MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ .3
1.1. LÝ THUYẾT VÀ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN 4
1.1.1. Khái niệm danh mục đầu tư và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. 4
1.1.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán 5
1.1.3. Chức năng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. 6
1.1.4. Các yêu cầu đối với nhà quản lý danh mục đầu tư 8
1.1.5. Lý thuyết về sự lựa chọn tài sản đầu tư 9
1.1.5.1. Tiềm lực kinh tế hiện có của nhà đầu tư 10
1.1.5.2. Lợi suất (hay mức lợi tức) kỳ vọng trên một tài sản so với lợi tức mong đợi trên những tài sản khác 11
1.1.5.3. Tính lỏng của tài sản so với những tài sản khác 12
1.1.5.4. Chi phí của việc thu thập thông tin 12
1.1.6. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản dùng phân tích chứng khoán trong danh mục đầu tư 14
1.1.6.1. Nhóm hệ số khả năng thanh toán 16
1.1.6.2. Nhóm hệ số hoạt động 17
1.1.6.3. Nhóm hệ số nợ của công ty 17
1.1.6.4. Chỉ số P/E 18
1.1.6.5. Chỉ số EPS 19
1.1.6.6. Chỉ số thu nhập 20
1.1.7. Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận 21
1.1.8. Lý thuyết đa dạng hoá 24
1.1.9. Lý thuyết thị trường hiệu quả 25
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ MÔ HÌNH LÝ THUYẾT ÁP DỤNG TRONG PHÂN TÍCH DANH MỤC ĐẦU TƯ .27
2.1. Mô hình Markowitz 27
2.2. Mô hình CAPM 34
2.2.1. Các đặc tính của mô hình CAPM 38
2.2.2. Ứng dụng của mô hình CAPM 39
2.2.2.1. Phân tích rủi ro của tài sản, danh mục 39
2.2.2.2. Tính hệ số của tài sản, danh mục 40
2.3. Mô hình chỉ số đơn SIM 41
2.4. Đường thị trường vốn CML 42
2.5. Đường thị trường chứng khoán (SML)_ biểu diễn hình học của mô hình CAPM 44
2.6. Mối quan hệ giữa CML và SML 46
2.7. Hệ số Bêta 47
CHƯƠNG 3. ÁP DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM .51
3.1. Số liệu 51
3.2. Giới thiệu về công ty niêm yết trong danh mục và phân tích chỉ số tài chính cơ bản của các chứng khoán 51
3.3. Lập danh mục tối ưu 56
3.3.1. Phương pháp tính chuỗi lợi suất 56
3.3.2. Kiểm định tính dừng chuỗi lợi suất của các cổ phiếu 57
3.4. Lập danh mục tối ưu với 6 cổ phiếu trên là các tài sản rủi ro 58
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
66 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6029 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lập và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh toán nhanh sau khi tài sản đã được loại bỏ bởi các hàng tồn kho và tài sản kém tính thanh khoản.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng dự trữ) / Nợ ngắn hạn.
1.1.6.2. Nhóm hệ số hoạt động
Các hệ số hoạt động xác định tốc độ mà một công ty có thể tạo ra được tiền mặt nếu có nhu cầu phát sinh, bao gồm như các hệ số thu hồi nợ trung bình, hệ số thanh toán bình quân, hệ số hàng lưu kho.
- Hệ số thu hồi trung bình (bình quân) biểu thị thông qua kỳ thu hồi nợ trung bình của một công ty, cho biết công ty đó phải mất bao nhiêu lâu để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt.
Kỳ thu hồi nợ trung bình = Các khoản phải thu / (Doanh số bán chịu hàng năm / 360 ngày)
- Hệ số thanh toán trung bình thể hiện thông qua thời hạn thanh toán trung bình, phản ánh mối tương quan giữa các khoản phải trả đối với tiền mua hàng chịu mỗi năm.
Thời hạn thanh toán trung bình = Các khoản phải trả / (Tiền mua chịu hàng năm / 360 ngày
- Hệ số hàng lưu kho thể hiện số lượng hàng đã bán trên số hàng còn lưu kho. Hệ số này cho thấy khả năng dùng vốn đầu vào của các hàng hóa luân chuyển cao, tránh được lưu kho bởi cả các mặt hàng kém tính linh hoạt.
