Chuyên đề Hoàn thiện công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc tại công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đô thị Việt Nam - VINASINCO

MỤC LỤC

Trang

 

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LỜI CAM KẾT

LỜI CẢM ƠN

LỜI MỞ ĐẦU 1

 

Chương 1 – Phân tích công việc, đánh giá thực hiện công việc là hai

công tác cơ bản của quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức 3

1.1 Vai trò của quản trị nhân lực trong một tổ chức 3

1.1.1 Quản trị nhân lực 3

1.1.2 Các hoạt động của quản trị nhân lực 3

1.1.3 Tầm quan trọng của quản trị nhân lực 5

1.2 Phân tích công việc và lợi ích của phân tích công việc 6

1.2.1 Khái niệm và nội dung của phân tích công việc 6

1.2.2 Lợi ích của phân tích công việc 8

1.2.2.1 Phân tích công việc ảnh hưởng đến sự thực hiện công việc 8

1.2.2.2 Phân tích công việc ảnh hưởng đến các công tác quản lý nguồn nhân lực khác 9

1.2.3 Các bước tiến hành phân tích công việc 11

1.3 Khái niệm và ý nghĩa của đánh giá thực hiện công việc 15

1.3.1 Khái niệm và mục đích của đánh giá thực hiện công việc 15

1.3.2 Ý nghĩa của đánh giá thực hiện công việc 15

1.3.2.1 Với việc hoàn thiện sự thực hiện công việc của người lao động 16

1.3.2.2 Với việc ra các quyết định nhân sự 16

1.3.2.3 Với việc tạo động lực trong lao động, trong tập thể lao động 16

1.3.2.4 Với các công tác nhân sự khác 17

1.3.3 Hệ thống đánh giá thực hiện công việc 19

1.3.4 Các công việc cần làm khi tổ chức thực hiện chương trình đánh giá thực hiện công việc 21

1.3.4.1 Lựa chọn và thiết kế phương pháp đánh giá 21

1.3.4.2 Lựa chọn chu kỳ đánh giá 23

1.3.4.3 Lựa chọn và đào tạo người đánh giá 24

1.3.4.4 Phỏng vấn đánh giá 24

 

Chương 2- Thực trạng phân tích công việc và đánh giá thực hiện công

việc tại công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đô thị Việt Nam 27

2.1 Tổng quan về công ty VINASINCO 27

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển công ty 27

2.1.2 Đặc điểm sản phẩm và dịch vụ của công ty 27

2.1.3 Bộ máy tổ chức của công ty 29

2.1.4 Đặc điểm công nghệ, quy trình sản xuất của công ty 35

2.1.5 Tình hình hoạt động,sản xuất kinh doanh của công ty 36

2.1.6 Cơ cấu lao động của đội ngũ lao động công ty VINASINCO 38

2.2 Thực trạng phân tích công việc tại công ty VINASINCO 41

2.2.1 Công ty chưa có chương trình phân tích công việc được quy định

thành văn bản 41

2.2.2 Phòng Tổ chức hành chính chưa có cán bộ đựơc đào tạo về chuyên

môn nhân sự 45

2.2.3 Bản thân công ty chưa ý thức được sự quan trọng của phân tích

công việc 46

2.3 Thực trạng đánh giá thực hiện công việc tại công ty VINASINCO 47

2.3.1 Các văn bản hiện công ty đang sử dụng 47

2.3.2 Phương pháp đánh giá được sử dụng 50

2.3.3 Chu kỳ đánh giá quá ngắn 51

2.3.4 Công tác lựa chọn và đào tạo người còn chưa được chú trọng 51

2.3.5 Không có sự phản hồi thông tin trực tiếp đến người lao động 52

2.4 Ảnh hưởng của công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện

công việc đến các hoạt động quản lý nhân sự tại công ty VINASINCO 53

2.4.1 Với thực trạng công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực 53

2.4.2 Với thực trạng công tác tuyển dụng, bố trí nhân sự 53

2.4.3 Thực trạng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 55

2.4.4 Với công tác thù lao lao động 56

 

