Chuyên đề Khái quát sự phát triển của các Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Lời cảm tạ ii

Lời cam đoan iii

Nhận xét của giáo viên hướng dẫn iv

Mục lục v

Danh mục biểu bảng vi

PHẦN GIỚI THIỆU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1

II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1

1. Mục tiêu chung 1

2. Mục tiêu cụ thể 2

III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 2

1. Phạm vi thời gian: 2

2. Phạm vi không gian: 2

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2

1. Phương pháp thu thập số liệu: 2

2. Phương pháp phân tích số liệu: 2

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VÀ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3

1.1. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. 3

1.2. ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP, HỢP TÁC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 4

1.2.1. Điều kiện thành lập, hợp tác. 4

1.2.2. Những lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 6

CHƯƠNG II SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 8

2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN. 8

2.2. CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. 11

2.3. NHỮNG LỢI THẾ VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI KHI VÀO NƯỚC TA. 13

2.3.1. Những lợi thế so với ngân hàng trong nước. 13

2.3.2. Khó khăn của các ngân hàng nước ngoài. 15

CHƯƠNG III TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 17

3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC. 17

3.2. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC. 18

CHƯƠNG IV MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHI CÓ SỰ THAM GIA

CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 20

4.1. ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 20

4.2. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. 22

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. KẾT LUẬN: 24

II. KIẾN NGHỊ: 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

DANH MỤC BIỂU BẢNG

Bảng 1: Sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 - 2007 8

Bảng 2: Tình hình hoạt động của các ngân hàng nước 10

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Khái quát sự phát triển của các Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong khi đó phần góp vốn của bên nước ngoài vào một tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh cần phải đạt ít nhất là 30% vốn điều lệ. Tổng mức cổ phần của các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể được giới hạn ở mức 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam, trừ khi được pháp luật Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ thực hiện góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác khi được ngân hàng mẹ ủy quyền và cấp vốn thực hiện việc góp vốn, mua cổ phần đó. Trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể yêu cầu chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản vào Ngân hàng Nhà nước hoặc một tổ chức tín dụng hay một tổ chức khác tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước chỉ định. 1.2.1. Những lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam có thể  được thực hiện một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ sau đây: 1. Nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; 2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, giấy tờ có giá; 3. Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước ; 4. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước; 5. Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; 6. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, giấy tờ có giá; 7. Bảo lãnh ngân hàng; 8. Kinh doanh ngoại hối; 9.Thực hiện dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân quỹ; 10. Mở tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; 11. Đại lý chi trả thẻ tín dụng; 12. Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ; 13. Thực hiện các dịch vụ uỷ thác và quản lý tài sản; 14. Thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ. Nội dung hoạt động cụ thể của từng Ngân hàng được quy định trong Giấy phép mở Ngân hàng.       Khi có nhu cầu và được Ngân hàng Nhà nước cho phép, Ngân hàng mới được phép thực hiện các nghiệp vụ khác phù hợp với pháp luật liên quan của Việt Nam. CHƯƠNG II SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước nhận định hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh có mức tăng trưởng ổn định. Chi nhánh các ngân hàng nước ngoài luôn đi tiên phong trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ hiện đại, các sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam. Nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có những chiến lược mở rộng và xây dựng mạng lưới khách hàng khá tốt và đa dạng. Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 06/2009 Số chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 28 30 35 38 38 Ngân hàng liên doanh 4 4 5 5 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 0 0 0 3 5 Tổng tài sản (tỷ VND) 135.000 200.000 215.000 275.000 325.000 Thu nhập trước thuế(tỷ VND) 1.400 1.700 2.400 1.418 1.447 Bảng 1: Sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 – 06/2009 Nguồn: Tổng hợp từ Năm 2005, tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt gần 135.000 tỷ VND (6,3 tỷ USD), tăng 25% so với cuối năm 2004. Thu nhập trước thuế của khối này đạt 1.400 tỷ VND tăng khoảng 45% so với năm trước. Năm 2006 tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt gần 200.000 tỷ VND tăng 48% so với năm 2005. Thu nhập trước thuế của khối chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh đạt 1.700 tỷ VND tăng khoảng 21% so với năm trước. Năm 2007, tại Việt Nam đã có 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 4 công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty tài chính có 100% vốn nước ngoài. Tổng tài sản khối ngân hàng nước ngoài lên tới trên 215.000 tỷ đồng, tăng khoảng 8% so với năm 2006, chiếm khoảng gần 18% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng ở Việt Nam, nhưng tăng tới hơn 60% so với cùng kỳ năm 2005. Tốc độ tăng trưởng đó chứng tỏ trong hai năm qua, các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chuyển số vốn rất lớn vào Việt Nam. Tổng thu nhập trước thuế của khối ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài đạt trên 2.400 tỷ đồng, tăng trên 41% so với năm 2006 và chiếm khoảng 18% tổng thu nhập trước thuế của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tính đến cuối năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được 19 hồ sơ xin cấp phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 bộ hồ sơ xin thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Trong số 19 hồ sơ xin thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thì có 3 hồ sơ đã được chấp thuận về nguyên tắc là Commonwealth Bank của Australia, IBK Hàn Quốc, Fubon của Đài Loan. Năm 2008, tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt 275.000 tỷ đồng tăng 37.5% so với năm trước đó. Trong năm 2008, tỷ lệ nợ xấu nói chung của cả khối ngân hàng ngoại tăng so với 31/12/2007 nhưng mức tăng không đáng kể. Về tổng thu nhập trước thuế, mặc dù có một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính bị lỗ nhưng lợi nhuận trước thuế của cả khối là 1.418 tỷ đồng. Kết quả trên cho thấy, mặc dù từ giữa năm 2008, khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ lan rộng sang các khu vực và những diễn biến không thuận lợi của kinh tế thế giới đã tác động đến kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng nhất định đến hệ thống các TCTD Việt Nam nhưng với những giải pháp tích cực, quyết liệt của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các TCTD Việt Nam nói chung và các TCTD nước ngoài tại Việt Nam nói riêng vẫn hoạt động an toàn với mức tăng trưởng khá, kinh doanh có lãi. Đến đầu năm 2009 có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã được thành lập là: Ngân hàng ANZ (Việt Nam), Ngân hàng Hong leong (Việt Nam), Ngân hàng Standard Chartered (Việt Nam), Ngân hàng HSBC (Việt Nam), Ngân hàng Shinhan (Việt Nam). Tính đến tháng 06/2009,  VN có 51 tổ chức tín dụng, trong đó có 5 NH 100% vốn nước ngoài, 38  chi nhánh NH nước ngoài, 4 Cty tài chính và 4 Cty cho thuê tài chính thuộc NH nước ngoài,  5 NH liên doanh với đối tác nước ngoài cùng 19 chi nhánh phụ thuộc đang hoạt động. Tổng tài sản của khối này đạt 325.000 tỷ đồng thu nhập trước thuế đạt 1.447 tỷ đồng. Nhìn chung thì 6 tháng đầu năm nay ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Bảng 2: Tình hình hoạt động của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 – 06/2009 Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 06/2009 Tổng dư nợ cho vay (tỷ VND) 49.000 60.000 85.500 152.952 131.559 Tỷ lệ nợ quá hạn(%) 0,25 0,38 0,99 0,53 0,24 Nguồn: Tổng hợp từ Đến cuối năm 2005, tổng dư nợ khối ngân hàng nước ngoài lên tới 49.000 tỷ VND; trong đó, tỷ lệ nợ quá hạn là 0,25%. Năm 2006, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, chiếm tới 14% thị phần, tăng 22% so với năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên đến 0,38%. Năm 2007, tổng dư nợ của các ngân hàng nước ngoài tăng hơn 40% so với năm