Hệ số hàng lưu kho = Giá trị hàng đã bán tính theo giá mua / Giá trị hàng hóa lưu kho trung bình.
1.1.6.3. Nhóm hệ số nợ của công ty
Phản ánh tình trạng nợ ngay tại thời điểm khảo sát của công ty, có tác động đến nguồn vốn vay và lãi suất khi đáo hạn. Tình trạng nợ của công ty được phản ánh qua các hệ số sau: hệ số nợ, hệ số thu nhập trả lãi định kỳ, hệ số trang trải chung…
- Hệ số nợ hay còn gọi là tỷ lệ trên tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản được tài trợ bằng nợ. Hệ số nợ càng thấp thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng ít và ngược lại hệ số nợ càng cao thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng cao.
Hệ số nợ = Tổng số nợ / Tổng tài sản
- Hệ số nợ được phản ánh thông qua hệ số nợ trên vốn cổ phần và hệ số nợ dài hạn trên tổng tài sản. Hệ số nợ trên vốn cổ phần biểu thị mối quan hệ tương qua giữa vố cổ phần với nợ dài hạn. Mức cao thấp của hệ số này phụ thuộc vào từng lĩnh vực, ngành nghề kinh tế khác nhau.
Hệ số nợ trên vốn cổ phần = (Nợ dài hạn + Giá trị tài sản đi thuê) / Vốn cổ phần.
1.1.6.4. Chỉ số P/E
Chỉ số P/E phản ánh mối quan hệ giữa thị giá (giá thị trường cổ phiếu hiện hành) cổ phiếu với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty.
Chỉ số này là khá phổ biến như một công cụ tài chính để nhà đầu tư xem xét mình xem chưng khoán đắt hay rẻ. P/E càng cao nghĩa là chứng khoán mua càng cao và ngược lại.Mặt khác, nhà đầu tư mua với P/E giá cao để hy vọng trong tương lai lợi nhuận công ty cao.
Nếu nhà đầu tư chấp nhận P/E cao thì rủi ro có thể cao do mua với giá cao so với lợi nhuận Công ty đạt được.
Mặt khác, mua P/E cao cũng cơ thể rủi ro thấp, vì lúc đó Công ty mua vào có thể là Công ty có giá. Các Công ty này phát triển rất ổn định để từ đó mới hoàn thành biên độ chỉ số P/E cho từng loại Công ty, từng lĩnh vực sản xuất công nghiệp và từng lĩnh vực thị trường.
Theo xu hướng trên thị trường chứng khoán các nước trên thế giới thì các lĩnh vực sau đây thường chấp nhận chỉ số P/E cao như là: ngân hàng, tài chính chứng khoán, công nghệ tin học, viễn thông, công nghệ sinh học, các ngành sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.
Hiện nay, các chuyên viên tài chính Việt Nam nhận định P/E tại thị trường Việt Nam từ 8 – 15 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân hàng hoặc các Công ty có uy tín thì P/E trên thị trường Việt Nam từ 10 – 15 lần và các lĩnh vực khác có thể dưới 10.
Do đó, P/E chỉ là một gia số tương đối, nhà đầu tư cũng cần phải đánh giá thêm các chỉ số tài chính khác có liên quan mang tính phân tích cơ bản nhiều hơn.
1.1.6.5. Chỉ số EPS
EPS có thể hiểu như sau là một chỉ số nhằm đánh giá bản thân Công ty tạo khả năng sinh lời từ đồng vốn của cổ đông đóng góp. Đây là chỉ số đánh giá trực tiếp phản ánh hoàn toàn nội tại của Công ty về khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận có thể trả cho các cổ đông) trên một cổ phần mà cổ đông góp vốn chứ không từ việc lên hay xuống giá cổ phiếu Công ty trên thị trường chứng khoán. Chỉ số EPS càng cao thì công ty tạo ra lợi nhuận cổ đông càng lớn và ngược lại. Ví dụ, nếu đạt lợi nhuận 5.000 đồng trên một cổ phần thì điều đó có nghĩa là Công ty tạo ra lợi nhuận 5% trên cổ đông (có mệnh giá cổ phần là 100.000 đồng). Như vậy, nếu một Công ty chỉ đạt EPS chỉ 8 – 9% / 1 năm thì chỉ bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng thì bạn có quyết định nên mua hay không. Đó là điều mà bạn cần cân nhắc trước khi quyết định đầu tư nếu bạn mua. Khi bạn biết và hy vọng là Công ty trong thời gian tới có khả năng tăng lợi nhuận do nhiều lý do như Công ty đang mở rộng thị trường, đưa vào thị trường sản phẩm mới, nâng cấp bộ máy quản lý đạt hiệu quả hơn… Đây là quyết định phản ánh thực tế công ty.