Chương 3- Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nguồn

Nhân lực bằng công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện

Công việc ở công ty VINASINCO 59

3.1 Những đổi mới và hướng phát triển của công ty 59

3.1.1 Hướng phát triển của công ty 59

3.1.2 Các mặt tồn tại trong công ty 60

3.1.3 Phương hướng khắc phục 61

3.2 Giải pháp về xây dựng chương trình phân tích công việc 61

3.2.1 Về phía công ty 61

3.2.2 Về phía cán bộ thực hiện phân tích công việc 61

3.3 Hoàn thiện công tác đánh giá thực hiện công việc 75

3.3.1 Lựa chọn và thiết kế phương pháp đánh giá 75

3.3.2 Xác định chu kỳ đánh giá 79

3.3.3 Lựa chọn người đánh giá và đào tạo người đánh giá 79 3.3.4 Phỏng vấn đánh giá 80

3.4 Các giải pháp nhằm thực hiện, quản lý, duy trì chương trình phân

tích công việc và đánh giá thực hiện công việc 81

3.5 Sử dụng kết quả phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc

vào công tác quản lý nguồn nhân lực khác tại công ty VINASINCO 81

3.5 1 Với công tác kế hoach hoá nhân lực 81

3.5.2 Với công tác tuyển dụng và bố trí nhân sự 82

3.5.3 Với công tác đào tạo và phát triển người lao động 82

3.5.4 Với thù lao lao động 83

KẾT LUẬN 85

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP

 

 

