với thông báo thuế chính thức ban đầu trong thời hạn 8 giờ làm việc kể từ khi cơ quan Hải quan kiểm hóa xong lô hàng thực tế nhập khẩu. Đối với một số mặt hàng bắt buộc phải có giám định thì thời hạn thông báo thuế được kéo dài hơn, nhưng không quá 3 ngày làm việc (đối với hàng hoá phải giám định trước khi được phép nhập khẩu, đưa vào sử dụng, lưu thông trên thị trường Việt Nam) và tối đa không được quá 15 ngày làm việc (đối với hàng hoá phải giám định để đảm bảo chính xác cho việc tính thuế). Thời hạn nộp thuế: được quy định tuỳ theo từng loại hàng nhập khẩu: * Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu nộp xong thuế trong vòng 9 tháng (Trường hợp đặc biệt do chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu phải kéo dài hơn 9 tháng thì do Bộ Tài chính quyết định. * Hàng kinh doanh theo phương thức tạm nhập - tái xuất thì thời hạn nộp thuế là 15 ngày. * Hàng hóa nhập khẩu phi mậu dịch, hoạt động nhập khẩu của cư dân vùng biên giới, phải nộp xong thuế trước khi nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam. * Hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế nhập khẩu trước khi nhận hàng, trường hợp có sự bảo lãnh thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày. * Hàng hóa nhập khẩu khác là 30 ngày. 2.2.2.5. Miễn, giảm và hoàn thuế. * Miễn thuế: Hàng nhập khẩu được xét miễn thuế gồm 7 trường hợp sau: - Hàng viện trợ không hoàn lại; - Hàng tạm nhập - tái xuất để tham dự hội chợ, triển lãm; - Hàng là tài sản di chuyển; - Hàng hoá nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách nhập cảnh theo định mức qui định; - Hàng nhập khẩu của tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia; - Hàng hóa nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng đã ký kết; - Hàng là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải do các nhà thầu nước ngoài mang vào Việt Nam theo phương thức tạm nhập, tái xuất để phục vụ thi công công trình, dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). * Xét miễn thuế: Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định 5 trường hợp được xét miễn thuế bao gồm: - Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo; - Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; - Hàng nhập khẩu của các nhà đầu tư trong nước theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước; - Hàng là quà biếu, quà tặng của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài cho các tổ chức, cá nhân người Việt Nam và ngược lại; - Hàng nhập khẩu để bán miễn thuế tại các cửa hàng kinh doanh hàng miễn thuế. * Xét giảm thuế: hàng hoá nhập khẩu trong quá trình vận chuyển, bốc xếp mà còn nằm trong sự giám sát, quản lý của cơ quan Hải quan, bị hư hỏng, mất mát có lý do xác đáng, được giảm thuế tương ứng đối với từng trường hợp cụ thể. * Hoàn lại thuế: gồm các trường hợp sau: - Hàng nhập khẩu đã nộp thuế mà còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu dưới sự giám sát của Hải quan, được phép tái xuất; - Hàng đã nộp thuế nhập khẩu nhưng thực tế nhập khẩu ít hơn; - Hàng nhập khẩu chưa phù hợp về chất lượng quy cách, phẩm cấp so với hợp đồng thương mại đã ký với phía nước ngoài; - Đối tượng nộp thuế nhầm lẫn trong kê khai thì được hoàn trả tiền thuế nộp quá trong thời hạn một năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hàng hóa nhập khẩu với cơ quan Hải quan đến ngày kiểm tra, phát hiện; - Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; - Hàng tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu; - Hàng nhập khẩu nhưng vì lý do nào đó buộc phải tái xuất ra nước ngoài; - Hàng đã xuất khẩu nhưng buộc phải nhập khẩu trở lại. - Hàng là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân được phép tạm nhập, tái xuất hoặc mượn để thực hiện các dự án đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình, phục vụ sản xuất và các mục đích khác. Cùng với việc quy định các trường hợp được hoàn thuế, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam cũng quy định điều kiện, thủ tục hồ sơ xét hoàn thuế, thẩm quyền xét hoàn thuế, thời hạn hoàn thuế. 2.2.2.6. Truy thu thuế, xử lý khiếu nại và vi phạm. * Truy thu thuế: Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định 3 trường hợp sau đây phải truy thu thuế: - Đã được miễn thuế, xét miễn giảm thuế, nhưng sử dụng khác với mục đích đã được miễn giảm; - Đối tượng nộp thuế nhầm lẫn trong kê khai về tính toán hoặc sai mã số của Biểu thuế, phải truy thu trong thời hạn 01 năm trở về trước; - Trường hợp gian lận, trốn thuế, phải truy thu trong thời hạn 05 năm trở về trước. Căn cứ để truy thu thuế nhập khẩu là giá tính thuế và thuế suất tại thời điểm truy thu. * Xử lý khiếu nại: cũng như quy định về xử lý khiếu nại ở các Luật thuế khác, nếu không đồng ý với số thuế nhập khẩu đã được Hải quan thông báo chính thức, đối tượng nộp thuế phải nộp đủ số thuế đó; đồng thời có quyền khiếu nại lên cơ quan thu thuế trung ương giải quyết; nếu vẫn không đồng ý thì khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc khởi kiện ra toà án theo quy định của Pháp luật. Trường hợp không khởi kiện ra toà án mà khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài chính thì quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng. * Xử lý vi phạm: Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam có quy định các hành vi vi phạm của đối tượng nộp thuế, cán bộ thu thuế và hình thức xử lý cụ thể đối với từng hành vi vi phạm đó. Các hình thức xử lý đối với đối tượng nộp thuế gồm: phạt tiền, cưỡng chế thi hành (trích tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc; giữ hàng hoá, kê biên tài sản, không cho nhập khẩu các lô hàng tiếp theo), truy cứu trách nhiệm hình sự; đối với cán bộ thuế và các cá nhân khác phải bồi thường, xử lý kỷ luật. goài các nội dung trên, tuỳ theo từng nội dung, pháp luật thuế xuất, nhập khẩu cũng quy định điều kiện, thủ tục hồ sơ, thẩm q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.doc
Tài liệu liên quan