MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 3
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 3
1. Khái niệm thì trường chứng khoán 3
2. Chức năng của thị trường chứng khoán và phân loại thị trường 5
2.1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán 5
2.2. Phân loại thị trường 5
2.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn 5
2.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 5
2.2.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường 6
3. Hàng hóa của thị trường chứng khoán 7
3.1. Cổ phiếu 7
3.2. Trái phiếu 7
3.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư 8
3.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi 8
3.5. Các loại chứng khoán phái sinh 8
4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 9
4.1. Nhà phát hành 9
4.2. Nhà đầu tư 9
4.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 9
4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 10
5. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản 10
5.1. Nguyên tắc công khai 10
5.2. Nguyên tắc trung gian 10
5.3. Nguyên tắc đấu giá 10
II. Phân tích chứng khoán 11
1. Phân tích vĩ mô và thị trường chứng khoán 11
1.1. Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật 11
1.2. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô 11
1.3. Dự đoán tình hình kinh tế và xu hướng thị trường 13
2. Phân tích ngành. 14
3. Phân tích công ty 14
3.1. Phân tích báo cáo tài chính công ty 14
3.1.1. Báo cáo tài chính 14
3.1.2. Hệ số tài chính 15
3.2. Phân tích rủi ro 15
3.2.1 Rủi ro kinh doanh 15
3.2.2 Rủi ro tài chính 16
3.3. Phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng của công ty 16
3.3.1. Tầm quan trọng của việc phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng 16
3.3.2. Các nhân tố quyết định tăng trưởng 17
III. Lý thuyết về lập và quản lý danh mục đầu tư 18
1. Lý thuyết về danh mục đầu tư 18
1.1. Khái niệm 18
1.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán 18
2. Đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư 20
2.1. Xác định tài sản đầu tư 20
2.2. Quyết định quy mô đầu tư 22
2.3. Quản lý danh mục đầu tư 23
2.4. Sự cần thiết của đầu tư chứng khoán theo danh mục 24
2.4.1. Đối với nhà đầu tư cá nhân 24
2.4.2. Đối với nhà đầu tư là các tổ chức kinh doanh chứng khoán 25
3. Các lý thuyết về xác định danh mục đầu tư 26
3.1. Các lý thuyết cơ bản áp dụng trong việc xác định danh mục đầu tư 26
3.1.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả - EMH (Efficient Market Hypothesis) 26
3.1.2. Rủi ro của nhà đầu tư, rủi ro của danh mục đầu tư và phân tán rủi ro trong đa dạng hóa danh mục đầu tư 27
3.1.3. Nguyên lý đa dạng hóa danh mục đầu tư 29
3.2. Các mô hình xác định danh mục đầu tư 31
3.2.1. Lý thuyết cơ bản xác định danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz 31
3.2.1.1. Xác định biên hiệu quả 33
3.2.1.2. Biên hiệu quả 34
3.2.2. Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) 36
3.2.2.1. Những giả thuyết kinh tế cho thị trường vốn 37
3.2.2.2. Danh mục thị trường ( Market Porfolio) 38
3.2.2.3. Mô hình CAPM 39
3.2.3. Mô hình chỉ số đơn ( mô hình chỉ số thị trường) – SIM 44
3.2.3.1.Các giả thuyết của mô hình chỉ số đơn 45
3.2.3.2. Mô hình SIM 46
3.2.3.3. Đánh giá hiệu quả thực thi danh mục đầu tư 48
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔN TY TRONG DANH MỤC ĐỀ RA 52
I. Một số hệ số tài chính dùng trong phân tích chứng khoán 52
1.1. Nhóm hệ số khả năng thanh toán 54
1.2. Nhóm hệ số hoạt động 55
1.3. Nhóm hệ số nợ của công ty 55
1.4. Chỉ số P/E 56
1.5. Chỉ số EPS 57
1.6. Chỉ số thu nhập 58
II.Tính toán các chỉ tiêu tài chính của các công ty 59
1. Giới thiệu về thị trường cổ phiếu ngành bất động sản 59
2. Chỉ số tài chính của các công ty trong danh mục 61
CHƯƠNG 3. XÁC ĐỊNH DANH MỤC TỐI ƯU CỦA CỔ PHIẾU NGÀNH BẤT ĐỘNG SẢN 67
KẾT LUẬN 73
83 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n được. Do đó, mỗi nhà đầu tư khác nhau sẽ có một mức e ngại rủi ro khác nhau, tương ứng với các mức lợi nhuận kỳ vọng.