docx116 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6927 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc tại công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đô thị Việt Nam - VINASINCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưởng phòng chịu trách nhiệm quản lý các công việc chung, cán bộ này là cử nhân luật. 1 nhân viên hành chính lo về các văn bản giấy tờ, nhân viên này đã tốt nghiệp trung cấp tin học 1 nhân viên nhân sự chuyên về vấn đề bảo hiểm xã hội, lương, tuyển dụng, cán bộ này đã tốt nghiệp chuyên ngành luật 2 nhân viên chịu trách nhiệm về vấn đề an toàn lao động, phòng chống cháy nổ thì có một người là kỹ sư điện tử viễn thông, một người học hết PTTH. Các cán bộ trong phòng là những người có trình độ nhưng chưa được đào tạo chuyên môn về công tác quản lý nhân sự đặc biệt là thực hiện công tác phân tích công việc nên họ chưa hiểu nhiều về phân tích công việc và tầm quan trọng của nó. Công ty cũng chưa tổ chức các khoá đào tạo hoặc khuyến khích nhân viên phòng Tổ chức đi đào tạo về công tác quản lý nhân lực. Vì vậy công tác phân tích công việc tại công ty là chưa được thực hiện đúng quy cách và gặp phải nhiều khó khăn. 2.2.3 Bản thân công ty chưa ý thức được sự quan trọng của phân tích công việc Vì ban giám đốc còn thiếu kiến thức và kỹ năng về quản lý nhân lực nên công ty chưa nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của các các công tác đó đặc biệt là phân tích công việc với các hoạt động quản trị nhân lực và với công cuộc phát triển trong tương lai của công ty nên không có chính sách quan tâm, chú trọng, hỗ trợ cho công tác này cả về nhân lực và vật lực. Vì vậy các cán bộ trong phòng quản lý nguồn nhân lực của công ty đến nay vẫn chưa được tiếp xúc với phân tích công việc mang tính chuyên nghiệp. Công ty chưa quy định rõ ràng bằng văn bản nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn cũng như các tiêu chuẩn thực hiện công việc củan người lao động ở từng công việc nên diễn ra tình trạng: - Một chương trình phân tích công việc hoàn thiện cho tất cả các vị trí thì công việc của mỗi một người sẽ được quy định rõ ràng, không có sự chồng chéo trong công việc, cũng như tránh tình trạng có người nhiều việc, nhiều người nhàn rỗi nhưng hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề cần đề cập đến. Trong phòng Tổ chức hành chính, nhân viên nhân sự phải đảm trách nhiều công việc như bảo hiểm xã hội, tuyển dụng, lương, đào tạo…Công việc của người này là rất nhiều trong khi đó cán bộ về an toàn lao động, cán bộ phòng chống cháy nổ thì công việc là không thường xuyên và công việc khá đơn giản. Công việc của 2 người này là tổ chức đào tạo về hai khâu này cho các cán bộ và nhân viên chuyên môn 1 năm 4 lần, mua bán trang thiết bị và quản lý các vấn đề có liên quan. Điều đó đã gây ra tình trạng mất cân đối, người làm ít, người làm nhiều. - Hiện nay công việc không đi liền với trách nhiệm. Tại các cụm quản trị đô thị có một tình trạng chung là khi các quản trị nhà hoặc cụm phó mắc lỗi thì dù vì lý do gì thì cụm trưởng vẫn là người chịu trách nhiệm nhiều nhất trước công ty, khách hàng và đồng thời cũng bị phạt theo hạn mức của mình. Như vậy công tác phân tích công việc tại công ty VINASINCO đã chưa được thực hiện đúng quy cách do ban lãnh đạo công ty còn thiếu hiểu biết về quản lý nguồn nhân lực đặc biệt là công tác phân tích công việc gây ra những tình trạng không có lợi cho sự thực hiện công việc của các nhân viên và ảnh hưởng đến các công tác quản trị nhân lực khác. Vì vậy công ty cần có cái nhìn mới về công tác phân tích công việc, có vậy hoạt động quản trị nhân lực của công ty sẽ ngày một hoàn thiện tốt hơn. 2.3 Thực trạng công tác đánh giá thực hiện công việc tại công ty VINASINCO Trong quá trình thực tập, em đã được nghiên cứu, tìm hiểu về công ty và được biết công ty đã tiến hành đánh giá thực hiện công việc, em rút ra một số nhận xét sau đây: 2.3.1 Các văn bản công ty hiện đang sử dụng Hiện nay công ty có sử dụng văn bản quy định cách đánh giá thực hiện công việc của nhân viên là phần 2 trong mục II của văn bản “ Thông tin chung về công ty cổ phần VINASINCO ”( Xem Phụ lục 7) để quy định cách đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ đối với đối tượng trả theo lương tháng và đối tượng trả theo lương khoán. Ngoài ra