ngoái, đạt mức 85.500 tỉ đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn của khối này lại tăng lên 0,99%. Tổng huy động vốn của các ngân hàng nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2007 ước đạt 145.000 tỉ đồng, tăng xấp xỉ 60% so cùng kỳ. Không chỉ quy mô dư nợ tăng nhanh mà thị phần cũng tăng ấn tượng các ngân hàng nước ngoài trước đây thường chỉ chiếm 12 - 13% thì đến hết năm 2007 chiếm 15,85%. Các ngân hàng liên doanh chiếm 2,48%. Với các chuẩn mực quản trị rủi ro hiện đại, hoạt động của các NH nước ngoài tại VN có chất lượng hoạt động khá tốt. Tỉ lệ nợ xấu trong hoạt động tín dụng luôn ở mức thấp. Năm 2008, tỉ lệ nợ quá hạn của khối này chỉ chiếm 0,53% (tỉ lệ chung toàn hệ thống là 2,92%). Tổng dư nợ tăng hơn 70% so với năm trước đạt 152.952 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2009 tổng dư nợ đã đạt 131.559 tỷ đồng và tỷ lệ nợ quá hạn là 0.24%. Ngoài hoạt động cho vay và đầu tư, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn chiếm thị phần khá lớn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán, bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, các luồng chu chuyển vốn quốc tế, thanh toán quốc tế và lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng, nhiều chuyên gia tài chính cho rằng sẽ có một cuộc đổ bộ của các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. Theo nhiều chuyên gia tài chính, ngân hàng, các tập đoàn ngân hàng, tài chính nước ngoài có thể “đổ bộ” vào Việt Nam để kinh doanh bằng ba cách: một là, nhanh chóng thiết lập và phát triển mạnh mẽ các chi nhánh; hai là, thành lập ngân hàng 100% vốn, bắt đầu từ ngày 1/4/2007 (theo cam kết WTO); ba là, tính toán phương án để từng bước “thôn tính” các ngân hàng vừa và nhỏ của Việt Nam hiện có bằng cách mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Phương án mở chi nhánh thì khá tốn kém (đòi hỏi vốn điều lệ tối thiểu 15 triệu USD) và vẫn bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi và cho vay. Còn việc thành lập ngân hàng 100% vốn thì các ngân hàng nước ngoài còn ngần ngại khi mà chưa hiểu rõ con người Việt Nam cũng như tập quán, thói quen sinh hoạt. Cách thứ 3 sẽ được các tập đoàn tài chính quốc tế đặc biệt quan tâm. Các tập đoàn này sẽ tập trung vào các ngân hàng thương mại cổ phần – nơi họ cho rằng, cơ chế về quản trị doanh nghiệp tốt hơn. Đây có thể là cách đi “khôn ngoan”, lợi dụng nền tảng hiện có của ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là nền tảng về chi nhánh, nhân lực, văn hoá để họ có thể nhanh chóng có được lợi nhuận. Cách “thôn tính” dần dần của các tập đoàn tài chính quốc tế cũng sẽ rất khác so với thời điểm cách đây 1, 2 năm. Bây giờ, nếu mua cổ phần của các ngân hàng hiện có thì tương đối đắt. Chính vì thế, phương án tối ưu mà các tập đoàn tài chính lựa chọn sẽ là tìm cách đầu tư vào một trong những ngân hàng Việt Nam mới đi vào hoạt động, qua đó có thể mua ngay được cổ phần với giá rẻ. Dựa vào uy tín thương hiệu của tập đoàn tài chính quốc tế, ngân hàng này cũng sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai gần, và giá của nó sẽ nhanh chóng tăng lên trong vòng một vài năm, như vậy, các nhà đầu tư tài chính quốc tế sẽ có lợi nhuận rất lớn. Các ngân hàng nước ngoài đang tăng cường sự hiện diện tại Việt Nam thông qua việc tăng mua cổ phần của các ngân hàng trong nước, tận dụng cơ hội giá cổ phiếu đang sụt giảm. Những ngân hàng đã ký hợp đồng mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam đang ráo riết tranh thủ thời điểm này để nâng tỷ lệ sở hữu lên mức kịch trần theo quy định của Chính phủ là 15%. Mới đây nhất, ngày 14/5/2008, lãnh đạo cao cấp của OCBC - Tập đoàn tài chính lớn thứ 3 tại Xinggapo và lãnh đạo Ngân hàng thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank) đã tiến hành hoàn tất thủ tục trình Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của OCBC tại VP Bank lên mức 15%. Điều đáng chú ý là giá bán cổ phần được hai bên thoả thuận ở mức cao gấp 4,5 lần mệnh giá (45.000 đồng/cổ phiếu), bất chấp thị trường chứng khoán nói chung và cổ phiếu ngân hàng nói riêng đang biến động mạnh theo xu hướng sụt giảm. Hơn thế, bên cạnh việc mua cổ phần với mức giá cao như vậy, OCBC còn hỗ trợ VP Bank về nghiệp vụ, công nghệ và đào tạo nhân viên. Trước đó, Standard Chartered Bank (Anh) - đối tác chiến lược của Ngân hàng Á Châu (ACB) đã mua thêm cổ phần của ACB từ Công ty tài chính quốc tế. Theo đó, khi hoàn tất, vốn sở hữu của Standard Chartered Bank tại ACB sẽ tăng lên 15% cổ phần và 15,86% trái phiếu chuyển đổi. Trong tháng 3, Tập đoàn tài chính Maybank (Malaixia) và Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình (ABBank) đã chính thức ký kết hợp tác chiến lược. Theo đó, Maybank mua 15% vốn điều lệ (tương đương 2.138 tỷ đồng) để trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài của ABBank với giá gấp 5 lần mệnh giá. Trước nữa, Tập đoàn Ngân hàng Hồng Công Thượng Hải (HSBC) cũng đã nâng tỷ lệ sở hữu tại đối tác chiến lược trong nước là Ngân hàng cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcom bank) từ 10% lên 15%, với tổng giá trị ước tính trên 539 tỷ đồng. Trong khi đó, Ngân hàng Phương Đông (OCB) và Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) cho hay, hai đối tác chiến lược của họ là BNP Paribas (Pháp) và UOB (Xinggapo) cùng đang mong muốn nhanh chóng được nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần lên 15%. Những diễn biến trên cho thấy, sau thời gian hoạt động khá hiệu quả tại thị trường Việt Nam, các tập đoàn tài chính nước ngoài đang ngày càng quan tâm và coi đây là lĩnh vực hợp tác kinh doanh nhiều tiềm năng. Đây là những tính toán về chiến lược của nhiều tập đoàn tài chính quốc tế và với những tính toán như thế, chắc chắn, các ngân hàng thương mại trong nước có những phương án cạnh tranh hợp lý. Hoạt động mua lại và sáp nhập (Merging & Acquisition) sẽ là một lĩnh vực phát triển với tốc độ nhanh trong bối cảnh tự do hóa hoạt động ngân hàng theo các cam kết với WTO. Các chuyên gia ngân hàng nước ngoài dự đoán trong vòng từ năm đến bảy năm nữa, ở Việt Nam sẽ chỉ còn một nửa số ngân hàng so với hiện nay. 2.3. NHỮNG LỢI THẾ VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI KHI VÀO NƯỚC TA. 2.3.1. Những lợi thế so với ngân hàng trong nước. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải gỡ bỏ dần các hạn chế rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài. Hầu hết các lĩnh vực đều mở toang. Các ngân hàng nước ngoài được triển khai những nghiệp vụ quan trọng mà ngân hàng trong nước đang và có ý định thực hiện, họ được phép đối xử bình đẳng như các nhà băng trong nước, chỉ trừ một số quy định về quy mô tài chính và việc mở chi nhánh. Theo cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, các ngân hàng Mỹ sẽ được thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài, nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam không giới hạn từ các pháp nhân Việt Nam, đồng thời được phép phát hành thẻ tín dụng không giới hạn. Ngoài ra, 5 năm sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ dỡ bỏ mức trần huy động vốn VND, miễn sao việc huy động đó vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Trong quá trình hội nhập, các NHTM Việt Nam có ưu thế cơ bản về số lượng ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, thị phần hoạt động và khách hàng trong nước. Tuy nhiên, xuất phát điểm và trình độ phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam còn thấp. Năng lực tài chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu, vốn tự có rất thấp, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Các NHTM Việt Nam cũng kém ưu thế về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản. Trong khi đối với các ngân hàng nước ngoài đó lại là những ưu thế. Ở các dịch vụ truyền thống như huy động tiền gửi, cho vay... ngân hàng trong nước có lợi thế là người đến trước, mạng lưới hoạt động rộng khắp và am hiểu tâm lý khách hàng bản địa. Tuy nhiên, những lợi thế này cũng có thể mất đi, khi các ngân hàng nước ngoài hoà nhập vào thị trường, sẵn sàng giảm giá dịch vụ. Hoạt động của ngân hàng trong nước chủ yếu vẫn là tín dụng còn các ngân hàng nước ngoài lại rất mạnh về dịch vụ (chiếm tới trên 40% tổng thu nhập) thì tình trạng “độc canh” tín dụng vẫn còn phổ biến ở hầu hết các ngân hàng Việt Nam. Việc các doanh nghiệp trong nước chuyển qua giao dịch với các ngân hàng nước ngoài ngày càng nhiều đang là lời cảnh báo cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng nước ngoài cũng có ưu thế và kinh nghiệm trong giao dịch thanh toán và chuyển tiền, cả về loại hình và chất lượng dịch vụ. Các ngân hàng Việt Nam có phạm vi hoạt động trùng với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án... sẽ gặp khó khăn lớn. Ngoài ra, hàng loạt nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam như môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh có thể bị các ngân hàng nước ngoài chiếm lĩnh bởi vì họ đã đi trước rất nhiều năm, có bề dày kinh nghiệm và đã gặt hái thành công. Các ngân hàng trong nước mới học theo nhưng khó đuổi kịp, bởi đây là những nghiệp vụ rủi ro cao. Khi ngân hàng nước ngoài vào mở chi nhánh tại Việt Nam, khách hàng có thể thích giao dịch với ngân hàng nước ngoài hơn ngân hàng Việt Nam do tâm lý “vọng ngoại”. Hơn nữa, vì ấn tượng bề ngoài của các ngân hàng nước ngoài như uy tín, như trụ sở, trang bị, sắc phục và trên hết là sự phục vụ của nhân viên từ khâu tiếp tân vui vẻ, lắng nghe chăm sóc khách hàng đến khâu nghiệp vụ, giải quyết nhanh, gọn, lẹ. Đây cũng là cơ hội để các ngân hàng ngoại khuếch trương thanh thế và lấn chiếm thị phần. Kết qủa một cuộc điều tra của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc được thực hiện vào cuối năm 2005 cho biết: có 45% khách hàng (là doanh nghiệp và cá nhân) sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài thay vì của ngân hàng trong nước; 50% chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, và 50% còn lại chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ... Các công ty đa quốc gia thường rất thích làm việc với các ngân hàng có uy tín quốc tế và đó chính là lợi thế của các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, các ngân hàng trong nước rất khó tiếp cận được với họ. Với công nghệ thông tin hiện đại, các ngân hàng con sẽ nhanh chóng đón đầu được làn sóng và xu hướng chuyển đổi thói quen sử dụng không dùng tiền mặt của người tiêu dùng Việt Nam trong vòng 2 - 3 năm tới. Nhưng trên thực tế, các loại thẻ do ngân hàng trong nước phát hành, người tiêu dùng chỉ sử dụng vào mục đích rút tiền mặt. Trong khi đó, chiến lược của nhân hàng nước ngoài là đem đến sự thuận tiện cho người sử dụng thẻ bằng cách thay thế việc thanh toán bằng tiền mặt. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài lại đi trước trong khâu đơn giản hóa thủ tục, họ luôn tạo ra sự nhanh nhạy trong cho vay vốn, vì họ có sự quản trị rủi ro tốt như chấp nhận cho vay tín chấp lến đến 200 triệu đồng; cho doanh nghiệp tại các Khu Chế Xuất, Khu Công Nghiệp vay căn cứ theo năng lực tài chính, tình hình kinh doanh… mà không cần thế chấp bất động sản. Một khi đã hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài, họ được coi như một pháp nhân Việt Nam. Với 3 lợi thế lớn là công nghệ, vốn và quản trị, các ngân hàng nước ngoài thừa khả năng cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn, quản lý rủi ro tốt hơn. Đây là thách thức không nhỏ với các ngân hàng trong nước. 2.3.2. Khó khăn của các ngân hàng nước ngoài. Dù chấp nhận mở cửa ở hầu hết các phân ngành dịch vụ ngân hàng, song phía Việt Nam đã thắng lợi khi cài thêm được một số yêu cầu mang tính kỹ thuật. Chẳng hạn, muốn lập một ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản tối thiểu 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Nếu muốn mở chi nhánh, ngân hàng mẹ phải có tài sản trên 20 tỷ USD. Chưa hết, yêu cầu về vốn đối với mỗi chi nhánh là 15 triệu USD. Và khi đã thành lập chi nhánh, họ sẽ không được mở thêm các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh. Với những yêu cầu này, các ngân hàng ngoại sẽ gặp khó nếu muốn mở rộng hoạt động. Việt Nam cũng kiên quyết giữ quyền hạn chế sự tham gia mua cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong ngân hàng nội địa. Tổng số cổ phần mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong mỗi ngân hàng cổ phần của Việt Nam không vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng. Và ngay cả khi ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên sàn, hạn mức đó vẫn giữ nguyên. Một điểm mà đại diện Việt Nam nhấn mạnh là một chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch, các điểm giao dịch hoạt động phụ thuộc vào vốn của chi nhánh. Các ngân hàng nước ngoài sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn nếu họ có ý định cung cấp dịch vụ trong các phân khúc thị trường nhắm vào các công ty và cá nhân người Việt Nam. Lý do vì đây là những phân khúc mà họ không biết tường tận lắm. Nhưng đây cũng lại là những phân khúc có nhiều cơ hội kinh doanh nhất.  Để khai thác hiệu quả những phân khúc này, các nhà quản lý ngân hàng nước ngoài cần phải nắm vững về văn hóa và những thông lệ kinh doanh ở Việt Nam, điều mà không phải một sớm một chiều họ có thể làm được. Ngoài ra, do bị hạn chế trong việc mở mạng lưới chi nhánh huy động vốn tiền đồng các ngân hàng nước ngoài buộc phải trông chờ vào một ngày nào đó tiền đồng được tự do chuyển đổi và/hoặc tham gia vào thị trường liên ngân hàng để huy động cho đủ vốn tiền đồng đáp ứng các nhu cầu kinh doanh ở phân khúc thị trường nói trên. Nói ngắn gọn, thì để phát huy được sở trường về vốn, công nghệ, và quản lý để giành thị phần, các ngân hàng nước ngoài cần có những điều kiện tiên quyết là: (i) tiền đồng được tự do chuyển đổi; (ii) một thị trường liên ngân hàng cho tiền đồng hoạt động sôi động và hữu hiệu; (iii) lãi suất tự do hóa hoàn toàn. Thực tế, cả ba điều kiện này ở nước ta xem ra còn rất lâu mới có thể thành hiện thực.  Một khó khăn nữa đối với ngân hàng nước ngoài đó là chướng ngại văn hóa, phát sinh từ việc phần đông người Việt không sử dụng ngân hàng và nhiều người không tin tưởng các ngân hàng. Thay vào đó, họ giữ tiền trong nhà và đặt niềm tin vào các hệ thống cho vay không chính thức qua thân nhân và bè bạn. CHƯƠNG III TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC. Các ngân hàng Việt Nam được tham gia vào một “sân chơi” kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là sau năm 2010. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ ngày càng giảm và sự bảo hộ sẽ không còn nữa. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam sự năng động trong hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để kinh doanh hiệu quả. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình độ của mình. Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội để học hỏi kinh nghiệm, phương pháp đào tạo nhân lực, trình độ công nghệ, quản lý từ các ngân hàng nước ngoài thường được đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành. Các tổ chức này một mặt là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng trong nước nhưng lại là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng hiện đại, những thông lệ tốt nhất và là nguồn tài chính bổ sung cho thị trường tiềm năng của Việt Nam và là cầu nối cho các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường và các doanh nghiệp Việt Nam. Sự cọ xát trong hoạt động kinh doanh cũng là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới. Hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy hoạt động của những ngân hàng trong nước có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng phát triển, minh bạch và rõ ràng hơn. Với những ưu thế về kinh nghiệm và tập quán kinh doanh hiện đại, các nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào công tác quản trị những ưu thế kinh doanh nổi trội. Nhờ đó, các ngân hàng trong nước tự hoàn thiện mình trong công tác chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ trong mỗi sản phẩm tài chính đưa ra công chúng. Sự có mặt của những ngân hàng lớn của nước ngoài đã góp phần thay đổi diện mạo của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, từ đó củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, thể hiện qua giá cổ phiếu của những ngân hàng thương mại cổ phần tăng với tốc độ chóng mặt trong suốt thời gian qua. 3.2. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC. Khi ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam, ngân hàng trong nước sẽ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt vì ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính lớn, cũng như kinh nghiệm kinh doanh, sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài khiến hệ thống ngân hàng trong nước phải đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ (hiện chiếm 90% thị phần) và những rủi ro thị trường về giá, tỷ giá, lãi suất có thể bắt nguồn từ sự lan truyền các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và thế giới. Không chỉ có vậy, công nghệ của các ngân hàng Việt Nam cũng lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã và đang dần được cải tiến, nhưng công nghệ ngân hàng Việt Nam vẫn còn kém. Các ngân hàng nước ngoài thường mạnh về vốn, công nghệ tiến tiến, sản phẩm dịch vụ đa dạng trong khi đó ngân hàng chúng ta trình độ quản trị còn nhiều bất cập, tiềm lực vốn nhỏ bé, sản phẩm dịch vụ đơn điệu, các ngân hàng thương mại quốc tế đang thực hiện khoảng 6.000 nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngân hàng, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam mới chỉ thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ và mới cung cấp các dịch vụ mang tính chất truyền thống, còn các dịch vụ hiện đại như ngân hàng điện tử, môi giới kinh doanh, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, tư vấn... thì mức độ sử dụng vẫn còn mới hoặc hạn chế. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng Việt Nam bắt buộc phải nâng cao tính cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần. Để thực hiện được điều đó, các ngân hàng Việt Nam phải tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng công nghệ cao... Tất cả các vấn đề đó làm cho mức độ rủi ro tăng cao. Các rủi ro không chỉ nảy sinh từ các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhái quát sự phát triển của các Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010.doc
Tài liệu liên quan