1.1.6.6. Chỉ số thu nhập
Chỉ số current Yield (tỷ xuất thu nhập trên thời giá cổ phần ) là một cộng cụ phân tích giúp nhà đầu tư tự quyết định mình lên chọn đầu tư vào doanh nghiệp nào.
Chỉ số current Yield là chỉ số dùng để phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà dầu tư nhận được từ Công ty với giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào. Đó là tỷ lệ cổ tức mà cổ đông nhận được trên giá chứng khoán mà cổ đông mua vào.
Phân tích mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ Công ty và giá nhà đầu tư mua cổ phiếu chúng ta thấy có hai trường hợp sau:
Trường hợp một: Khi nhà đầu tư mua chứng khoán xong rồi chờ chứng khoán để hưởng chênh lệch giá gọi là lãi vốn (capital gain) thì nhà đầu tư sẽ không quan tâm gì đến Yield. Lúc này, Yield không có ý nghĩa gì thực sự quan trọng với họ so với chỉ số P/E và EPS đã đề cập ở trên.
Trong trường hợp này, nhà đầu tư sẽ phân tích mối quan hệ giữa Yield và EPS. Nếu Yield thấp còn EPS cao thì họ hy vọng Công ty sử dụng phần lợi nhuận để tái đầu tư tăng lợi nhuận cho các năm tiếp theo giúp P/E giảm. Lúc này, nhà đầu tư dễ dàng bán lại cổ phiếu với P/E cao để có lãi vốn.
Trường hợp hai: Nếu nhà đầu tư mua chứng khoán để đầu tư dài hạn (như để mua làm của) thì tất nhiên họ sẽ quan tâm tới việc lợi nhuận hàng năm, hàng quý. Lúc này, chỉ có cổ tức họ thu được. Khi đó, Yield là mục tiêu chính để họ quan tâm.
Khi Công ty chia cổ tức cao đồng nghĩa công ty không cần sử dụng lợi nhuận để lại do Công ty sử dụng vốn vay. Công ty chưa có kế hoạch mở rộng sản suất hoặc thị phần công ty đã bão hoà. Khi lợi nhuận không được dự báo tăng lên trong nhiều năm tới thì đồng nghĩa P/E không giảm nhiều dẫn đến việc mà nhà đầu tư không hy vọng sẽ tăng giá cổ phiếu của công ty minh trong tương lai.
Thông thường, lợi nhuận thu được từ cổ tức(còn gọi là tỷ lệ chi trả cổ tức) Công ty trả thấp hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ việc bán cổ phiếu. Do vậy, đối với các nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường thì điều quan tâm nhất của họ là lãi vốn, có nghĩa trong hội nghị đại hội cổ đông hàng năm để quyết định chia cổ tức thì họ thường bỏ phiếu không chia cổ tức nhiều.
Nói tóm lại, khi đầu tư bạn nên tìm hiều và đánh giá hết các loại chỉ số để có một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn mối quan hệ của các chỉ số này để có một quyết định đầu tư chính xác.
1.1.7. Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận
Tất cả các quyết định đầu tư đều được cân nhắc dưới góc độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi và những tác động của chúng trên giá chứng khoán cũng như kết quả tài chính cuối cùng đạt được trong quyết định đầu tư. Rủi ro được xem là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại về tài chính. Những chứng khoán nào có khả năng xuất hiện những khoản lỗ lớn được xem như có rủi ro cao hơn chứng khoán có khả năng xuất hiện những khoản lỗ thấp hơn thì rủi ro thấp hơn. Vì vậy, rủi ro được mô tả bằng sự biến đổi của các tỷ suất sinh lợi của chứng khoán đó trong thời kỳ nghiên cứu.
Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán chịu tác động của rất nhiều nhân tố trên thị trường mang tiềm ẩn rủi ro, những yếu tố này có thể bị triệt tiêu hoàn toàn thông qua việc kết hợp danh mục đầu tư hiệu quả tối ưu của nhiều chứng khoán được gọi là rủi ro không hệ thống, phần lợi nhuận mong đợi để bù đắp cho loại rủi ro này chính là phần bù rủi ro chứng khoán. Loại rủi ro không thể triệt tiêu được gọi là rủi ro hệ thống, phần lợi nhuận mong đợi tương ứng với loại rủi ro này chính là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro.
Đại đa số các nhà đầu tư đều là những người ngại rủi ro hay không ưu mạo hiểm. Do đó mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận thường được xây dựng trên cơ sở tâm lý số đông này. Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận ước tính và độ lệch chuẩn (mức độ rủi ro) của một danh mục được thể hiện bằng đồ thị dưới đây:
Hình 1.1: Biểu thị mối quan hệ tỷ suất lợi nhuận ước tính với độ lệch chuẩn.
P
E(r)
I II
III IV
Trên đồ thị, danh mục đầu tư P có mức lợi suất ước tính E(rp) và độ lệch chuẩn được các nhà đầu tư e ngại rủi ro thích hơn so với các danh mục đầu tư nằm trong phần IV của đồ thị vì nó có lợi suất ngang bằng hoặc lớn hơn bất cứ một danh mục đầu tư nào nằm trong phần IV và luôn có độ lệch chuẩn (mức độ rủi ro) ngang bằng hoặc thấp hơn. Ngược lại, bất cứ danh mục đầu tư nào trong phần I đều được các nhà đầu tư thích hơn danh mục đầu tư P vì mức lợi nhuận ước tính của nó luôn bằng hoặc lớn hơn và độ lệch chuẩn của nó luôn bằng hoặc nhỏ hơn. Như vậy, một cách tổng quát nếu một danh mục đầu tư này tốt hơn danh mục đầu tư kia thì danh mục đó phải có đồng thời mức lợi suất đầu tư lớn hơn và mức rủi ro nhỏ hơn.
Khi sắp xếp nhiều danh mục đầu tư để lựa chọn, dễ dàng nhận thấy những danh mục đầu tư nằm trong vùng I là có lợi thế nhất, vì các danh mục đầu tư nằm trong vùng này đều có ưu thế vượt trội cả về lợi suất đầu tư cao và độ rủi ro thấp so với vùng khác. Các danh mục đầu tư nằm ở vùng IV là kém lợi thế nhất (lợi suất đầu tư thấp nhưng mức độ rủi ro lại cao). Còn các danh mục đầu tư nằm trong vùng II và III lại chỉ được một trong hai yếu tố cần xem xét là lợi suất đầu tư hoặc mức độ rủi ro do đó cần được xem xét thêm một số yếu tố khác. Khả năng chấp nhận chúng sẽ phụ thuộc đáng kể vào mức độ bang quan ngại rủi ro của nhà đầu tư cao hay thấp. Nếu độ rủi ro càng cao thì giá trị hữu dụng càng thấp xuống và nó cần phải được bù đắp bằng sự tăng lên của mức lợi suất đầu tư.
Theo công thức U = CE = E(r) – 0,5A. 2 = E(r). Để giá trị hữu dụng U không đổi, đối với các danh mục đầu tư có độ rủi ro cao hơn thì mức lợi suất đầu tư đạt được cũng phải cao lên tương ứng và ngược lại. Những danh mục đầu tư được lựa chọn yêu thích ngang nhau sẽ nằm trên cùng một đường cong trên đồ thị, nối tất cả các điểm này lại ta có đường đồng mức hữu dụng, hay còn gọi là đường “bàng quan”
Hình 1.2: Đường đồng mức hữu dụng (đường cong bàng quan)
E(r) 1 2
Những người đầu tư có mức rủi ro khác nhau sẽ có các đường cong bàng quan phân bổ ở các vị trí khác nhau về phía vùng II hoặc III (vùng II dành cho những nhà đầu tư có mức ngại rủi ro thấp, vùng III dành cho những nhà đầu tư có mức ngại rủi ro cao, tức không dám chấp nhận rủi ro). Tuy nhiên, dễ nhận thấy đường bàng quan càng dịch chuyển lên theo hướng tây bắc thì mức hữu dụng của nhà đầu tư đó càng cao và càng dễ chấp nhận.
1.1.8. Lý thuyết đa dạng hoá
Quá trình phân tán và tối thiểu hoá rủi ro là một hình thức đa dạng hoá. Theo đó, nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau để tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng mức rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giới hạn ở mức nhỏ nhất.