công ty mới ban hành một văn bản là: Bảng 2.6: Quy định tạm thời về tiêu chuẩn xét hệ số K ( Nguồn P. Tổ chức hành chính ) TỔNG CÔNG TY VINACONEX CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CÔNG TY VINASINCO Độc lập - Tự do - Hạnh phúc QUY ĐỊNH TẠM THỜI TIÊU CHUẨN XÉT HỆ SỐ K- THU NHẬP HÀNG THÁNG, MỨC THƯỞNG NĂM Hàng tháng: Kt TT CHỈ TIÊU MỨC ĐỘ ĐIỂM I Mức độ hoàn thành nhiệm vụ Căn cứ vào nội dung công việc được giao, kết quả thực hiện của cá nhân 75 1 Khối lượng công việc Hoàn thành 90 % trở lên 40 Đạt từ 75% đến 90 % 25-39 Đạt từ 60 % đến 75 % 14-24 Đạt từ 40 % đến 60 % 1-13 Dưới 40 % 0 2 Chất lượng và hiệu quả công việc Tốt 35 Khá 30 Trung bình 20 Thấp 10 Kém 0 II Thời gian làm việc và kỷ luật lao động 25 1 Thời gian làm việc- Tính trung bình / tháng 26 ngày công, không tính nghỉ chế độ( phép, ốm) Lớn hơn 23 công 10 Từ 14 đến 22 công 5-9 Từ 10 đến 13 công 1-4 Dưới 10 công 0 2 Chấp hành nội quy, kỷ luật lao động 15 A Đi muộn, về sớm - Không vi phạm - Sai phạm 2 lần trong các lỗi - Sai phạm 3 lần trong các lỗi a,b,c,d hoặc sai phạm 1 lần lỗi e 15 B Vi phạm quy định đồng phục 10 C Làm việc riêng, sai vị trí làm việc D Xử lý công việc sai nội quy, quy định 0 E Không chấp hành theo chỉ đạo của lãnh đạo BẢNG ĐIỂM XẾP LOẠI LOẠI A B C Điểm quy định 80-100 60-80 < 60 Hệ số Kt 1 0.9 0.8 % Tổng thu nhập tương đương 100 % 90 % 80 % Kt: Hệ số mức độ hoàn thành nhiệm vụ chấp hành nội quy, kỷ luật lao động được thực hiện theo chế độ bình xét hàng tháng - Trường hợp phạm lỗi có hệ thống( 3 tháng vi phạm liên tiếp) sẽ hạ thêm một mức xếp loại theo tháng cuỗi cùng. B. Hàng năm: Kn= ∑Kt/ 12 Căn cứ vào hệ số Kn để xét thưởng năm CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN GIÁM ĐỐC Văn bản này mới được thông báo đến người lao động trong công ty ngày 28/4/2008, được dùng để bổ sung cho văn bản trước và sẽ được đưa vào thực hiện từ ngày 15/5/ 2008. Trước kia các quy định này chỉ được phổ biến bằng miệng khi người lao động vào làm việc tại công ty bởi người cán bộ quản lý trực tiếp thì nay mới được ban hành thành văn bản chính thức. Phương pháp đánh giá được sử dụng Như vậy phương pháp công ty đang sử dụng để đánh giá thực hiện công việc là phương pháp thang đo đồ hoạ, sử dụng cho điểm, được áp dụng cho tất cả các loại công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, các tiêu thức đánh giá mà công ty đưa ra đã có nhưng vẫn còn chưa đủ. Trước đây khi chưa có văn bản chính thức thì các tiêu thức được đưa ra chỉ là những quy định bất thành văn. Theo quy định hiện nay áp dụng trong bảng 2.6, ta thấy ra hai mục lớn là mức độ hoàn thành nhiệm vụ và thời gian làm việc, kỷ luật lao động. Trong mục mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao có hai tiêu thức là khối lượng công việc; chất lượng và hiệu quả công việc. Trong mục thời gian làm việc và kỷ luật lao động có hai tiêu thức là thời gian làm việc; chấp hành nội quy kỷ luật lao động (5 tiêu thức nhỏ). Tuy nhiên các tiêu thức đánh giá này mới chỉ đáp ứng được ở mức độ cơ bản về khối lượng công việc, chất lượng công việc, thời gian làm việc và kỷ luật lao động, có những tiêu thức quan trọng khác vẫn chưa được đưa vào đánh giá như: thái độ trong công việc của người lao động và với các khách hang mà chưa nên được một số các tiêu thức đặc thù cho các công việc đó. Đồng thời các tiêu thức chưa nêu được sự khác nhau giữa các công việc nên cũng không sử dụng trọng số để nêu lên tầm quan trọng của mỗi yếu tố khác nhau đối với mỗi một công việc. Các mức độ mà công ty sử dụng để đo được thiết lập cho mỗi một tiêu chí không có sự đồng nhất. Mỗi một tiêu chí sử dụng một loại loại tiêu chuẩn khác nhau làm cho quy định đánh giá sự tthực hiện công việc của người lao động trở nên phức tạp và khó sử dụng hơn. Số tiêu chuẩn đo sự thực hiện công việc của mỗi một tiêu chí là không giống nhau, có tiêu thức có đến 5 mức độ đo trong khi đó có tiêu chí chỉ có 3 mức độ đo lường. Hệ số Kt tương ứng với các mức điểm đánh giá là 1, 0.9, 0.8 là chưa hợp lý vì chưa có mức điểm theo luỹ tiến và mức phạt trong đánh giá là chưa cao, cũng chưa có tác dụng khuyến khích sự thưc hiện công việc của người lao động. Do có sự không đồng nhất nên công ty không chỉ có tính điểm mà còn buộc phải sử dụng thêm phương pháp xếp hạng thành 3 loại là A, B, C, đây là một việc làm thừa trong quy định mới này. Việc phân thành 3 loại trong tính điểm của quy định là quá ít và số điểm tương ứng với 3 loại này là tăng đều nhưng công ty nên sử cho điểm tương đương với các loại này theo hình thức tăng luỹ tiến để kích thích sự hoàn thành công việc và tuân thủ nội quy, quy định của công ty. Công ty cũng sử dụng hệ số Kt hàng tháng để tính hệ số Kn hàng năm theo công thức như trên để xét thưởng cuối năm cho nhân viên trong công ty. Việc tính thưởng năm sẽ dựa vào hệ số Kn nhưng cũng dựa vào lợi nhuận từng năm hoạt động của công ty. Chu kỳ đánh giá quá ngắn Mục đích để đánh giá thực hiện công việc của công ty là trả tiền lương năng suất hàng tháng cho người lao động trả lương hợp đồng là chủ yếu nên chu kỳ đánh gía của công ty hiện nay quá ngắn, chỉ tính theo hàng tháng. Vì vậy hầu hết người lao động làm việc chỉ mong đạt được kết quả để không bị trừ lương năng suất mà đôi khi bỏ qua những mục tiêu dài hạn của công ty như làm mất uy tín của công ty, lãng phí tài sản của doanh nghiệp, cốt đạt mục tiêu của mình. Mức tiền lương năng suất hàng tháng không cao, không có sự chênh lệch lớn nên không có tác dụng kích thích mạnh đối với người lao động nên họ không có ý chí phải phát triển bản thân mình trong công việc. 2.3.4 Công tác lựa chọn và đào tạo người đánh giá chưa được chú trọng Đối với đối tượng trả lương tháng thì người cán bộ quản lý trực tiếp sẽ trực tiếp đánh giá theo phần công việc được phân công, còn đối tượng trả theo lương khoán thì từng người trong bộ phận tự đánh giá sự thực hiện công việc của mình, sau đó trong tổ tự bình bầu xếp hạng cho nhau. Điều này có lợi thế là đơn giản, nhưng dễ mắc nhiều lỗi do xu hướng chủ quan của người đánh giá khi người đánh giá. Đồng thời cho đến nay những người đánh giá này vẫn chưa được đào tạo để đánh giá như thế nào cho đúng đặc biệt với tiêu chí về mức độ hoàn thành công việc, không có một căn cứ gì để đánh giá cũng như nhận xét về sự đánh giá của họ vì vậy họ sẽ tự đánh giá theo ý mình, có lợi cho người lao động, thiệt hại sẽ nghiêng về phía công ty nhiều hơn. Sự đánh giá như vậy dễ chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ làm không chính xác kết quả đánh giá. 2.3.5 Không có sự phản hồi thông tin trực tiếp tới người lao động Hàng tháng công ty có đánh giá xếp hạng nhưng không có cuộc phỏng vấn đánh giá để phản hồi thông tin từ phía người lao động, có thể vì chu kỳ đánh giá quá gần, sự khuyến khích ngưòi lao động có được từ đánh giá quá ít, người lao động không thắc mắc gì. Cũng có thể vì người lao động được xếp hạng theo xu hướng bình quân, ai cũng như nhau nên không phải thắc mắc gì. Hầu hết các cán bộ tại các phòng đều được đánh giá loại A hàng tháng. Đến cuối mỗi năm công ty có tổ chức một cuộc họp để bình bầu xếp hạng tại từng bộ phận, tính hệ số lương cuối năm để tính thưởng năm. Với nhân viên trả lương khoán công ty không có chế độ trả lương năng suất mà khoán gọn luôn theo địa điểm thực hiện công việc và số vụ việc nên đánh giá chỉ là để thực hiện các quyết định nhân sự khác khi cần thiết như đề bạt, thuyên chuyển, …Vì vậy không tạo ra động lực cho người lao động, họ thấy không cần thiết phải cố gắng, chỉ cần làm đủ việc và ít có trách nhiệm với công việc. Nói tóm lại công tác đánh giá thực hiện công việc của công ty đã được thực hiện, dễ làm, có hiệu quả tuy nhiên đó chỉ là hiệu quả trước mắt (để trả lương năng suất cho người lao động) và vẫn còn nhiều hạn chế. Công ty cũng chưa có sự phản hồi thông tin từ phía người lao động. Như vậy có thể nói công ty có chương trình đánh giá thực hiện công việc tuy nhiên đây chưa phải là một chương trình đánh giá thực hiện công việc hoàn chỉnh nên chưa phát huy được sức mạnh, tác dụng thực sự của một hệ thống đánh giá thực hiện công việc. Cả hai hoạt động phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc đều ảnh hưởng đến các hoạt động nhân lực khác nên các hoạt động này còn nhiều hạn chế. 2.4 Ảnh hưởng của công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc đến các hoạt động quản lý nguồn nhân lực tại công ty VINASINCO Hiện tại phòng chuyên về quản lý nhân lực của công ty là phòng Tổ chức- hành chính, không phải phòng tổ chức lao động tiền lương riêng biệt. Tuy nhiên, điều này là hợp lý vì số lượng nhân viên của công ty khoảng 300 người nên công việc nhân sự có thể kết hợp với công việc hành chính. Các hoạt động quản lý nhân sự đã được thực hiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. 2.4.1 Với thực trạng công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực Hiện tại, sau hơn bốn năm hoạt động, kế hoạch nhân lực của công ty vẫn được xác định theo từng năm. Sau mỗi một năm hoạt động, công ty dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm sau: số địa điểm mà công ty sẽ quản lý, kế hoạch mở rộng dịch vụ...và kinh nghiệm sử dụng lao động năm vừa qua để đưa ra kế hoạch sử dụng lao động của năm tới. Vì chưa có chương trình phân tích công việc cụ thể nên công ty lên kế hoạch nhân sự cho năm tới đều phụ thuộc vào kinh nghiệm sử dụng lao động của năm trước, rà soát lại số lao động trong công ty, sau đó xác định cung cầu nhân lực. Vì thế kế hoạch nhân sự đưa ra chỉ mang tính chung chung, chưa xác định được cụ thể và chi tiết cho từng vị trí còn trống là cần người như thế nào. Phòng Tổ chức- hành chính sẽ làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch nhân lực này có thông qua ban giám đốc. Thông thường, số lượng lao động của công ty trong một năm khá ổn định vì các dịch vụ đều tiến hành hàng ngày, không theo mùa vụ. 2.4.2 Thực trạng công tác tuyển dụng, bố trí nhân sự Hiện nay, việc tuyển dụng lao động chủ yếu là theo sự giới thiệu của nhân viên trong công ty và tổng công ty. Điều này tạo ra sự trung thành, gắn kết cao hơn khi một gia đình có nhiều thế hệ cùng làm việc trong công ty. Đó cũng chứng tỏ sự tin tưởng của người lao động đối với công ty nên họ giới thiệu người quen đến công ty. Năm 2005 công ty tuyển thêm 149 người, năm 2006 là 77 người. Tuy nhiên, công ty đã không có bất kỳ một hình thức tuyển nào khác, tiết kiệm chi phí tuyển dụng nhưng khó tìm được nhân tài, lao động giỏi. Phòng Tổ chức- hành chính chịu trách nhiệm chính về vấn đề tuyển dụng theo quy trình gồm có 3 vòng: hồ sơ; bài thi chuyên môn trên giấy; phỏng vấn gặp Phó trưởng phòng tổ chức, Phó giám đốc. Bài thi chuyên môn trên giấy do cán bộ phòng tổ chức hành chính kết hợp với cán bộ quản lý cao nhất thuộc bộ phận tuyển người viết ra. Bài thi chuyên môn này là những tình huống, kinh nghiệm, kiến thức mà người nhân viên đó sẽ gặp phải trong thực tế, đòi hỏi người ứng viên phải nắm bắt và trả lời được. Ví như khi tuyển bảo vệ thì bài thi này là những tình huống giải quyết sự cố, đánh nhau, cứu người,… Vòng thi thứ 3 là cuộc trao đổi của ứng viên với 2 người là Phó trưởng phòng Tổ chức hành chính và Phó giám đốc. Trong cuộc trao đổi này hai cán bộ này sẽ hỏi các thông tin về sự hiểu biết của họ đối với công ty, nguyện vọng, sự sẵn sang cống hiến cho công ty,…và trả lời các thắc mắc của người ứng viên về công việc Như vậy có thể nói 3 vòng tuyển chọn người của công ty được thực hiện tuy nhiên do chưa thực hiện chương trình phân tích công việc nên việc tuyển chọn chưa có các tiêu chí và tiêu chuẩn tuyển chọn rõ rang, sẽ gặp khó khăn hơn đặc biệt khi muốn tuyển nhân viên có trình độ cao. Hơn nữa việc tuyển chọn này sẽ mang tính chủ quan của người phỏng vấn, có thể lựa chọn được người phù hợp với công việc nhưng không phải là lựa chọn tối ưu. Nhưng do công ty không có phân tích công việc, kế hoạch nhân sự không rõ ràng nên không có kế hoạch tuyển dụng dài lâu, tuyển dụng lao động thường xuyên diễn ra, đặc biệt là tuyển bảo vệ và quản trị nhà. Số lượng tuyển lao động cũng khá đông, tốn thời gian và chi phí cho tuyển dụng. Hiệu quả của công tác tuyển dụng chưa được đánh giá vì chưa có nhận xét rõ ràng về đánh giá thực hiện công việc nên chưa khắc phục được tồn tại của hoạt động tuyển dụng lao động. Sau khi vào làm việc, mỗi người phải gặp giám đốc để nhận công việc. Lao động gián tiếp thay đổi công việc nếu công ty thấy công việc không phù hợp hoặc công ty cần người sau 6 tháng. Với lao động trực tiếp, công việc có sự thay đổi khá ít, người lao động sẽ thay đổi nơi làm việc sau 3 tháng. Việc bố trí lao động này sẽ do người quản lý trực tiếp cùng cán bộ phòng Tổ chức đưa ra quyết định thay đổi. Tuy nhiên do chưa có phân tích công việc nên bố trí sử dụng lao động vẫn còn chưa tốt, phân công công việc chưa hợp lý làm cho hiệu quả thực hiện công việc của người lao động không tốt, ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Một ví dụ điển hình là ngày 15/4/2008 công ty đã có một sự thuyên chuyển lớn lao động tại cụm quản trị đô thị 2. 3 toà nhà 24T1, 24T2, 34T được tách ra cho 2 cụm trưởng quản lý thay vì 1 cụm trưởng như trước kia, một cụm trưởng mới được bổ nhiệm, các nhân viên quản trị nhà tại toà nhà 34T được bố trí làm quản trị nhà tại các toà nhà khác, thay vào đó là các quản trị nhà từ các toà nhà khác được phân công đến làm việc tại đây. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do: - Phân công công việc không hợp lý, quá nhiều việc tại cả 3 toà nhà 24T1, 24T2, 34T khiến cho cụm trưởng không thể giải quyết hết việc, thường xuyên không hoàn thành công việc đúng thời gian mà không phải do lỗi của cụm trưởng - Cụm phó làm việc không tốt, không phải gánh bất cứ một trách nhiệm nào với cả công việc mình được giao mà trách nhiệm đều thuộc về cụm trưởng. - Các quản trị nhà của toà nhà 34 không hoàn thành tốt công việc được giao do công việc quá nhàm chán và số lượng công việc phải giải quyết trong ca làm việc của họ quá nhiều mà số quản trị nhà trong một ca được bố trí là 2 người, tương đương với các toà nhà khác (17T, 18T) Đồng thời có những phòng ban số lượng người là khá lớn, có thể bố trí hợp lý và cắt giảm người đi như phòng Tổ chức hành chính, đội vận hành, trạm cấp nước. 2.4.3 Thực trạng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Trong công ty, lao động trực tiếp được đào tạo để nâng cao nghiệp vụ bằng các lớp tập huấn, mời người từ các nơi đào tạo chuyên nghiệp về để dạy, cuối khoá học nhân viên được cấp chứng chỉ. Đến nay, 92 % bảo vệ được cấp chứng chỉ của các trung tâm đào tạo bảo vệ chuyên nghiệp. Các nhân viên vệ sinh cũng được học và cấp chứng chỉ vệ sinh chuyên nghiệp. Hàng năm, công ty cũng mở ra 4 đợt tập huấn phòng cháy chữa cháy để tập huấn cho bộ phận này do giáo viên từ trung tâm phòng cháy chữa cháy của thành phố xuống dạy để bồi dưỡng thêm kinh nghiệm cho những người mới và bồi dưỡng thường xuyên cho những nhân viên khác. Quản trị nhà thường trực tại các nhà cũng được học để xử lý các tình huống, học ngắn hạn về phòng cháy chữa cháy, bảo vệ...,các quy định trong công ty để có thể tiếp nhận thông tin và giải trình khi cần thiết. Cán bộ ở phòng ban cũng được học theo chuyên môn mà mình đảm trách để hoàn thiện kỹ năng và phục vụ công việc cho tốt hơn. Công ty luôn khuyến khích nhân viên đi đào tạo, nâng cao trình độ, trọng dụng người có tài, tâm huyết. Năm 2005 công ty đào tạo 10 người trình độ nghiệp vụ, 40 tay nghề công nhân. Đến năm 2006 con số này tăng lên đáng kể, 45 người trình độ nghiệp vụ và 50 người tay nghề công nhân. Số người được đào tạo này là những nhân viên mới vào làm việc, đang trong qúa trình thử việc. Việc đào tạo có mang lại hiệu quả, giúp nhân viên bổ sung kiến thức và tập huấn kỹ năng cơ bản. Tuy nhiên do chưa có phân tích công việc nên việc đào tạo của công ty vẫn còn thiếu sót. Nhiều khi các nhân viên mới vào chưa được đào tạo ngay mà phải đủ người và đến đúng một khoảng thời gian nào đó thì công ty mới tiến hành đào tạo nên gây nên những hậu quả do chưa biết cách xử lý tình huống. Các cán bộ ở các phòng ban cũng được đi đào tạo nhưng số lần đào tạo là khá ít, một năm 1lần, chưa đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng trong sự thực hiện công việc của họ. Công ty cũng chưa có chương trình đánh giá sự thực hiện công việc trước và sau khi đào tạo người lao động nên không đánh giá được hiệu quả của hoạt động đào tạo người lao động ra sao. Vì thế khi thực hiện chưa tốt hai hoạt động phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc thì công ty tiến hành đào tạo không thể đạt hiệu quả như mong muốn được. 2.4.4 Với công tác thù lao lao động * về tiền lương Đối với nhân viên trả theo lương tháng bao gồm ban giám đốc, 5 phòng ban, trạm cấp nước, tổ vận hành, các đơn vị quản trị đô thị thì khi trả lương có hai khoản là lương cơ bản và khuyến khích. Bảng lương của công ty theo bảng lương của nhân viên chuyên môn nghiệp vụ theo NĐ số 205/ 2004 /NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004. Lương tháng theo hợp đồng có hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định thời hạn. Lương cơ bản sẽ được tính theo hệ số lương của từng nhóm công việc nhân với mức lương tối thiểu (hiện nay là 540.000đ). Các khuyến khích chính là lương năng suất. Tuy nhiên loại lương này không áp dụng cho các nhân viên trả theo lương khoán,và khuyến khích này được chia làm 3 khối như sau: + Khối sản xuất gồm trạm xử lý nước, quản trị nhà Lương năng suất chia làm 3 mức là 400.000đ, 550.000đ, 700.000đ + Khối văn phòng gồm ban giám đốc, một số phòng ban: Lương năng suất chia làm 2 mức: mức 1là 400.000đ, mức 2 là 600.000đ + Khối kỹ thuật gồm Tổ vận hành của phòng Kỹ thuật thi công: Lương năng suất chia làm 2 mức: mức 1 là 550.000đ, mức 2 là 700.000đ. Việc phân chia các mức lương năng suất ở mỗi một khối phụ thuộc vào thời gian người lao động làm việc ở công ty, với người làm việc dưới một năm thì ở hưởng lương ở mức 1, người làm việc lâu năm thì hưởng lương ở mức 2. Đối với nhân viên trả theo lương khoán gồm tổ sửa chữa thi công của phòng Kỹ thuật thi công, đội vệ sinh chuyên nghiệp và tổ chăm sóc cây, các tổ kinh doanh thì công ty sẽ khoán công việc và tiền công cho từng tổ, đội. Sau đó từng tổ, đội lại được trưởng các bộ phận khoán lại cho các nhân viên của mình theo từng nhóm. Các đối tượng này không được trả lương năng suất. Bảng 2.7: So sánh tiền lương năm 2005, 2006 ( Nguồn từ P. Tổ chức- hành chính) Năm Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Tỷlệ 2006/2005 Tổng lương (đ) 4.539.552.000 5.595.096.288 1,23 Lao động bình quân (ng) 280 275 0,98 Thu nhập bìnhquân (đ/ng/th) 1.351.057 1.695.000 1,25 Trên đây là tiền lương mà người lao động nhận được năm 2005, 2006, mức tiền lương đã tăng lên đáng kể nhưng hệ thống thù lao này vẫn chưa thoả mãn người lao động. Bởi vì công ty không có chương trình phân tích công việc nên các tiêu chuẩn để xem xét khả năng hoàn thành công việc vẫn còn thiếu. Đặc biệt là hiện nay đánh giá thực hiện công việc quá ngắn, chưa có tác dụng khuyến khích người lao động. Như vậy ta đã tìm hiểu được thực trạng của hoạt động phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc của công ty VINASINCO và từ đó thấy được ảnh hưởng to lớn của hai hoạt động này đến tất cả các hoạt động quản trị nhân lực khác. Từ đó ta nhận thấy rằng nếu hai hoạt động này được hoàn thiện thành hai chương trình phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc hoàn chỉnh thì không những phát huy được hiệu quả của hai hoạt động này mà còn đem lại hiệu quả hoạt động tốt cho công ty ở tất cả các lĩnh vực. Vì vậy công ty cần có chương trình nhằm cải tiến và hoàn thiện hai chương trình này. Chương 3 .Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc ở công ty VINASINCO 3.1 Những đổi mới và hướng phát triển của công ty 3.1.1 Hướng phát triển của công ty Mỗi năm một lần công ty tổng kết lại các kết quả đạt được của năm trước, các mặt còn tồn tại và đặt ra kế hoạch hoạt động cho năm kế tiếp. Năm 2007 là một năm hoạt động tích cực của công ty. Cuối năm 2007, công ty đã đề ra kế hoạch cho năm 2008 trong Dự trù báo cáo kết quả hoạt động năm 2007 và phương hướng hoạt kế hoạch năm 2008: * Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: 1. Với công tác quản lý đô thị và chăm sóc khách hàng: - Kiên quyết dứt điểm việc thu giá dịch vụ mới tại khu đô thị - Xây dựng hệ thống cán bộ quản lý điều hành mang tính chuyên nghiệp. - Xây dựng các quy định quản lý, các quy trình để tiến tới xây dựng hệ thống phần mềm nhằm xử lý kịp thời, linh hoạt chất lượng dịch vụ và phục vụ - Bán tầng 1, 2 toà nhà 34 T, đi vào quản lý tốt 32 tầng còn lại 2. Với các dịch vụ kinh doanh: - Nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh các dịch vụ hiện thời trong công ty - Mở rộng nhiều hoạt động kinh doanh khác, hợp tác với các đối tác khác - Đầu tư, lắp đặt các bảng thông tin quảng cáo, phòng mẫu tại sảnh tầng 1 các nhà chung cư nhằm nâng cao doanh thu, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. 3. Với hoạt động xây dựng- sửa chữa, bảo trì - Thực hiện tốt công tác bảo trì tại khu đô thị - Mở rộng thị trường sang xây lắp các công trình vừa và nhỏ 4. Với hoạt động khai thác và cung cấp nước sạch - Quản lý tốt, khai thác tối đa công suất tại các giếng, giảm thiểu lượng nước hao hụt thất thoát, nâng cao chất lượng nước - Xây dựng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoàn thiện công tác phân tích công việc và đánh giá thực hiện công việc tại công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đô thị Việt Nam - VINASINCO.docx
Tài liệu liên quan