a. Mức e ngại rủi ro và hàm hữu dụng của nhà đầu tư
Trên thực tế, mỗi nhà đầu tư đều có mức độ e ngại rủi ro khác nhau. Các nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh được các mức độ e ngại của từng nhà đầu tư có thể lượng hóa được. Đó là hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư. Để xác định được các dạng hàm hữu dụng này, các nhà phân tích phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu đối với từng nhà đầu tư. Với các số liệu thống kê được, các nhà phân tích ước lượng được các hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư.
Các nhà phân tích tài chính đưa ra công thức thể hiện mối tương quan giữa mức độ rủi ro, lợi suất kỳ vọng và hàm hữu dụng của nhà đầu tư. Giá trị của hàm hữu dụng tăng lên khi lợi suất kỳ vọng của nhà đầu tư tăng lên, đồng thời mức độ rủi ro tăng làm cho giá trị của hàm hữu dụng giảm. Khi nhà đầu tư tiến hành lựa chọn đầu tư, sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào có cặp lợi nhuận và rủi ro đem lại giá trị của hàm hữu dùng lớn nhất.
Để ý rằng, trong phương trình hàm hữu dụng trên, đối với các danh mục đầu tư không có rủi ro thì khi đó, giá trị của hàm hữu dụng chính là giá trị của lợi suất kỳ vọng (hay ước tính) của nhà đầu tư: U = E ( r )
Trong phân tích để tiến hành đầu tư, giá trị của hàm hữu dụng của danh mục đầu tư còn gọi là tỷ lệ tương đương chắc chắn (kí hiệu là CE) của danh mục đầu tư.
Tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư là mức tỷ suất lợi nhuận đạt được chắc chắn của một danh mục đầu tư không rủi ro được nhà đầu tư chấp nhận và được xem xét là có mức độ hấp dẫn tương đương với danh mục đầu tư có rủi ro.
Trên thực tế, đối với các nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro thì họ lựa chọn quyết định đầu tư dựa trên cơ sở là mức độ lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt bất cứ mức độ rủi ro như thế nào. Nhưng đa số các nhà đầu tư trên thị trường là e ngại rủi ro. Do đó, việc xác định danh mục đầu tư đối với các nhà phân tích là dựa theo quy luật số đông, tức là lập danh mục đầu tư đối với các nhà đầu tư e ngại rủi ro.
b. Lợi suất và rủi ro của danh mục đầu tư
Lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân gia quyền (theo tỷ trọng của từng loại tài sản) của lợi suất thu được từ mỗi chứng khoán trong danh mục đầu tư. Hay nói cách khác, lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân có trọng số của các tài sản có trong danh mục đó.
E(rp) = W1 E(r1) + W2 E(r2) +.+ Wn E(rn)
với danh mục có n tài sản.
Rủi ro của danh mục đầu tư là khả năng biến động trong tương lai của lợi nhuận thu được từ danh mục đầu tư.
3.1.3. Nguyên lý đa dạng hóa danh mục đầu tư
Quá trình phân tán và tối thiểu hóa rủi ro là một hình thức đa dạng hóa. Theo đó, các nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau để tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng mức rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giới hạn ở mức nhỏ nhất. Nghĩa là “không nên bỏ trứng vào một giỏ”.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa doanh lợi và rủi ro, chúng ta đã chỉ ra rằng mỗi một loại chứng khoán đều tiểm ẩn hai loại rủi ro là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường gây ra và ảnh hưởng đến tất cả các chứng khoán trên thị trường. Do vậy, rủi ro hệ thống là rủi ro không thể tránh được bằng hình thức đa dạng hóa. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro bắt nguồn từ chính tổ chức phát hành. Do đó, có thể hạn chế được bằng cách đa dạng hóa đầu tư. Điều này là do nguyên lý khi hai hay nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư, các chứng khoán này sẽ tương tác với nhau tạo thành một kết quả chung cho cả danh mục. độ rủi ro là cao hay thấp là phụ thuộc vào mối tương tác của các chứng khoán với các chứng khoán khác trong danh mục.