Ở phần trước, chúng ta đã chỉ ra rằng mỗi một chứng khoán đều tiềm ẩn hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống (còn gọi là rủi ro riêng). Rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường gây ra và ảnh hưởng đến tất cả các chứng khoán trên thị trường. Do vậy, rủi ro hệ thống là rủi ro không thể tránh được bằng hình thức đa dạng hoá. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống của một chứng khoán có nguyên nhân từ chính tổ chức phát hành do đó có thể hạn chế được bằng biện pháp đa dạng hoá đầu tư. Điều này là do nguyên lý khi hai hoặc nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư thì mỗi cặp chứng khoán sẽ có tương tác qua lại với nhau tạo ra một kết quả chung cho cả danh mục. Tức là, mức độ chấp nhận rủi ro cao hay thấp của danh mục sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ tương tác giữa các chứng khoán đưa vào danh mục với các chứng khoán khác. Nếu danh mục càng đa dạng thì khả năng giảm thiểu rủi ro phi hệ thống càng thấp, các chứng khoán bù đắp rủi ro cho nhau.
Về lý thuyết người ta đã chứng minh rằng: Các chứng khoán có xu hướng biến động trái ngược với xu hướng biến động ban đầu là những yếu tố làm giảm thiểu rủi ro có hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định thước đo rủi ro của từng chứng khoán khi đưa vào danh mục đầu tư và cũng là điểm then chốt để xây dựng lý thuyết mô hình CAPM.
1.1.9. Lý thuyết thị trường hiệu quả
Nội dung chính của lý thuyết cho rằng thị trường hiệu quả là thị trường trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. Điều này có nghĩa là giá cả được xác định ở mức công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường. Giá cả chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của những thông tin không thể dự đoán được.
Có 3 hình thái của thị trường đạt hiệu quả đó là hình thái yếu, hình thái trung bình cuối cùng là hình thái mạnh.
EMH hình thái yếu của thị trường: Trong hình thái này thì giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như giá cả giao dịch, khối lượng, động thái,.. Khi hình thái yếu của thị trường tồn tại, các nhà phân tích kỹ thuật sẽ bị “vô hiệu hoá”.
EMH cấp trung - hình thái trung bình của thị trường: Trong hình thái trung bình giá cả của chứng khoán đã phản ánh tất cả các thông tin liên quan đến công ty đã được công bố công khai bên cạnh các thông tin trong quá khứ. Khi hình thái trung bình tồn tại thì không có hình thức phân tích nào kể cả phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật có thể đem lại siêu lợi nhuận cho nhà đầu tư nếu việc phân tích chỉ dựa trên các thông tin trên thị trường.
EMH cấp cao - hình thái mạnh của thị trường: Trong hình thái này giá cả của chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin cần thiết liên quan đến tổ chức phát hành thậm chí đó là những thông tin nội gián, thông tin mật (của mã chứng khoán muốn đầu tư…). Điều này có nghĩa là thị trường sẽ phản ánh hết sức nhanh trước những thông tin. Và vì vậy, trong hình thái này không thể thực hiện bất kỳ một hình thức phân tích nào.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ MÔ HÌNH LÝ THUYẾT ÁP DỤNG TRONG PHÂN TÍCH DANH MỤC ĐẦU TƯ
Theo nguyên lý đa dạng hóa đầu tư: Rủi ro càng lớn thì lợi suất kỳ vọng càng cao. Sau đây là một số mô hình lý thuyết thể hiện mối tương quan này, và được áp dụng trong quá trình thành lập một danh mục đầu tư.
2.1. Mô hình Markowitz
Đa dạng hoá danh mục đầu tư có thể làm giảm thiểu rủi ro phi hệ thống. Harry Markowitz đã chỉ ra một cách chính xác bằng lựa chọn những cổ phần không di chuyển cùng chiều với nhau thì nhà đầu tư có thể làm giảm độ lệch chuẩn tỷ suất lợi nhuận sinh lời như thế nào. Trong đầu tư tài chính, nhà đầu tư luôn tìm cách đạt lợi nhuận lwoij nhuận cao nhất. Harry đã đưa ra mô hình phân tích ảnh hưởng của các yếu tố thị trường các tài sản tài chính và cho phép giải bài toán trong trường đầu tư các tài phẩm trong một cặp đầu tư . Mô hình xem xét quan hệ giữa lợi tức tối ưu trung bình và độ rủi ro được đo bằng phương sai của lợi tức vì vậy có thể gọi mô hình này là mô hình mean-variance.
