MỤC LỤC
PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUYÊN ĐỀ 1
PHẦN 2: QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU VÀ THU THẬP THÔNG TIN 1
I. Thời gian thu thập thông tin 2
II. Phương pháp thu thập thông tin 2
1. Phương pháp thống kê 2
2. Phương pháp so sánh 2
3. Phương pháp xã hội học (như theo dõi, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội .) 3
III. Nguồn thu thập thông tin chủ yếu 3
1. Văn bản pháp luật 3
Các văn bản pháp luật trên được lấy từ trang Web: thuvienphapluat.com.vn 4
2. Kế hoạch số 275/KH-SVHTT&DL ngày 10/4/2009 của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hải Phòng về việc “Rà soát, chỉnh lý hương ước của các Làng văn hóa, Tổ dân phố văn hóa năm 2009” 4
3. Sổ công văn đến, đi lưu tại Phòng Văn hóa & Thông tin Bao gồm các công văn của Phòng Văn hóa & Thông tin gửi đi và các công văn đến Phòng Văn & Thông tin hóa liên quan đến việc xây dựng hương ước các làng trên địa bàn huyện. 4
4. Bản mẫu hương ước do Phòng Văn hóa & thông tin soạn thảo và hương ước cụ thể của một số làng 4
IV. Những thông tin thu thập được về hoạt động xây dựng hương ước 5
1. Những quy định của pháp luật về việc xây dựng hương ước 5
2. Hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương 6
PHẦN 3: KẾT QUẢ XỬ LÝ THÔNG TIN THU THẬP ĐƯỢC 12
I. Cách thức xây dựng hương ước ở huyện An Dương 12
II. Nội dung của các Hương ước trên địa bàn huyện An Dương 14
PHẦN 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ 17
I. Nhận xét về hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương 17
1. Những điểm đạt được 17
2. Những điểm hạn chế 17
II. Đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương 19
KẾT LUẬN 21
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2640 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động xây dựng hương ước ở huyện An Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liên quan để làm báo cáo thực tập.
- 04 ngày trực tiếp đến các làng xã để thu thập thông tin về việc xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước ở các làng này.
- Các ngày còn lại thì vừa kết hợp với việc thực tập tại Phòng Tư pháp vừa tìm hiểu thu thập thông tin qua văn bản pháp luật, các sách báo liên quan và các bài viết trên một số trang web.
II. Phương pháp thu thập thông tin
Những phương pháp mà tôi đã sử dụng để thu thập và xử lý thông tin trong phạm vi chuyên đề của mình. Bao gồm các phương pháp sau:
1. Phương pháp thống kê
Thông qua các số liệu được thống kê tại Phòng Văn hóa & thông tin huyện về hoạt động xây dựng hương ước làng trên địa bàn huyện những năm gần đây cũng như sổ quản lý công văn đến, đi lưu tại Phòng Tư pháp và Phòng Văn hóa & Thông tin thì việc sử dụng phương pháp thống kê để thu thập các thông tin là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với phạm vi chuyên đề yêu cầu.
2. Phương pháp so sánh
Do số lượng các bản hương ước được xây dựng trên địa bàn huyện trên địa bàn huyện trong thời gian qua là khá nhiều và năm 2009 huyện đã tiến hành kế hoạch sửa đổi hương ước một số làng nên việc sử dụng phương pháp so sánh trong trường hợp này nhằm mục đích đưa ra được những kết luận chính xác về thực trạng hoạt động xây dựng hương ước ở huyện. Mặt khác, sử dụng phương pháp so sánh để thấy được những điểm giống và khác nhau giữa cách thức xây dựng, tổ chức thực hiện hương ước ở huyện An Dương so với quy định của pháp luật và so với các địa phương khác.
3. Phương pháp xã hội học (như theo dõi, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội….)
Sử dụng phương pháp này để nắm được những thông tin, tư liệu thực tiễn, thể hiện những quan niệm, quan điểm trong xã hội về vẫn đề xây dựng hương ước ở địa phương, từ đó kiểm nghiệm lại những quy định của pháp luật và cách thức thực hiện trên thực tế.