Như vậy, rủi ro có hệ thống là một trong những yếu tố quyết định mức doanh lợi dự kiến của một tài sản, vì thế chúng ta cần biết cách thức đo mức độ rủi ro có hệ thống cho các khoản đầu tư khác nhau. Thước đo mà chúng ta sẽ sử dụng là hệ số Bêta (β). Đây là lý do vì sao khi phân tích rủi ro của từng cổ phiếu riêng lẻ để đưa vào danh mục đầu tư, nhà đầu tư cần phải quan tâm nhiều tới rủi ro hệ thống.
Hệ số β cho ta biết mức độ rủi ro có hệ thống của một loại tài sản là bao nhiêu. Theo định nghĩa này, một tài sản nào đó có β = 0,5 nghĩa là: mức độ rủi ro có hệ thống của tài sản này bằng một nửa so với mức rủi ro trung bình của một tài sản. Cách xác định rủi ro hệ thống được xác định dựa vào mô hình CAPM.
Số lượng chứng khoán
Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro hệ thống
Rủi ro tổng thể
Đồ thị trên thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chứng khoán trong danh mục và rủi ro của danh mục. tổng rủi ro của danh mục bằng tổng của rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Mối quan hệ này là ngược chiều nhau. Khi số lượng chứng khoán càng nhiều thì rủi ro phi hệ thống của danh mục càng nhỏ, kéo theo rủi ro của danh mục càng nhỏ. Rủi ro này sẽ có rủi ro bằng với rủi ro của thị trường. Vì vậy, đa dạng hóa giúp giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên các danh mục vẫn phải chịu một mức rủi ro tiềm ẩn đó là rủi ro hệ thống.
3.2. Các mô hình xác định danh mục đầu tư
3.2.1. Lý thuyết cơ bản xác định danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz
Thực tế, các nhà đầu tư luôn quan tâm là nên đầu tư như thế nào để danh mục đầu tư được đa dạng hóa. Để làm được những điều đó, các nhà đầu tư cấn phải xác định đuợc mối quan hệ giữa giá và lợi suất của tài sản có trong danh muc đầu tư cũng như bản chất của từng tài sản.
Trên nguyên tắc cân bằng cung cầu trên thị trường để phân tích và định giá tài sản, Harry Markowitz mới đưa ra một mô hình chính thức trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, trong đó phản ánh nguyên tắc về đa dạng hóa rủi ro, từ đó mở đường để ông nhận giải Nobel về kinh tế vào năm 1990. Mô hình của ông chính là bước đi đầu tiên của quản lý danh mục đầu tư: xác định một hệ thống các danh mục đầu tư hiệu quả, tập hợp các danh mục này sẽ có một đường cong biên hiệu quả các danh mục chứng khoán rủi ro, thường được gọi là đường cong biên hiệu quả.
Danh mục P có N tài sản với tỷ trọng :
Véc tơ lợi suất các tài sản:
Lợi suất danh mục :
Với V là ma trận covarian của danh mục P
(quy ước : R,V,W,là vectơ cột; R’,V’,W’,là vectơ hàng )
Phương sai của danh mục:
Bản chất của việc xác các danh mục đầu tư hiệu quả là: tại mỗi mức rủi ro nhất định, chỉ quan tâm đến các danh mục có lợi tức lớn nhất. Hoặc ngược lại, danh mục nhà đầu tư quan tâm là danh mục có mức rủi ro thấp nhất đối với mỗi mức lợi tức dự tính. Trên thực tế hai phương pháp xác định này đều cho kết quả như nhau.
Để định lượng mức độ biến thiên của chứng khoán trong danh mục đầu tư được đa dạng hóa, ta dùng công thức tính hệ số tương quan ( correlation coefficient, ký hiệu là ):
Công thức cho hai cặp chứng khoán:
: mối tương quan âm tuyệt đối
: mối tương quan dương tuyệt đối
Công thức cho cả danh mục đầu tư :
Hệ số tương quan của cả danh mục P dương thể hiện lợi nhuận của các chứng khoán có trong danh mục có quan hệ cùng chiều nhau, và hệ số tương quan dương càng lớn thì các chứng khoán đó càng có dao động giống nhau. nghĩa là các chứng khoán trong danh mục hoàn toàn có dao động giống nhau.
Hệ số tương quan âm chỉ sự dao động ngược chiều của các chứng khoán trong danh mục. càng lớn nghĩa là các chứng khoán trong danh mục có dao động ngược chiều nhau càng nhiều. Khi nó đạt giá trị -1, các chứng khoán trong danh mục quan hệ hoàn toàn ngược chiều nhau.
Khi thì các chứng khoán trong danh mục P là không có tương quan với nhau.
Để giảm rủi ro của danh mục, các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục bằng cách tăng đầu tư vào các tài sản có hiệp phương sai thấp và giảm đầu tư vào tài sản có hiệp phương sai cao.
Nếu hệ số tương quan của các chứng khoán trong danh mục đầu tư ( hay tương quan của danh mục đầu tư) nhỏ hơn 1 thì danh mục đầu tư sẽ đạt hiệu quả đa dạng hóa. Sự phân biệt giữa đường thẳng và đường cong trên đồ thị chính là hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư trong danh mục. Khi hai tài sản có dao động hoàn toàn giống nhau, các danh mục gồm hai tài sản này không có hiệu quả đa dạng hóa mà chỉ đơn thuần là sự phân bổ vốn giữa các tài sản có rủi ro giống nhau.
Người đầu tư càng có mức ngại rủi ro cao thì sẽ càng có xu hướng chọn các danh mục có rủi ro thấp. tức là lựa chọn danh mục nằm gần MVP- danh mục có phương sai hay độ lệch chuẩn nhỏ nhất.
3.2.1.1. Xác định biên hiệu quả
Khi nhà đầu tư mong muốn đạt được mức lợi nhuận mong đợi ở mức rủi ro thấp nhất. Khi đó nhà đầu tư quyết định đầu tư tại danh mục MVP.
MVP
P
B/A
1/A
σp2
E(rp)
S
Trong đó:
A = [1]’.V-1. [1]
B = [1]’.V-1. [E(R)] Với [E(R)] là ma trận lợi suất trung bình của các tài sản trong danh mục.
Tìm danh mục MVP : giải hệ phương trình tuyến tính:
V.x = [1]
Ta được nghiệm của hệ là:
Đặt : ()
=> danh mục cần tìm là :
Đoạn cong từ S đến MVP chỉ ra rằng nếu ta càng thêm tỷ trọng của tài sản rủi ro vào danh mục thì lợi suất ước tính của danh mục sẽ tăng thêm trong khi độ lệch chuẩn giảm đi. Điều này được giải thích bởi hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư. Lợi nhuận của hai tài sản có mối quan hệ ngược chiều nhau nên khi thêm một tỷ lệ nhỏ tài sản rủi ro vào danh mục là tạo ra rào chắn rủi ro cho danh mục.
3.2.1.2. Biên hiệu quả
Có thể thấy rằng không người đầu tư nào muốn đầu tư vào danh mục nằm trong đoạn S đến MVP vì rõ ràng các danh mục từ MVP trở lên chiếm ưu thế hơn. Ta gọi đoạn cong từ MVP trở lên là đường cong hiệu quả (efficient set) hay còn gọi là biên hiệu quả hay biên hiệu dụng của danh mục đầu tư gồm tài sản rủi ro.
Hiệu quả của đa dạng hóa danh mục thể hiện qua độ cong của đường hiệu quả. Độ cong càng tăng khi hệ số tương quan càng giảm. Đường hiệu quả cong nhất khi hệ số tương quan bằng -1.
Trên thực tế, hầu hết các cặp chứng khoán có hệ số tương quan dương, nghĩa là chúng dao động cùng chiều với nhau. Các danh mục đầu tư được chọn do chủ quan của từng người đầu tư, mỗi người có cách suy nghĩ khác nhau, cách lựa chọn khác nhau và có độ e ngại rủi ro khác nhau.
Chú ý rằng tất cả các chứng khoán đơn lẻ đều nằm ở phía bên phải đường cong biên. Điều này có nghĩa là các danh mục đầu tư chỉ có một chứng khoán riêng lẻ đều không hiệu quả. Việc đa dạng hóa đầu tư sẽ tạo đựơc các danh mục có lợi tức cao hơn và rủi ro thấp hơn.