Giả thiết
- Giả thiết các nhà đầu tư là e ngại rủi ro.
- Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro danh mục dựa vào phương sai của danh mục.
- Các nhà đầu tư ra quyết định dựa trên đường biên hữu dụng, đường thể hiện mối tương quan giữa lợi suất kỳ vọng và phương sai của tỷ suất lợi nhuận.
- Với cùng một mức rủi ro nhà đầu tư sẽ lựa chọn tài sản (danh mục) có lợi suất kỳ vọng lớn hơn ngược lại với cùng một mức lợi suất kỳ vọng nhà đầu tư sẽ chọn tài sản (Danh mục) có rủi ro thấp hơn.
Thiết lập mô hình
Giả sử danh mục P có với:
là tỉ trọng của tài sản thứ i.
Trong danh mục không có bán khống tức là
Lợi suất của tài sản i: với
Hiệp phương sai của tài lợi suất tài sản i, j là: với
Kí hiệu: Ma trận hiệp phương sai lợi suất của N tài sản là:
Với là phương sai của lợi suất tài sản i
Do V là ma trận đối xứng không âm nên tồn tại ma trận nghịch đảo là ma trận đối xứng và xác định dương.
Lợi suất của danh mục:
Phương sai của danh mục:
( với , W là các véc tơ cột)
Trường hợp 1: Danh mục chỉ gồm những tài sản rủi ro
Mô hình : Tìm W sao cho Min
Hay: Min (W’VW)
Điều kiện:
Thực chất của bài toán là với một mức lợi suất trung bình xác định trước thì tìm danh mục có rủi ro là nhỏ nhất. Danh mục này gọi là danh mục biên duyên hiệu quả. Tập hợp các danh mục biên duyên sẽ cho ta một đường biên hiệu quả.
Lời giải
Giải bài toán largrange:
L(w, l1, l2)= W'VW +2l1( -W') + 2l2(1-W'U)
Điều kiện cần:
2VW - 2l1 - 2l2U =0 (1)
(2)
(3)
Điều kiện đủ:
Ma trận hessian: Hb =
Dễ dàng kiểm tra điều kiện đủ thỏa mãn với mọi nghiệm nhận được từ điều kiện cần).
Vì V xác định là không âm nên tồn tại V-1 .
Từ 1 ta có : W =V-1l1 + V-1l2U (4)
Thay 2 vào 3 ta có: l1' V-1+ l2 'V-1U=.
l1' V-1U + l2U' V-1U =1
Đặt: a =U' V-1U; b='V-1U; c=' V-1
Ta có: ; (5)
Thay (5) vào (4) ta có: W
Nhóm lại theo ta có: W = (6)
Mối quan hệ giữa lợi suất kỳ vọng của danh mục với phương sai danh mục
= (7)
Danh mục MVP : Là danh mục có phưong sai nhỏ nhất với
Như vậy: Theo mô hình Mean-variance với lợi suất kỳ vọng cho trước của danh mục ta luôn tìm được một danh mục có rủi ro thấp nhất. Tập tất cả các dạnh mục này gọi là tập danh mục biên duyên. Hình vẽ bên dưới mô tả tập danh mục biên duyên:
Hình 2.1: Mô tả tập danh mục biên duyên
A
MVP
B
E(Ri)
Từ các dữ kiện trên ta có nhận xét: danh mục MVP là danh mục có phương sai nhỏ nhất. Những nhà đầu tư có mức e ngại rủi ro lớn thường chọn danh mục đầu tư xung quanh MVP.
Đường MVP-A là đường biên hiệu quả, đây là đường tập hợp các danh mục hiệu quả. Tùy theo mức độ chấp nhận rủi ro mà các nhà đầu tư xác định danh mục đầu tư của mình trên đường này: Rủi ro càng lớn thì mức lợi suất kỳ vọng càng cao. Xác định đường bàng quan giữa lợi suất và rủi ro của từng nhà đầu tư, điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan và đường biên hiệu quả chính là danh mục tối ưu của nhà đầu tư đó.