III. Nguồn thu thập thông tin chủ yếu
1. Văn bản pháp luật
Nghị định của Chính phủ số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bảm, thôn, ấp, cụm dân cư.
Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp – Bộ Văn hóa Thông tin – Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư.
Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp – Bộ Văn hóa thông tin – Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Ủy ban Quốc gia dân số - kế hoạch hóa gia đình số 04/2001/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN-UBQGDS-KHHGĐ ngày 09/7/2001 hướng dẫn bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư về việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Thông tư liên tịch của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Bộ Văn hóa thông tin số 01/2006/TTLT-MTTQVN-BVHTT.
Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23/6/2006 của Bộ Văn hóa Thông tin về việc ban hành Quy chế công nhận danh hiệu “gia đình văn hóa”, làng văn hóa”, “tổ dân phố văn hóa”.
Các văn bản pháp luật trên được lấy từ trang Web: thuvienphapluat.com.vn
2. Kế hoạch số 275/KH-SVHTT&DL ngày 10/4/2009 của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hải Phòng về việc “Rà soát, chỉnh lý hương ước của các Làng văn hóa, Tổ dân phố văn hóa năm 2009”
3. Sổ công văn đến, đi lưu tại Phòng Văn hóa & Thông tin Bao gồm các công văn của Phòng Văn hóa & Thông tin gửi đi và các công văn đến Phòng Văn & Thông tin hóa liên quan đến việc xây dựng hương ước các làng trên địa bàn huyện.
4. Bản mẫu hương ước do Phòng Văn hóa & thông tin soạn thảo và hương ước cụ thể của một số làng
Thông qua những văn bản và tài liệu trên đã giúp tôi thu thập được những thông tin bổ ích để phục vụ cho chuyên đề của mình. Tuy nhiên công việc tìm kiếm các nguồn thông tin đó cũng gặp không ít những khó khăn, mất nhiều thời gian và công sức. Song với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ công tác tại Phòng Tư pháp, Phòng Văn hóa & thông tin và Ban văn hóa các xã đã giúp tôi tìm kiếm được tài liệu và hoàn thành tốt bài viết của mình.
IV. Những thông tin thu thập được về hoạt động xây dựng hương ước
1. Những quy định của pháp luật về việc xây dựng hương ước
Văn bản có tính chất pháp lý cao nhất về vấn đề này là Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Tiếp đến là Chỉ thị số 24/1998/TC-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Và đặc biệt là Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 của Liên Bộ Tư pháp, Văn hóa – Thông tin, Ban Thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, thôn, ấp, bản, cụm dân cư đã cụ thể hóa một cách khá chi tiết sự điều chỉnh pháp luật đối với công tác này. Đến năm 2001 có thêm Thông tư liên tịch số 04/2001/TTLT-BTP-VHTT-BTTUBTƯMTTQVN-UBQGDS hướng dẫn bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-VHTT-BTTUBTƯMTTQVN xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư về việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình. Theo đó quy trình ban hành và nội dung của các hương ước được quy định như sau:
Nội dung của hương ước được quy định tại Mục 1 Chỉ thị số 24/1998/TC-TTg, và được cụ thể hoá tại Mục 1 Phần I Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN. Theo đó thì nội dung của Hương ước tập trung vào 08 nội dung chính. Và đến năm 2001 thì tại Mục 1 Phần I Thông tư liên tịch số 04/2001/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN-UBQGDS quy định nội dung hương ước, quy ước, cần bổ sung một số điểm cụ thể để thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Hình thức thể hiện của hương ước được quy định tại Mục 2 Phần I Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN, trong đó quy định về tên gọi và cơ cấu của hương ước.
Thủ tục soạn thảo, thông qua phê duyệt, tổ chức thực hiện và sửa đổi, bổ sung hương ước được quy định tại Chỉ thị số 24/1998/TC-TTg, cụ thể hoá tại Mục 2 Phần II Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN. Theo đó quy định Hương ước phải được xây dựng một cách dân chủ, công khai, phù hợp với pháp luật, được chia thành 4 bước:
- Bước 1: Thành lập các nhóm soạn thảo và tổ chức soạn thảo hương ước;
- Bước 2: Tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và nhân dân vào Dự thảo Hương ước;
- Bước 3: Thảo luận và thông qua Hương ước;
- Bước 4: Phê duyệt Hương ước.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật trên cũng quy định cụ thể về trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và nhân dân trong việc xây dựng hương ước. Như vậy, pháp luật điều chỉnh việc xây dựng hương ước cho đến nay đã khá đầy đủ và chi tiết.
2. Hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương
Huyện An Dương là một huyện nằm ở phía Tây thành phố Hải Phòng, được tách ra từ huyện An Hải cũ vào năm 2002; là một khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ quan trọng của Hải Phòng. Huyện An Dương giáp với tỉnh Hải Dương ở phía Tây và Tây Bắc, giáp với huyện An Lão ở phía Tây Nam, giáp với quận Kiến An ở phía Nam, huyện Thủy Nguyên ở phía Bắc, quận Hồng Bàng và quận Lê Chân ở phía Đông Nam. Phía Bắc có sông Kinh Môn, phía Tây có sông Lạch Tray, phía Đông có sông Cấm chảy qua, sông Hàn làm ranh giới giữa An Dương và Kiến An. Quốc lộ 5A và quốc lộ 10 là hai tuyến giao thông quan trọng nhất của huyện; ngoài ra còn có tỉnh lộ 188 và 351. Diện tích của huyện là 98,3196 km2 với khoảng 150.000 dân (năm 2009).
Huyện có 16 đơn vị hành chính trực thuộc gồm thị trấn An Dương và 15 xã chia thành 92 làng, khu dân cư. Đến năm 2007, tất cả các làng, khu dân cư này đều đã xây dựng hước ước với tên gọi thống nhất là hương ước làng văn hoá hoá hoặc quy ước khu dân cư văn hoá. Cụ thể danh sách các làng và thời gian xây dựng hương ước của từng làng như sau:
Xã An Đồng có 06 làng:
Trang Quan: 12/2002 An Dương: 03/2001 Văn Cú: 03/2001
Vĩnh Khê: 02/2001 Cái Tắt: 10/2001 Vân Tra: 03/1997
Xã Đồng Thái có 06 làng:
Bạch Mai: 10/2000 Hoàng Mai: 9/2002 Tê Chử: 5/2003
Kiến Phong: 11/2002 Minh Kha: 12/2002 Văn Phong: 1/1997
Xã Hồng Thái có 6 làng:
Hy Tái: 12/2002 Kiều Trung: 9/2001 Đào Yêu: 10/2003
Kiều Đông: 10/2003 Xích Thổ: 10/2003 Tiên Sa: 12/2002
Xã Quốc Tuấn có 4 làng:
Văn Xá: 5/2001 Nhu Kiều: 01/2002 Kiều Hạ: 12/2002
Kiều Thượng: 10/2001
Xã Đặng Cương có 2 làng:
Tri Yếu: 3/1997 Đồng Dụ: 10/2000
TT An Dương có 3 làng và 5 Tổ dân phố (Khu dân cư):
Đồng Giới I: 8/1998 Đồng giới II: 11/2002 KDC số 1: 9/2004
Đồng Lâu: 12/2002 KDC Số 5: 9/2003 KDC số 4: 11/2004
TDP số 2: 12/2007 TDS số 3: 11/2006
Xã Lê Lợi có 3 làng:
Lương Quy: 9/2001 Tràng Duệ: 9/2001 Trạm Bạc: 10/2002
Xã Hồng Phong có 5 làng:
Đình Ngọ: 9/2001 Đồng Xuân: 12/2002 Hà Đỗ: 8/2003
Hoàng Lâu: 4/2003 Hỗ Đông: 12/2003
Xã An Hoà có 5 làng:
Ngọ Dương: 10/2001 Dưỡng Phú: 12/2002 Phú La: 10/2001
Tỉnh Thuỷ: 10/2001 Hà Nhuận:8/2002
Xã Nam Sơn có 6 làng:
Cách Thượng: 10/2000 Cách Hạ: 9/2000 Mỹ Tranh: 11/2002
Quỳnh Hoàng: 12/2002 Lương Quán: 12/2002 Cống Mỹ: 12/2001
Xã Bắc Sơn có 6 làng:
Đồng Hà: 10/2000 Tây Hà: 10/2002 Nam Hà: 10/2000
Quỳnh Minh: 10/2001 Bắc Hà: 9/2003 Hà Liên: 10/2002
Xã An Hồng có 9 làng:
Khánh Thịnh: 12/2002 Lê Lác I: 10/2001 Lê Lác II: 10/2003
Thuần Ty: 10/2001 Tất Xứng: 5/2003 Lê Sáng: 5/2001
Ngô Hùng: 01/2002 Phạm Dùng: 12/2003 Ngô Yến: 12/2002
Xã An Hưng có 9 làng:
Thắng Lợi: 10/2001 Làng Thượng: 5/2003 Làng Bắc: 5/2003
Nam Bình: 8/2003 Nam Hoà: 12/2003 Xóm Đoài: 8/2003
Làng Hạ: 12/2003 Đồng Hải: 8/2002 An Phong: 8/2002
Xã Tân Tiến có 4 làng:
Nông Xá: 4/1997 Vụ Bản: 9/2000 Do Nha: 12/2002
Kinh Giao: 11/2003
Xã Đại Bản có 9 làng:
Đại Đồng: 12/2000 Lực Nông: 12/2000 Trại Kênh: 9/2003
Tiên Nông: 12/1998 Xuyên Đông: 12/2003 Văn Tiến:12/2003
An Phú: 9/2004 Vụ Nông: 6/2004 Lê Xá: 10/2003
Xã Lê Thiện có 4 làng:
Phí Xá: 02/2002 Kim Sơn: 9/2002 Cữ: 8/2004
Dụ Nghĩa: 11/2004
Năm 2009 vừa qua, thực hiện Kế hoạch số 275/KH-SVHTT&DL ngày 10/4/2009 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hải Phòng về việc “Rà soát, chỉnh lý hương ước của các Làng văn hóa, Tổ dân phố văn hóa năm 2009”, Phòng Văn hoá Thông tin huyện An Dương đã xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện việc chỉnh lý Hương uớc các làng văn hoá năm 2009. Theo bản Kế hoạch số 11/KH-VH&TT ngày 20/6/2009 thì có 30 làng văn hoá trên địa bàn huyện được chọn tiến hành chỉnh lý Hương ước, bao gồm:
STT
Làng văn hoá
Xã, thị trấn
Năm tổ chức phát động
1
Trang Quan
An Đồng
12/2002
2
Hoàng Mai
Đồng Thái
9/2002
3
Kiến Phong
Đồng Thái
11/2002
4
Minh Kha
Đồng Thái
12/2002
5
Tê Chử
Đồng Thái
5/2003
6
Hy Tái
Hồng thái
12/2002
7
Tiên Sa
Hồng Thái
12/2002
8
Nhu Kiều
Quốc Tuấn
01/2002
9
Kiều Hạ
Quốc Tuấn
12/2002
10
Đồng Giới Đông
TT An Dương
11/2002
11
Đồng Lâu
TT An Dương
12/2002
12
Khu dân cư số 5
TT An Dương
9/2003
13
Trạm Bạc
Lê Lợi
12/2002
14
Đồng Xuân
Hồng Phong
12/2002
15
Hoàng Lâu
Hồng Phong
4/2003
16
Hà Nhuận
An Hoà
8/2002
17
Dưỡng Phú
An Hoà
12/2002
18
Mỹ Tranh
Nam Sơn
11/2002
19
Lương Quán
Nam Sơn
12/2002
20
Quỳnh Hoàng
Nam Sơn
12/2002
21
Tây Hà
Bắc Sơn
10/2002
22
Hà Liên
Bắc Sơn
10/2002
23
Bắc Hà
Bắc Sơn
9/2003
24
Khánh Thịnh
An Hồng
12/2002
25
Ngô Hùng
An Hồng
01/2002
26
Ngô Yến
An Hồng
12/2002
27
Tất Xứng
An Hồng
5/2003
28
Đồng Hải
An Hưng
8/2002
29
An Phong
An Hưng
8/2002
30
Kim Sơn
Lê Thiện
9/2002
Hương ước, quy ước của các làng trên được chỉnh sửa theo hướng dẫn của bản Đề Cương số 01/ĐC-TTVHTT của Trung tâm Văn hoá Thông tin huyện An Dương. Đến cuối năm 2009 thì việc chỉnh sửa hương ước của 30 làng văn hoá nêu trên đã hoàn tất. Uỷ ban nhân dân huyện đã phê duyệt Hương ước của 29 làng, và những bản Hương ước này đã được đưa vào tổ chức thực hiện trên thực tế. Riêng đối với Dự thảo Hương ước của làng Nhu Kiều – xã Quốc Tuấn thì chưa được phê duyệt ngay mà phải tiến hành Dự thảo lại Hương ước vì: Nội dung của Dự thảo chủ yếu là trình bày về quá trình lịch sử phát triển; các Chương, Điều mang tính chất báo cáo thành tích, kết quả thực hiện, chưa thể hiện rõ các quy định quy phạm xã hội cụ thể để thực hiện. Sau đó, làng Nhu Kiều đã tiến hành lại Dự thảo và đã được phê duyệt.
Trong những năm tiếp theo, huyện sẽ tiếp tục chỉnh lý hương ước của những làng còn lại nhằm rà soát lại nội dung, hình thức văn bản xã hội phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hoá xã hội, phong tục tập quán, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, trình độ phát triển dân trí của địa phương.
PHẦN 3: KẾT QUẢ XỬ LÝ THÔNG TIN THU THẬP ĐƯỢC
I. Cách thức xây dựng hương ước ở huyện An Dương
Qua các thông tin thu được ở trên, tôi nhận thấy ngoài các văn bản pháp luật điều chỉnh về việc xây dựng hương ước thống nhất trên cả nước, thành phố Hải Phòng nói chung và huyện An Dương nói riêng đã có sự quan tâm chỉ đạo, ra những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn vấn đề này phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Thủ tục soạn thảo, thông qua phê duyệt, tổ chức thực hiện và sửa đổi, bổ sung hương ước ở các làng thuộc huyện An Dương về cơ bản là giống với quy định của pháp luật. Các bản Hương ước đều được xây dựng một cách dân chủ, công khai, phù hợp với pháp luật, được chia theo các bước sau:
Bước 1: Thành lập các Nhóm soạn thảo và tổ chức soạn thảo hương ước.
Trưởng làng, trưởng Khu dân cư chủ trì cùng Bí thư chi bộ, Trưởng ban công tác Mặt trận thống nhất các nội dung cơ bản cần soạn thảo, đồng thời chỉ định các thành viên Nhóm soạn thảo…
Trưởng làng, trưởng khu dân cư chủ trì, phối hợp với Ban công tác Mặt trận, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng ở cơ sở chỉ đạo nhóm soạn thảo xây dựng hương ước. Các Dự thảo Hương ước của 30 làng trong đợt chỉnh sửa hương ước ở huyện An Dương năm 2009 được soạn thảo dựa theo bản mẫu mà Phòng Văn hoá Thông tin xây dựng.
Bước 2: Tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và nhân dân vào Dự thảo hương ước.
Dự thảo được gửi đến cơ quan chính quyền, cấp ủy, lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội ở cấp xã; một số làng còn gửi đến từng hộ gia đình để lấy ý kiến đóng góp. Cũng có một số làng tiến hành thảo luận ở các tổ chức đoàn thể ở thôn, làng, cụm dân cư, niêm yết, phát thanh trên đài truyền thanh, mở hộp thư để góp ý kiến. Hầu hết các Dự thảo đều được Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã thảo luận, tham gia ý kiến.
Bước 3: Thảo luận và thông qua hương ước.
Trên cơ sở những đóng góp, Nhóm soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo và gửi tới các thành phần sẽ được dự kiến mời tham gia Hội nghị thông qua hương ước. Hội nghị cử tri hoặc Hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, thôn, bản, ấp, cụm dân cư được tiến hành khi có ít nhất 2/3 tổng số thành phần cử tri hoặc đại diện hộ gia đình tham dự. Hương ước được thông qua khi có quá nửa số người tham dự tán thành. Hình thức biểu quyết do Hội nghị quyết định có thể bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu.
Hương ước chính thức thông qua trình phê duyệt có chữ ký của Trưởng thôn, Bí thư chi bộ, Trưởng ban công tác Mặt trận kèm theo biên bản Hội nghị thông qua hương ước.
Bước 4: Phê duyệt hương ước.
Sau khi hương ước được thông qua, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cùng Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã xem xét nội dung của hương ước bảo đảm phù hợp với pháp luật, thuần phong mỹ tục và trao đổi thống nhất với Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã về nội dung của hương ước trước khi trình lên cấp huyện phê duyệt.
Hương ước gửi lên Ủy ban nhân dân cấp huyện duyệt kèm công văn đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong đợt chỉnh lý hương ước ở huyện An Dương năm 2009, Phòng Văn hoá & Thông tin thay mặt Uỷ ban Nhân dân huyện nhận các bản hương ước từ các xã để xem xét. Sau đó, Phòng văn hoá & Thông tin đã gửi công văn cùng bản sao các dự thảo hương ước này cho Phòng Tư pháp (Công văn số 25/VH&TT ngày 02/12/2009) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của huyện An Dương (Công văn số 26/VH&TT ngày 02/12/2009) để đề nghị các cơ quan này cho ý kiến. Sau khi nhận được công văn trả lời của hai cơ quan trên (Công văn trả lời của Phòng Tư pháp là Công văn số 73/PTP ngày 04/12/2009), hương ước được trình lên cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt bằng một quyết định phê duyệt hương ước. Theo ý kiến của Phòng Văn hoá & Thông Tin và Phòng Tư pháp thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện An Dương đã ký quyết định phê duyệt hương ước cho 29/30 làng. Riêng Hương ước của làng Nhu Kiều – xã Quốc Tuấn chưa được phê duyệt ngay. Trường hợp này đã được Phòng Tư pháp chủ trì, phối hợp với Phòng Văn hóa & Thông tin hướng dẫn cơ sở chỉnh lý, hoàn thiện hương ước đó để trình lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã chuyển hương ước đã được phê duyệt để trưởng thôn tổ chức thực hiện; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội ở cơ sở chỉ đạo, đôn đốc thực hiện hương ước; kiểm tra, phát hiện và kịp thời chấn chỉnh những sai trái, lệch lạc, tiêu cực trong việc thực hiện hương ước; định kỳ báo cáo với Ủy ban nhân dân cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp việc thực hiện hương ước.
II. Nội dung của các Hương ước trên địa bàn huyện An Dương
Các Hương ước đều có 02 phần lớn:
Phần thứ I: đặc điểm, lịch sử truyền thống của làng. Ở phần này, đầu tiên nêu lên ngắn ngọn về đặc điểm, lịch sử truyền thống của làng. Tiếp theo là nêu lên những lợi ích của việc xay dựng hương ước, các căn cứ để xây dựng hương ước . Cuối cùng là thể hiện quyết tâm sẽ thực hiện tốt các nội dung được nêu ở phần thứ II của hương ước. Đây là phần có nhiều điểm khác biệt nhất giữa Hương ước của các làng vì mỗi làng có một lịch sử và truyền thống riêng.
Phần thứ II: Các quy định cụ thể của hương ước được chia thành các chương, mục, điều, khoản. Các hương ước của huyện An Dương đều tập chung vào các nội dung chính sau:
- Xây dựng đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển. Ở đây nêu lên các mục tiêu mà làng quyết tâm đạt được để phát triển kinh tế. Để bảo vệ sản xuất, phát triển kinh tế, làng cũng có quy định về các việc cụ thể mà dân làng không được làm.
- Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh phong phú: Các chỉ tiêu cụ thể về cơ sở vật chất phụ vụ cho các hoạt động văn hoá thông tin, thể dụ thể thao, giáo dục y tế của làng. Quy định về tổ chức việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội. Đưa ra chỉ tiêu về việc không có người mắc tệ nạn xã hội, tàng trữ và sử dụng văn hoá phẩm thuộc lại cấm lưu hành; tỷ lệ % số gia đình được công nhận là “Gia đình văn hoá”, 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến truờng, đạt phổ cập giáo dục trung học nghề, không có người mù chữ.
- Xây dựng môi trường cảnh quan sạch đẹp: Đường làng ngõ xóm phong quang sạch sẽ, thu gom và xử lý rác thải. Tỷ lệ % số hộ sử dụng nước sạch, có nhà tắm hố xí hợp vệ sinh. Mọi gia đình và cá nhân thực hiện tốt vệ sinh môi trường. Tôn tạo bảo vệ và phát huy các di tích lịch sử văn hoá, cảnh quan thiên nhiên của địa phương.
- Chấp hành tốt chủ Trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước: Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Thực hiện tốt chính sách về dân số, gia đình và bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Động viên thanh niên trong làng thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Có tinh thần đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng: Hoạt động hoà giải có hiệu quả, những mâu thuẫn bất hoà được giải quyết tại cộng đồng. Có phong trào giúp nhau làm kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa nhân đạo từ thiện.
- Xây dựng và hoạt động quỹ làng: Các nguồn xây dựng quỹ làng. Các khoản chi của quỹ làng. Quản lý quỹ làng (lập sổ sách theo dõi, bộ phận quản lý tài chính làng, nguyên tắc việc thu chi tài chính của làng)
- Tổ chức thực hiện: ban vận động xây dựng Làng văn hoá (cơ cấu, nhiệm vụ, trách nhiệm). Khen thưởng và xử lý vi phạm hương ước. Hiệu lực thực hiện.
PHẦN 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
I. Nhận xét về hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương
1. Những điểm đạt được
Hoạt động xây dựng hương ước của huyện An Dương đã được sự quan tâm rất lớn của các tổ chức, chính quyền, đoàn thể và nhân dân. Đến nay đã có 92/92 làng trên địa bàn huyện xây dựng được hương ước và trong số đó đã có 30 bản hương ước được tiến hành chỉnh sửa lần I.
Cách thức, trình tự xây dựng hương ước đúng với các quy định của pháp luật. Phòng Văn hoá & Thông tin phối hợp với Phòng Tư pháp huyện đã quan tâm, hướng dẫn cho địa phương thực hiện việc này một cách chi tiết. Phòng Văn hoá & Thông tin còn xây dựng bản mẫu hương ước để các làng dựa vào đó xây dựng hương ước một cách thống nhất.
Nội dung của các Hương ước về cơ bản đã đầy đủ, rõ ràng. Các Phần, Chương, Điều đã thể hiện khái quát được lịch sử truyền thống của Làng, Tổ dân phố văn hoá; xây dựng được các quy định quy phạm xã hội phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với phong tục tập quán, điều kiện kinh tế xã hội, trình độ dân trí ở từng địa phương và có tính khả thi.
2. Những điểm hạn chế
Bên cạnh những điểm đã đạt được nêu trên thì hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương vẫn còn có những hạn chế, khiếm khuyết, có thể kể ra đây những hạn chế sau:.
Nội dung hương ước còn sơ sài, lặp lại pháp luật và chủ trương chính sách của Nhà nước một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát thực với điều kiện và đặc điểm của từng làng, câu chữ trong văn bản còn nặng tính hô hào, khẩu hiệu. Ngoài ra, nội dung phần quy định của các bản hương ước phần lớn là giống nhau như đúc. Tình trạng đó khiến cho quy ước không trở thành hình ảnh "cầu tiến" riêng của từng làng; hương ước không còn mang bản sắc riêng biệt của từng làng, từng địa phương. Thiết nghĩ nếu hương ước của làng nào cũng giống nhau như vậy thì xây dựng hương ước của từng làng để làm gì cho tốn kém cả thời gian, công sức và tiền của trong khi chỉ cần xây dựng một bản chung thống nhất cho cả huyện rồi phân về từng làng để thực hiện.
Không ít làng dù đã có quy ước, hương ước, nhưng khi thực hiện thì được chăng hay chớ, mà điều dễ thấy nhất là trong việc cưới, việc tang. Một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng còn xảy ra ở làng, khu phố có quy ước nếp sống văn hóa. Ðiều đáng nói là cấp ủy, chính quyền cơ sở không có phản ứng gì. Còn ở một số làng thì rất nhiều người dân được hỏi đều không biết đến sự tồn tại của hương ước ở địa phương mình chứ đừng nói đến chuyện nhớ những quy định nêu trong hương ước. Có thực trạng trên trước hết là do khi soạn thảo hương ước làng chưa tổ chức lấy ý kiến một cách rộng rãi, chưa bàn bạc kỹ lưỡng trong nhân dân, toàn bộ quá trình xây dựng hương ước chỉ do một số ít người thực hiện nên việc người dân không biết đến hương ước là chuyện đương nhiên. Thứ hai là đến khi thực hiện thì chưa tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung hương ước cho người dân nắm được; cấp ủy, trưởng thôn, trưởng khu phố và các đoàn thể không làm tròn trách nhiệm, vai trò của mình. Một lý do nữa là một số nội dung của hương ước còn chưa thiết thực với thực tế. Nhớ lại những hương ước xưa, có tới hàng trăm khoản vậy mà bà con đời này qua đời khác vẫn nhập tâm. Lý do: nó thiết thực với thực tế, với bản sắc, với tâm lý của từng thôn ấp. Tất nhiên, làm quy ước bây giờ không nên khôi phục lối quá nhiều khoản như hương ước xưa bởi vì trình độ đã khác, không cần đến những "nội quy" quá tỉ mỷ; càng không có chuyện phạt những hiện tượng gì ngoài luật định.
Trong kế hoạch rà soát, chỉnh lý hương ước của huyện An Dương năm 2009 tôi nhận thấy hương ước của 30 làng được chọn chỉnh lý đều là các hương ước được xây dựng vào năm 2002 và 2003. Trong khi đó lại không tiến hành chính lý các hương ước được xây dựng từ trước đó khá lâu như: Làng Vân Tra – xã An Đồng (3/1997); làng Văn Phong – xã Đồng Thái (01/1997); làng Tri Yếu – xã Đặng Cương (3/1997)… Các hương ước này vì được xây dựng đã khá lâu nên nội dung đã có nhiều điểm không còn phù hợp với thực tế hiện tại, cần phải tiến hành chính lý ngay.
II. Đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hoạt động xây dựng hương ước tại huyện An Dương
Với những hạn chế nêu trên, tính thiết thực, tính khả thi và tính hiệu quả của hương ước ở nhiều làng chưa cao. Tôi xin đề xuất một số ý kiến để hoàn thiện hoạt động xây dựng hương tại huyện An Dương như sau:
Nội dung các hương ước của các làng cần phong phú hơn, thể hiện được bản sắc riêng của từng làng mà vẫn đảm bảo đúng với quy định của pháp luật. Muốn vậy thì Phòng Văn hoá & Thông tin cần hướng dẫn các làng cụ thể về cách thức trình bày, nội dung của hương ước nhưng không nên đưa ra một bản mẫu hương ước quá tỉ mỉ đến từng chương điều như đã làm. Vì như vậy, các làng đều dựa vào đó để xây dựng hương ước sẽ dập khuôn lại giống hệt nhau.
Nâng cao trình độ và trách nhiệm của cán bộ làng, xã. Phải phân công nhiệm vụ và trách nhiệm rõ ràng cho từng người ngay từ khâu tổ chức soạn thảo cho đến khi tổ chức thực hiện hương ước.
Trước khi tổ chức soạn thảo hương ước phải tìm hiểu rõ tình hình thực tế hiện tại của làng để có các quy định phù hợ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoạt động xây dựng hương ước ở huyện An Dương.doc