Tất cả các danh mục nằm ở phần trên của đường cong biên ( kể từ đỉnh của đường cong) là các danh mục được kết hợp rủi ro – lợi tức tốt nhất, là các danh mục đầu tư tối ưu. Phần đường cong biên này được gọi là đường cong biên hiệu quả. Với bất kỳ danh mục nằm trên phần dưới của đường cong biên, sẽ có danh mục khác có cùng mức rủi ro mà lại có lợi tức lớn hơn nhiều. Do vậy phần dưới của đường cong biên không có hiệu quả, sẽ bị loại bỏ qua khi nghiên cứu.
Lựa chọn giữa các danh mục đầu tư khả thi thì các danh mục đầu tư tốt nhất luôn nằm trên đường cong biên hiệu quả. Phương pháp lựa chọn trên do Markowitz khởi xướng, do vậy được gọi là mô hình lựa chọn Markowitz. Các danh mục nằm trên đường cong biên hiệu quả này còn được gọi là danh mục tối ưu Markowitz.
Ý nghĩa của đường biên này là: với bất cứ mức độ rủi ro nào, chúng ta luôn chọn những danh mục đầu tư trên đường biên mang đến lợi nhuận ước tính ( hay lợi nhuận kỳ vọng ) cao nhất tương ứng. Nói cách khác, đường biên hiệu quả chứa các danh mục có các phương sai thấp nhất với bất kỳ mức lợi nhuận ước tính nào.
Như vậy, một nhà đầu tư muốn lựa chọn một danh mục cổ phiếu để đầu tư thì tùy vào khả năng chấp nhận rủi ro (hay mức ngại rủi ro) của người đó để xác định danh mục cổ phiếu tối ưu nhất cho người đầu tư đó. Mỗi người đầu tư đều có một mức ngại rủi ro riêng và thể hiện trong mối tương quan với lợi suất ước tính đạt được, diễn tả bằng đường bàng quan. Điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan với đường biên hiệu quả chính là điểm xác định của danh mục tối ưu của người đầu tư đó.
Hạn chế việc bán khống ảnh hưởng nhiều đến đường cong biên hiệu quả, làm đường cong này dịch chuyển vào phía trong và trở nên “ lồi hơn” đường cong biên ban đầu, có nghĩa là với mức rủi ro như trước thì nay chúng ta lại chỉ có được mức lợi tức thấp hơn. Các cơ quan quản lý chứng khoán, đơn vị thực hiện nghiệp vụ tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và các nhà đầu tư cần được biết rõ ảnh hưởng của những hạn chế này, trên cơ sở đó cân nhắc để đưa ra quyết định.
Một lưu ý quan trọng về mặt toán học khi nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư sử dụng phương pháp Markowitz, đó là giả thiết lợi suất của tài sản phân phối chuẩn. Tuy nhiên, có thể thấy giả thiết này trên thực tế là giả thiết chặt. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các tài sản có lợi suất không phân phối chuẩn. Ngoài ra, ta có thể mở rộng bằng cách kết hợp hai hay nhiều danh mục đầu tư chứng khóan vào một danh mục lớn thay vì chỉ kết hợp những chứng khoán riêng lẻ với nhau. Ví dụ, kết hợp danh mục đầu tư các chứng khoán trong nước với danh mục đầu tư các chứng khoán nước ngoài. Các quy luật của mô hình quản lý danh mục đầu tư đơn vẫn được áp dụng trong trường hợp danh mục đầu tư kép.
3.2.2. Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM)
Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện đại. Harry Markowitz là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại vào năm 1952. Mười năm sau, Wiliam Sharpe, John Lintner và Jan Mossin đã phát triển mô hình CAPM. Mô hình CAPM cho phép dự đoán mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất kỳ vọng. Mô hình CAPM cung cấp một lãi suất chuẩn dùng để đánh giá và lựa chọn các phương án đầu tư, giúp phán đoán lợi suất kỳ vọng đối với những tài sản chưa được giao dịch trên thị trường.
Trong phần này, sẽ đề cập đến dạng đơn giản nhất của mô hình định giá tài sản vốn.
3.2.2.1. Những giả thuyết kinh tế cho thị trường vốn
Trong mô hình CAPM, các giả thuyết được chia thành 2 loại: các giả thuyết về tâm lý của nhà đầu tư và các giả thuyết của thị trường vốn.
Những giả thuyết về tâm lý của các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của mình đều lựa dựa trên việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước tính và rủi ro của chứng khoán.
Giả thuyết này cho biết những nhân tố dẫn tới quyết định đầu tư. Một nguyên tắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng phải lớn để bù đắp cho các rủi ro phải gánh chịu.
Nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư của mình.
Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong khoảng thời gian nhất định.
Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu vào sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu Markowitz. Đó là các thông số như : mức lợi suất, độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ.
Những giả thuyết về thị trường vốn:
Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều này có nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua. Năng lực của một nhà đầu tư riêng lẻ thì rất nhỏ so với cả thị trường và vì vậy hoạt động của họ không làm ảnh hưởng đến thị trường. Giá cả trên thị trường chỉ chịu sự quyết định bởi mối quan hệ cung cầu.
Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản trở nào trong cung và cầu của một loại chứng khoán.
Trên thị trường có loại chứng khoán không rủi ro. Đồng thời nhà đầu tư có thể vay với lãi suất đúng bằng lãi suất không rủi ro đó. Nói một cách khác, lãi suất vay mà lãi suất cho vay bằng nhau và bằng lãi suất không rủi ro.
Về cơ sở toán học
Giả thiết quan trọng là lợi suất của tài sản có phân phối chuẩn.
)
Trước khi đi vào nghiên cứu mô hình CAPM, điều trước tiên cần phải đề cập đến khái niệm danh mục đầu tư thị trường.
3.2.2.2. Danh mục thị trường ( Market Porfolio)
Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán đang được giao dịch trên thị trường, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hay bất động sản Danh mục thị trường là một danh mục đầu tư bao gồm tất cả những tài sản có nguy cơ chiếm rủi ro trên thị trường và mỗi tài sản trong danh mục này chiếm một tỷ lệ đúng bằng giá trị thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn bộ thị trường.
Ký hiệu: () là giá trị thị trường (hay thị giá) của tổng số tài sản i
Ta có : là tổng giá trị thị trường của tất cả các tài sản rủi ro có trên thị trường.
()
=> ()
=>
Ta được danh mục hiệu quả gọi là danh mục thị trường.
Xác định danh mục dựa trên trạng thái cân bằng của thị trường:
Giả sử thị trường có K nhà đầu tư và nhà đầu tư k chọn danh mục tối ưu P: là điểm thuộc biên hiệu quả và là tiếp điểm giữa đường mức và đường thờ ơ (đường bàng quan).
Gọi là giá trị thị trường của tất cả tài sản của nhà đầu tư k.
là giá trị thị trường của tài sản i do nhà đầu tư k nắm giữ.
Nếu danh mục có tài sản phi rủi ro thì:
Ta có :
3.2.2.3. Mô hình CAPM
a. Đường thị trường vốn ( The Capital Market Line- CML)
Nếu thị trường tồn tại loại chứng khoán phi rủi ro (với lãi suất ) và giả thiết rằng cá nhân nhà đầu tư có thể vay và mượn không hạn chế trên cơ sở lãi suất này (giả thiết 3 của thị trường vốn) thì kết quả về lý thuyết lựa chọn danh mục đầu tư sẽ được mô tả như hình vẽ sau đây:
Biên hiệu quả
CML
M
P
P
σp2
E(rp)
Rf
Trên hình vẽ, đường thẳng xuất phát từ điểm tiếp tuyến với đường cong hiệu quả Markowitz thể hiện mọi danh mục khả thi có thể tạo ra được từ sự kết hợp giữa chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu kho bạc) với danh mục đầu tư có rủi ro (danh mục tối ưu Markowitz). Tiếp điểm của chúng được ký hiệu M là danh mục thị trường, được coi là tối ưu nhất trong số các danh mục tối ưu.
Phương trình :
Trong đó :
: risk premium of market
: market risk
: giá của rủi ro thị trường ( được tính theo thị giá). Đây cũng chính là độ dốc của đường CML. Hệ số này được dùng để thể hiện đánh giá của thị trường về rủi ro.
b. Đường thị trường chứng khoán
Trong mô hình CAPM, khi các chứng khoán tham gia vào danh mục đầu tư thì triệt tiêu bớt phần rủi ro phi hệ thống, danh mục thị trường được coi là đa dạng hóa hoàn hảo. Vì vậy, rủi ro phi hệ thống của từng chứng khoán được triệt tiêu hết, chỉ còn lại phần rủi ro hệ thống.
Đồ thị thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất đối với mỗi chứng khoán riêng lẻ như trên được gọi là đường thị trường chứng khoán (Security Market Line- SML ) được thể hiện dưới đây.
Bảng 4: Đồ thị biểu diễn đường SML
SML
M
b
E(rM)
Rf
E(ri)
bM=1
bi
Mô hình giá tài sản vốn (CAPM) như sau:
: lợi suất của tài sản phi rủi ro
: lợi suất của danh mục thị trường
Đây chính là mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính của từng chứng khoán riêng lẻ được thể hiện dưới dạng phương trình.
Phương trình này cho thấy: với những giả thiết về thị trường vốn nêu trên, lợi suất kỳ vọng của mỗi chứng khoán có quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số rủi ro hệ thống ( ). Chứng khoán có hệ số beta càng cao thì yêu cầu lợi suất phải càng cao.
Trong phương trình trên, chính là phần bù rủi ro( risk premium ).
Từ điều kiện cân bằng thị trường, nếu một danh mục P là danh mục khả thi thì danh mục đó phải được định giá sao cho P phải nằm trên đường CML.
Tuy nhiên trong thực tế, nếu có danh mục Q, tài sản i nào đó phi hiệu quả, có giá trên thị trường. Trong trường hợp này giá danh mục Q và tài sản i được xác định :
Đây chính là chênh lệch lợi suất so với lợi suất phi rủi ro của danh mục Q bất kỳ.
* Ý nghĩa của CAPM
- SML được coi là một tiêu chí chuẩn mực để đánh giá một phương án đầu tư. Với việc chấp nhận một độ rủi ro nhất định đối với một phương án đầu tư ( được đo bằng hệ số bêta), SML cho chúng ta biết lợi nhuận thu được của phương án đầu tư đó phải là bao nhiêu mới có thể bù đắp được rủi ro mà các nhà đầu tư phải gánh chịu.
- Xuất phát từ ý nghĩa của đường SML, tất cả các chứng khoán nếu được định giá chính xác nhất thiết phải nằm trên đường SML. Với những điểm nằm phía trên hoặc dưới đường SML đều biểu hiện tình trạng giá không phản ánh đúng với giá trị cân bằng trên thị trường. Nếu là điểm nằm phía trên đường SML, chứng khoán đó được định giá thấp hơn giá trị thực sự của chúng. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nên mua loại chứng khoán đó. Ngược lại, nếu điểm đó nằm dưới đường SML, không nên mua loại chứng khoán này vì giá của chúng cao hơn giá trị thực sự của chúng.
Hệ số của tài sản hay của danh mục biểu thị sự chênh lệch giữa lợi suất thực hiện và lợi suất kỳ vọng ( lợi suất mong đợi) của tài sản hay của danh mục.
: lợi suất thực hiện của tài sản i
: lợi suất thực hiện của danh mục P
Định nghĩa:
Từ mô hình CAPM suy ra:
Trong đó: : chênh lệch lợi suất thực hiện
: chênh lệch lợi suất thị trường
: phần bù rủi ro
Dễ dàng chứng minh được :
Các nhà quản lý danh mục có thể sử dụng hệ số của danh mục hoặc tài sản để đánh giá việc thực hiện ( hay thực thi) danh mục.
Nếu tài sản i định giá đúng thì
Nếu: : tài sản i đang được định giá thấp
: tài sản i đang được định giá cao
Nếu hệ số càng lớn thì việc thực thi danh mục càng có hiệu quả.
Một ý nghĩa khác của CAPM là vai trò của nó trong việc ra quyết định đầu tư vốn. Đối với các công ty đang chuẩn bị cho một dự án đầu tư mới, CAPM đưa ra một mức lợi suất yêu cầu phải đạt đựơc cho dự án đầu tư trên cơ sở những thông số của hệ số bêta được các nhà đầu tư chấp thuận. Như vậy, đối với các phương án đầu tư khác nhau, CAPM sẽ quyết định phương án nào tối ưu nhất để lựa chọn.
* So sánh giữa SML và CML :
CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro của những danh mục tổng thể hiệu quả (danh mục biết kết hợp đầu tư chứng khoán phi rủi ro với danh mục đầu tư thị trường). SML thể hiện mối quan hệ hàm bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ.
Cần nhắc lại rằng để đo độ rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ trong danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa toàn diện thì không dùng độ lệch chuẩn ( rủi ro tổng thể ) của chứng khoán đó mà dùng mức độ đóng góp của chứng khoán nào đó mà dùng mức độ đóng góp này là hệ số bêta ().
Rõ ràng CML chỉ áp dụng đối với các danh mục tổng thể, còn SML được áp dụng cho cả danh mục và cho từng chứng khoán riêng biệt.
Vậy, Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) là một học thuyết kinh tế mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính. Nói một cách khác, đây là mô hình định giá cho những chứng khoán có nguy cơ rủi ro. CAPM cho rằng rủi ro hệ thống là mối quan tâm đối với các nhà đầu tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư. Điều đặc biệt, CAPM cho biết lợi suất ước tính của một chứng khoán hoặc một danh mục đầu tư được xác định bằng lợi suất của chứng khoán không có rủi ro cộng với một phụ phí bù đắp rủi ro. Trong mô hình CAPM, phụ phí rủi ro được tính toán bằng cách nhân mức độ rủi ro () với giá thị trường của rủi ro đó ().
Hệ số b của một chứng khoán hoặc một danh mục đầu tư là một chỉ số rủi ro hệ thống của tài sản đó và được xác định bằng phương pháp thống kê. Hệ số b được tính toán dựa trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của chứng khoán đó và lợi suất của danh mục thị trường.
3.2.3. Mô hình chỉ số đơn ( mô hình chỉ số thị trường) – SIM
Như chúng ta đã biết, lý thuyết CAPM xây dựng trên cơ sở các giả thiết và rất nhiều các giả thiết này không thực tế, đó là chưa nói đến khối lượng tính toán các yếu tố đầu vào rất phức tạp. Đó chính là khuyết điểm của lý thuyết này, làm ảnh hưởng lớn đến tính áp dụng của CAPM.
Để khắc phục những khuyết điểm này trong khi vẫn tận dụng được các giá trị cơ bản của lý thuyết CAPM trong đầu tư trên thị trường chứng khoán, các nhà nghiên cứu đã xây dựng thêm rất nhiều lý thuyết mới gắn với thực tiễn hơn.
Mô hình chỉ số đơn (Single Index Model) của một thị trường phân loại các nguồn gốc rủi ro thành các nhân tố hệ thống (vĩ mô) và các nhân tố riêng (vi mô). Mô hình này giảm được công việc tính toán đầu vào trong quy trình lựa chọn chứng khoán vào danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz, góp phần chuyên môn hóa lao động trong phân tích chứng khoán. Mô hình chỉ số đơn được tính toán bằng cách áp dụng phân tích hồi quy đối với chênh lệch lợi tức của một chứng khoán với lợi tức của thị trường. Hệ số hồi quy đối với chênh lệch lợi tức của một chứng khoán với lợi tức của thị trường. Hệ số hồi quy của phép hồi quy này chính là hệ số b của một tài sản trong khi số hạng tự do là chỉ số của danh mục chứng khoán. Đường hồi quy tính được còn được gọi là Đường đặc trưng chứng khoán ( Security Characteristic Line). Hệ số b của hồi quy tương ứng với hệ số b của mô hình CAPM sử dụng lợi tức kỳ vọng. Mô hình CAPM cũng coi tổng thể hệ số alpha của các chứng khoán tính được qua mô hình chỉ số đơn sẽ bằng không.
3.2.3.1.Các giả thuyết của mô hình chỉ số đơn
Bằng quan sát thống kê và so sánh dữ liệu rất thông thường, người quan sát thường nhận thấy một xu hướng khá rõ là các mức lợi tức của chứng khoán trên thị trường bị một số nhân tố chung và phổ biến tác động, chẳng hạn như nhân tố danh mục thị trường. Trên quan điểm thống kê – toán thì các nhân tố phổ biến đó đại diện cho các đặc tính và giá trị của hiệp phương sai và quan hệ lệ thuộc của từng các cặp chứng khoán nhất định trong quá trình quan sát.
SIM là một mô hình đơn giản hóa và chỉ định nghĩa một nhân tố duy nhất là căn nguyên của giá trị hiệp phương sai giữa các mức lợi suất của một loại chứng khoán và giả thuyết các mức lợi suất của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8218.doc