Đường MVP-B là đường biên phi hiệu quả đây là đường tập hợp những danh mục phi hiệu quả danh mục mà lợi suất sẽ thấp hơn khi rủi ro tăng.
Mặt khác ta có thể giải thích đường tập hợp các danh mục biên duyên thông qua nguyên lý đa dạng hoá đầu tư. Đường biên hiệu quả thể hiện sự kết hợp của những tài sản có biến động ngược chiều với nhau.
Trên thực tế, khi cho phép bán không tức có nghĩa là <0 thì đường cong sẽ dịch chuyển vào bên trong tức là với mức rủi ro bán đầu thì lợi suất kỳ vọng sẽ giảm, Mặt khác giả thiết lợi suất của các tài sản là tuân theo quy luật phân phối chuẩn, trong khi đó trên thực tế chuỗi lợi suất các tài sản có thể không tuân theo quy luật phân phối chuẩn, do vậy ta phải điều chỉnh chúng.
Trường hợp 2: Danh mục có tài sản phi rủi ro
Giả sử ngành đó gồm N tài sản. Lập danh mục tối ưu đại diện cho ngành. Danh mục của ngành là danh mục hiệu quả, khi đó là danh mục của ngành sẽ là danh mục tiếp tuyến với đường biên hiệu quả.
Ta biết trước , lựa chọn danh mục khả thi giữa cổ phiếu rủi ro và trái phiếu phi rủi ro sao cho phương sai nhỏ nhất hay:
Ta có danh mục P có W* là tỷ trọng của cổ phiếu rủi ro, (1-W*) là tỷ trọng của trái phiếu rủi ro.
là lợi suất của tài sản phi rủi ro.
Danh mục tối ưu P* được xác định:
W*=
Với:
Danh mục tiếp tuyến là WT =
Với
Thị trường hầu như tồn tại thường xuyên có một hay một số tài sản được coi là không rủi ro (phương sai bằng 0) như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty lớn... Có thể mô tả lợi suất tài sản phi rủi ro là điểm F tương ứng với lợi suất r trên hình vẽ. Khi đưa tài sản này vào danh mục đầu tư, sẽ được một đường biên hiệu dụng mới là một đường thẳng và có thể xem đây là đường thị trường vốn, thị trường mà nhà đầu tư có thể vay không hạn chế với lãi suất.
Trên hình vẽ, đường thị trường vốn sẽ tiếp xúc với đường biên hiệu quả của danh mục tài sản phi rủi ro tại điểm T, danh mục T là danh mục tiếp tuyến. Đường này là tập hợp các điểm mà chúng là sự tổ hợp tuyến tính giữa tài sản phi rủi ro F và danh mục T. Những điểm bên trái điểm T trên đường thị trường vốn luôn cho một cách kết hợp tối ưu giữa tài sản phi rủi ro và tài sản rủi ro theo mô hình Markowitz. Chẳng hạn như tại A và B có cùng một mức độ rủi ro nhưng lợi chọn A có lợi hơn, ngược lại những điểm nằm bên phải T tương ứng cho phép vay tiền từ tài sản phi rủi ro để đầu tư cho tài sản rủi ro.
Việc lựa chọn danh mục đầu tư mà vay vốn hay cho vay vốn tùy thuộc vào tâm lý của nhà đầu tư. Hình vẽ dưới minh hoạ điều này:Tại đầu tư một phần cho tài sản phi rủi ro và một phần cho danh mục T; Tại nhà đầu tư vay thêm để đầu tư ( là đường bàng quan của nhà đầu tư i ).
Hình 2.2 : Đồ thị tâm lý nhà đầu tư khi lụa chọn danh mục đầu tư
T
Tóm lại: Mô hình Markowitz và xác định đường bàng quan của từng nhà đầu tư đối với rủi ro, ta luôn xác định được danh mục tối ưu cho từng nhà đầu tư, đó là điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan với đường danh mục hiệu quả.
2.2. Mô hình CAPM
Dựa trên những nghiên cứu của Harry Markowitz về lý thuyết danh mục và việc phát mình ra danh mục thị trường. William Sharpe tiếp tục nghiên cứu và phát triển, vào năm 1960 ông đã đưa ra mô hình định giá tài sản vốn (Capital asset pricing model – CAPM).
Mô hình mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất kỳ vọng, trong đó lợi suất kỳ vọng bằng lợi nhuận phi rủi ro cộng với một khoản bù đắp rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán đó.
Giả sử có N chứng khoán rủi ro và một chứng khoán không rủi ro có lợi suất rf, lợi suất của danh mục trên thị trường rM
Bài toán tối ưu có dạng như sau :
Lập hàm Lagrăng có dạng sau :
Ta giải hệ phương trình sau:
Lấy phương trình đạo hàm theo wk trừ phương trình đạo hàm theo wf ta được
Ta lại có :
Viết lại công thức ta có :
Công thức trên đúng cho bất cứ chứng khoán nào cũng đúng cho portfolio bao gồm cả portfolio thị trường nên ta có.
Thay vào biểu thức trên ta có :
Sau khi biến đổi ta có mô hình CAPM sau đây.
Viết lại ta được : - rf = ()
Trong đó : = thước đo vể mức độ rủi ro của thị trường .
<1 : Tài sản thụ động (Defensive). Khi thị trường thay đổi thì độ biến động của cổ phiếu này ít hơn độ biến động của thị trường .
>1 : Tài sản năng động (Ageresive), khi thị trường thay đổi tài sản I cũng thay đổi cùng xu hướng với thay đổi của thị trường nhưng độ biến động là mạnh hơn.
: Lợi suất kỳ vọng cuả cổ phiếu i
Rf : Lợi suất phi rủi ro trên thị trường
: Lợi suất kỳ vọng của thị trường
: Phần bù rủi ro của thị trường
- rf : Phần bù rủi ro của tài sản i.
* Nhận xét : Để áp dụng mô hình CAPM vào thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam cần thực hiện một số công việc sau :
- Công khai hoá và minh bạch thông tin cùng với việc tháo gỡ những rào cản không hợp lý cho nhà đầu tư để dần dần ra tăng mức độ hiệu quả và hoàn hảo cho thị trường.
- Thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá và niêm yết công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán để hình thành danh mục đầu tư đại diện cho thị trường.
- Cần có một công ty đứng ra thu thập, xử lý thông tin để xác định và công bố hệ số beta.
- Cần tổ chức thường xuyên và công bố rộng rãi thông tin về các cuộc đấu thầu tín phiếu kho bạc, từ đó có cơ sở xác định tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro.
Những việc làm trên có tác dụng thuận lợi hai mặt. Một mặt làm cho điều kiện thị trường tài chính Việt Nam phát triển dần đến mức hiệu quả hơn, thích hợp hơn cho việc ứng dụng CAPM. Mặt khác, tạo ra những tiền đề cho việc xác định các thông số mà mô hình CAPM yêu cầu như : tỉ suất lợi nhuận phi rủi ro, tỉ suất lợi nhuận thị trường và hệ số Beta.
2.2.1. Các đặc tính của mô hình CAPM
CAPM có một số đặc tính quan trọng. Thứ nhất, trong cân bằng, mọi tài sản phải được định giá sao cho doanh lợi kỳ vọng đã điều chỉnh rủi ro của nó nằm chính xác trên đường thị trường chứng khoán (SML). Nhà đầu tư luôn có thể đa dạng hoá mọi rủi ro ngoại trừ hiệp phương sai của một tài sản với danh mục thị trường mà thôi. Nói các khác, họ có thể đa dạng hoá mọi rủi ro trừ rủi ro của tổng thể nền kinh tế vốn không thể tránh khỏi. Hệ quả là rủi ro duy nhất nhà đầu tư phải trả một phần bù để tránh đi là rủi ro hiệp phương sai. Tổng rủi ro hệ thống là kết quả phép đo hiệp phương sai tài sản đó với nền kinh tế, rủi ro phi hệ thống vốn độc lập với nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra ở đây là ta không thể so sánh phương sai của một tài sản đơn lẻ với phương sai của một danh mục được đa dạng hoá tốt hơn. Phương sai của danh mục sẽ gần như luôn nhỏ hơn. Phép đo chính xác cho một tài sản đơn lẻ là hệ số Beta, là hiệp phương sai của nó với thị trường chia cho phương sai của thị trường.
Một tính chất quan trọng khác của CAPM là phép đo rủi ro cho một tài sản đơn lẻ là cộng tuyến tính khi tài sản được đưa vào danh mục. Ví dụ nếu ta đưa a% của cải của ta vào tài sản X với rủi ro hệ thông BetaX, và b% vào tài sản Y ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lập và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc