Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp đều là DN ngoài nhà nước,cụ thể là
công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong khi đó, theo qui định nhà nứơc thì khối lượng
phát hành của một lô trái phiếu tối thiểu là 500 tỷ. Nhưng với qui mô công ty như
thế này thì liệu rằng có bao nhiêu doanh nghiệp có khả năng phát hành. Và do đó ,
thị trừơng trái phiếu doanh nghiệp sẽ không thể phát triển mạnh cũng nh ư nâng
cao tính thanh khoản của nó.
Kết luận: ADB đã chỉ ra ba rủi ro chính đối với viễn cảnh thị trường trái
phiếu khu vực, bao gồm một giai đoạn suy thoái sâu ở Mỹ, những biến động tiếp
tục xảy ra trên thị trường vốn toàn cầu gây áp lực đốivới các nhà đầu tư, và lạm
phát tăng cao tại khu vực khiến nhiều quốc gia phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng.
Bên cạnh đó, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước VN cần tăng phát hành
trái phiếu để hạn chế mức tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán; tăng dự trữ
bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền gửi ngắn hạn và Chính phủ cần có những biện
pháp giảm thuế quan.
86 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77%.
3.1.4 Kỳ hạn của trái phiếu:
Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm,
dài nhất là 10 năm. Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm, đầu tư vào các
công trình thuỷ điện, cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Để khuyến khích các nhà
đầu tư, phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) là quyền mua cổ
phiếu với mức giá ưu đãi. Trong một thị trường tài chính phát triển , trái phiếu
thường có thời hạn từ trên 20 năm cho đến 30 năm.
Ngoài ra, trái phiếu chính phủ đã từng bước được đa dạng về kỳ hạn nhưng
chủ yếu là kỳ hạn 5 năm, các loại kỳ hạn khác như (2 năm; 3 năm; 7 năm; 10 năm
và 15 năm...) chưa được duy trì đều đặn. Sự đơn điệu về kỳ hạn trái phiếu đã
không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư trái phiếu trong thời gian
qua.
Các ngân hàng thường hạn chế trong việc cho vay các khoản vay dài hạn như
thế vì rủi ro cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong điều kiện lạm phát cao, môi trường
chính sách không đảm bảo và do tác động khá nhạy cảm của các biến động kinh tế
quốc tế đã gây nên tâm lý thiếu tin tưởng của các nhà đầu tư khi đầu tư vào một
loại trái phiếu có thời hạn quá dài. Tâm lý e ngại này có thể là do: Việt Nam ngày
càng có xu hướng gia tăng về biên độ giá mua/bán. Đặc biệt, năm 2007 biên độ
này tăng hơn gấp đôi nghĩa là mức độ rủi ro trên thị trường vào năm 2007 gia tăng
và rủi ro tương đối cao so với những nước khác.
Cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ phần nào đem lại lợi ích cho thị trường
trái phiếu nội tệ của Đông Á. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ thắt chặt tín dụng hiện
nay, các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ đang nổi lên ở Đông Á được lợi
nhờ việc giới đầu tư đẩy mạnh tìm kiếm các kênh đầu tư sinh lời hấp dẫn bên
ngoài thị trường Mỹ. Tuy nhiên, khi rủi ro gia tăng trên thị trường toàn cầu, giới
đầu tư ngoại bắt đầu thoái lui khỏi thị trường châu Á, dẫn tới mức độ bất ổn tăng
cao tại các thị trường vốn trong khu vực.
Trong bối cảnh rủi ro tăng cao, tính thanh khoản yếu của các loại trái phiếu
nội tệ của khu vực là yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường.
3.1.5 Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp:
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng với nhà tài trợ vốn. Chất lượng
của bất kỳ trái phiếu nào đều được dựa trên khả năng tài chính của nhà phát hành
để thanh tóan lãi suất và hòan trả khỏan tiền vay tại kỳ đáo hạn. Dịch vụ đánh giá
giúp đánh giá sự tin cậy về tín dụng của trái phiếu. Vài trái phíêu, như là trái phiếu
đô thị, có thể được đảm bảo bởi bên thứ ba. Các tiêu chí phát hành không được
quy định rõ ràng; thiếu thông tin; các quy định điều chỉnh việc chào bán riêng lẻ
không đầy đủ và hệ thống giao dịch trái phiếu không đồng bộ. Vào tháng 12 năm
2007, CIC (Credit Information Center). Những thông tin này rất quan trọng đối
với ngân hàng và các nhà đầu tư, tuy nhiên, chúng cũng chỉ có ý nghĩa tại thời
điểm xếp hạng , không phải trong cả một giai đoạn. Nếu việc xếp hạng tín dụng
doanh nghiệp được thực hiện định kỳ, ít nhất là hàng tháng hoặc hàng quí, chắc
chắn chúng sẽ trở nên hữu ích hơn cho người sử dụng. Hiện nay, CIC mới chỉ
cung cấp dịch vụ xếp hạng tín dụng theo yêu cầu, chưa phổ biến ra công chúng do
chi phí khá cao (khoảng 60 000 VND/lần hỏi tin).
Sau đây là chuẩn xếp hạng tín nhiệm của các nước:
Moody's Standard & Poor's
chất lượng cao nhất Aaa AAA
chất lượng cao Aa AA mức độ đầu tư
trên trung bình A - 1,A A
trung bình Baa - 1,Baa BBB
đầu cơ Ba BB mức độ không đầu tư
rủi ro Ca, C D
Nguồn: www.investingbonds.com
Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nào thực hiện
dịch vụ cung cấp các chỉ tiêu xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, từ đó là cơ sở để
xếp hạng trái phiếu doanh nghiệp là một rào cản cho các doanh nghiệp nhỏ khi
phát hành trái phiếu. Thêm vào đó, chi phí phát hành cổ phiếu thấp không khuyến
khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu.
3.1. 6 Điều khoản trái phiếu:
- Mục đích phát hành trái phiếu: với các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa
nêu rõ, cụ thể phương án phát hành trái phiếu. Chưa hề có một tổ chức nào đứng
ra định giá hay thẩm định các dự án đầu tư của doanh nghiệp.
- Phương thức trả lãi: đa phần các doanh nghiệp trả lãi định kỳ hằng năm.
- Đối với loại trái phiếu zero-coupon thì việc thanh toán được thực hiện vào
ngày đáo hạn, không trả lãi định kỳ.
- Nguồn thanh toán lãi: việc thanh toán lãi cho người nắm giữ trái phiếu được
doanh nghiệp lấy từ hoạt động có lời của dự án.
Riêng đối với trái phiếu phát hành có tài sản đảm bảo thì thực trạng hiện nay cho
thấy các doanh nghiệp chưa công khai các bản báo cáo về việc sử dụng tài sản, các
tỷ số đánh giá mức độ sử dụng hiệu quả.
- Vấn đề tỷ giá: khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế thì đây là vấn
đề gay nhiều “nhức nhối” do tỷ giá VND biến hóa khôn lường trước những biến
động thị trường. Trong năm 2007, VND được coi là bị đánh giá cao so với USD.
Nguyên nhân chính là từ thị trường cho vay cầm cố của Mỹ. Do đó mà kết quả
điều tra cho thấy, (theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)), giao dịch trái
phiếu của các nhà ĐTNN tăng 55% trong năm 2007. So với lãi suất 4 - 5%/năm ở
nước ngoài, lãi suất 8,5%/năm của trái phiếu chính phủ Việt Nam được coi là rất
hấp dẫn, nhất là trong bối cảnh VND đang lên giá so với USD. Khi trái phiếu đáo
hạn, chuyển từ VND sang USD sẽ có lợi, như thế nhà ĐTNN mua trái phiếu được
lợi cả đôi đường. Mặt khác cũng từ nguyên nhân trong nước, những mặt yếu kém
trong cách quản lý và hành xử trước biến động thị trường của cấp quản lý.
Tình trạng nhập siêu của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp có vốn FDI chuyển lợi nhuận về nước do kết thúc niên
độ kế toán.
Cung USD giảm do Ngân hàng nhà nước đã mua số lượng lớn USD
từ các doanh nghiệp xuất khẩu và vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường
chứng khoán vẫn chưa giải ngân do diễn biến thị trường bất lợi.
Bên cạnh đó, việc mở rộng biên độ giao dịch cho tỷ giá, thực hiện thí điểm
mua ngoài tệ theo phương thức thỏa thuận ở ngân hàng thương mại,…cũng đã có
những tác dụng nhất định, giúp cho thị trường tiền tệ được linh hoạt hơn và phản
ánh tốt hơn đối với sự thay đổi chung của thị trường tiền tệ quốc tế.
- Tiềm lực tài chính doanh nghiệp: do tốc độ tăng trưởng nền kinh tế mà số
lượng thành lập các công ty ngày càng tăng, đặc biệt là các công ty TNHH.
Trước những diễn biến phức tạp trên thị trường tài chính Việt Nam,nhà đầu
tư nước ngoài có xu hướng nắm giữ trái phiếu ngày càng nhiều. Điều này càng
thấy rõ tiềm năng phát triển của thị trường trái phiếu trong tương lai.
- Dòng tiền doanh nghiệp: Đối với trái phíêu doanh nghiệp, có các nhân tố
khác : tình hình tài chính công ty và dòng tiền hoạt động. Các nhà phân tích trái
phiếu xem doanh nghiệp có đủ tiền mặt để thanh tóan khỏan nợ cho chủ nợ. Nếu
một trong những tổ chức xếp hạng cho rằng tình hình tài chính tín dụng của công
ty nằm dưới mức đầu tư (BBB), giá trái phiếu gần như giảm.
Mặt khác đặc biệt đối với các nhà phát hành, Nghị định 52 chưa có thông tư
hướng dẫn, tuy nhiên theo thông lệ, việc bảo lãnh phát hành thường là bảo lãnh
với nỗ lực tối đa, theo đó tổ chức bảo lãnh bằng khả năng và nỗ lực của mình chào
bán trái phiếu cho nhà đầu tư và bảo lãnh khối lượng trái phiếu mà nhà đầu tư
đăng ký mua. Cách thức này hạn chế nhiều rủi ro cho tổ chức bảo lãnh vì họ
không phải cam kết ngay từ đầu về việc bảo lãnh toàn bộ khối lượng trái phiếu
phát hành, thay vì họ chỉ phải xác định nghĩa vụ bảo lãnh của mình sau khi đã xác
định khối lượng đặt mua và lãi suất mong muốn của nhà đầu tư. Để đợt phát hành
thành công, có nhiều yếu tố chi phối, tuy nhiên năng lực của tổ chức bảo lãnh là
rất quan trọng, đòi hỏi phải là những tổ chức uy tín, có nhiều kinh nghiệm, và đặc
biệt có hệ thống khách hàng là các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm rộng
khắp.
Ngoài ra, tài liệu chào bán phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và thường được xây
dựng theo tiêu chuẩn Eurobond. Đặc biệt là bản công bố thông tin phát hành, giới
thiệu về quá trình hình thành và phát triển DN, rủi ro, hoạt động kinh doanh, chiến
lược, tình hình tài chính, các dự án đầu tư... Đây là nguồn thông tin rất quan trọng
để nhà đầu tư đánh giá về DN và trái phiếu. Để đảm bảo số liệu cung cấp trong
bản công bố thông tin là trung thực, tổ chức thu xếp thường yêu cầu một tổ chức
kiểm toán kiểm tra và xác nhận những số liệu trên bản công bố thông tin nhằm gia
tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư.
Phát hành trái phiếu còn giúp DN tiết kiệm chi phí trả lãi so với cách huy động
vốn bằng đi vay và phát hành cổ phiếu. Lãi suất cho vay bình quân của khối NHTM
hiện vào khoảng 11 - 15%/năm đối với các kỳ hạn trên 1 năm tuỳ từng đối tượng
khách hàng. Cổ tức chi trả cho các cổ đông nắm giữ trái phiếu bình quân khoảng 12
- 14%/ năm. Trong khi lãi suất coupon trái phiếu có kỳ hạn 5 năm cao nhất hiện nay
trên thị trường là 10,5%/năm (trái phiếu Sông Đà phát hành tháng 8/2006), thấp
nhất là 8,15%/năm (trái phiếu BIDV phát hành tháng 7/2007). Như vậy, phát hành
trái phiếu là kênh huy động vốn có chi phí trả lãi thấp.
Hơn nữa, phát hành trái phiếu đòi hỏi thời gian ít hơn so với thời gian đi vay
hoặc phát hành cổ phiếu. Thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ khâu chuẩn
bị đến khi hoàn tất giao dịch mất bình quân 6 - 8 tuần. Tuy nhiên, nếu đi vay ngân
hàng hay phát hành cổ phiếu, DN sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và
xét duyệt hồ sơ.
Một ưu điểm khác của trái phiếu là cho phép DN huy động được khối lượng
vốn lớn. Rõ ràng, nếu DN có nhu cầu trên 1.000 tỷ đồng thì họ có thể tiếp cận
nguồn vốn từ phát hành trái phiếu dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành cổ
phiếu. Khó khăn trong việc bán trái phiếu một phần là do đầu tư bất động sản có
lợi hơn nhiều.
Một vài động thái của chính phủ trước diễn biến phức tạp của thị trường:
nâng biên độ dao động tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ lên mức +/- 2%:
Biên độ dao động mới được nới rộng thêm 1,25% theo yêu cầu từ các ngân hàng
và các thành viên tham gia thị trường ngoại hối nhằm nâng cao khả năng phòng
ngừa rủi ro về biến động tỷ giá để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh và giúp
nhiều ngân hàng thương mại chủ động hơn trong việc đưa ra một tỷ giá linh hoạt
hằng ngày.
Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính
phủ bằng ngoại tệ sẽ được triển khai để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh
tế, hút bớt tiền nhàn rỗi, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư
ra nước ngoài; không hạn chế các nguồn cung chứng khoán hiện tại trên thị
trường, Chính phủ đã chỉ đạo các ban ngành có kế hoạch thực hiện các đợt
IPO, không hạn chế số lượng các công ty niêm yết, đồng thời tiếp tục thực hiện
quyết định 03 về cho vay chứng khoán.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng đang xem xét việc thành lập công ty quản lý
quỹ 100% vốn nước ngoài, cũng như tăng tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài
đối với các công ty đại chúng chưa niêm yết.
3.1.8 Tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây:
* Về tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối ổn định và
có xu hướng tăng. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, để có thể hoàn thành mục
tiêu kiểm soát lạm phát thì tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 sẽ chậm lại.
Nhìn chung so với các thị trường trong khu vực, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
khá cao (8.5% vào năm 2006).
* Về lãi suất:
Trước tiên, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ giữa giá cả, lãi súât và suất sinh lợi
khi đầu tư vào trái phiếu như sau:
Những nhà đầu tư sẵn lòng trả cho 1 trái
phiếu bị ảnh hưởng nhiều bởi LS lưu hành.
Người mua tìm kíêm mức giá thấp
TSSL trên 1 trái phiếu là suất sinh
lợi hàng năm, bị ảnh hưởng phần
lớn bởi giá cả mà người mua trả
cho nó. Người mua tìm kiếm những
trái phiếu có TSSL cao
Nhìn chung là trả lãi sau với phương thức trả lãi hàng năm với lãi suất cố
định. Riêng chỉ có tổng công ty Sông Đà và tập đoàn Điện lực phát hành trái phiếu
có lãi suất được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất trái phiếu Chính phủ hoặc lãi suất
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngoài lãi vay, các doanh nghiệp phát hành
còn phải trả một khoản phí hay hoa hồng cho các dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát
hành và bảo lãnh thanh toán. Chi phí này có thể tăng lên rất cao, phụ thuộc vào
khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng trả nợ càng thấp, chi phí
phát hành càng cao. Đây cũng là một trong những rào cản chính với việc phát
hành trái phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, kể từ năm thứ hai trở đi trả theo lãi suất thả nổi theo biến động thị
trường. Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh theo sự biến động thị trường để đưa ra mức lãi
suất hợp lý. Cụ thể đó là việc gắn chặt thay đổi lãi suất với biến động lạm phát.
Giá
Lãi súât
Giá
Lãi súât
Giá
Suất sinh lợi
Suất sinh lợi
Đặc điểm kinh tế nổi bật ở Việt Nam là sự thay đổi từng ngày trong chỉ số giá tiêu
dùng, lạm phát đã tăng lên mức 2 con số. Do vậy chính phủ đã thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước đã quyết định
tăng gấp 2 lần tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thu hút một khối lượng lớn tiền từ lưu thông
về thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Một cách nhìn nhận cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam là lãi
suất thị trường luôn luôn biến động; các khoản vay dài hạn thường phải gánh chịu
rủi ro về lãi suất bất kể lãi suất được áp dụng là cố định hay thả nổi.
Nếu phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi thì rủi ro xuất hiện theo xu hướng
thị trường, nghĩa là các nhà đầu tư cũng như tổ chức phát hành khó có thể kiểm
soát được mức lãi suất tương lai. Nhưng bù lại rủi ro này là tổ chức phát hành luôn
có được mức chi phí vay hợp lý của thị trường.
Ngược lại, nếu trái phiếu phát hành có lãi suất cố định hay trái phiếu zero-
coupon thì rủi ro xuất hiện theo hướng ngược lại với thị trường. Nghĩa là khi lãi
suất thị trường lên cao hơn mức lãi suất trong hợp đồng vay thì đây là loại rủi ro
có lợi cho phía người đi vay, vì người đi vay được mức chi phí vay thấp hơn mức
đáng lẽ phải chịu từ thị trường. Còn nếu lãi suất thị trường giảm xuống thì người
đi vay phải chịu một chi phí cao hơn mức lãi hợp lý (mức lãi suất của thị trường).
Tuy nhiên, thông thường với trái phiếu lãi suất thả nổi, tổ chức phát hành cam kết
sẽ điều chỉnh tăng lãi suất trái phiếu khi lãi suất huy động vốn trên thị trường tăng,
ít nhất phải thay đổi lãi suất cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ; còn ngược lại
nếu lãi suất huy động vốn giảm thì mức lãi suất mà người sở hữu trái phiếu hưởng
sẽ được giữ nguyên.
Hơn nữa, để có thể xác định mức giá của trái phiếu thì rất khó. Với cổ phiếu
mà bạn sở hữu, bạn biết những nhà đầu tư khác sẵn lòng trả nó bao nhiêu, vì nhìn
chung cổ phiếu của công ty được bán suốt ngày và cổ phiếu được niêm yết trên sàn.
Nhưng với trái phiếu, tình huống này không đơn giản. Và trong thực tế, giá cả trên
các báo cáo có thể không giống như mức giá mà bạn đã trả.
Giá mà bạn nhìn thấy trên một báo cáo đối với những chứng khoán có thu
nhập ổn định, đặc biệt những chứng khoán mà ko được giao dịch, là một mức giá
lấy từ những nhà cung cấp giá cả của ngành, chứ ko phải mức giá trong phiên giao
dịch cuối. Mức giá lấy từ nguồn trên giải thích cho những nhân tố như là lãi súât
coupon, kỳ đáo hạn và việc đánh giá chất lượng. Giá cả cũng được dựa trên những
lô giao dịch lớn. Nhưng giá cả không thể giái thích cho nhân tố ảnh hưởng đến giá
thực mà bạn sẽ được đưa ra nếu bạn thực sự bán trái phiếu.
Bên cạnh đó, hầu hết trái phiếu không được niêm yết. Thông thường, để
đánh giá mức giá hỏi mua, bạn thường nhận cách đánh giá từ người giao dịch trái
phiếu. Trong thực tế, hai trái phiếu với cùng tỷ suất sinh lợi sẽ chi trả lãi súât khác
nhau. Nếu bạn đang mua một trái phiếu chủ yếu vì nguồn thu nhập thường xuyên,
không chỉ chú ý đến suất sinh lợi đáo hạn mà còn lãi súât coupon, vì vậy sẽ xác
định bạn thực sự nhận bao nhiêu tiền mỗi năm.
* Lạm phát: Lạm phát có ảnh hưởng tương tự như lãi súât. Khi lạm phát tăng, giá
của 1 trái phiếu có xu hứơng giảm vì trái phiếu ko thể trả đủ lãi súât để giữ theo
lạm phát. Nhớ rằng lãi súât coupon của trái phiếu nhìn chung ko đổi trong vòng
đời của trái phiếu
Kỳ đáo hạn của trái phiếu càng dài, có nhiều cơ hội rằng lạm phát sẽ tăng
nhanh tại vài điểm và giá trái phiếu thấp hơn. Đó là lý do mà trái phiếu có kỳ đáo
hạn dài đưa ra mức lãi súât cao hơn. Chúng cần làm vậy để thu hút những người
mua trái phiếu đang lo sợ tỷ lệ lạm phát tăng.
Nhìn chung, lạm phát ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng đặc biệt là từ
năm 2007 đến tháng 3/2008, tốc độ tăng rất mạnh. Nếu so với Malaysia thì Việt
Nam có lạm phát tăng rất cao.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước có tỷ lệ lạm phát cao thứ
hai.(khoảng 19.4%/tháng ) và có thể nói đây là tỷ lệ cao gấp hơn hai, ba lần so với
các nước khác.
Vào tháng 12/2006 tỷ lệ lạm phát tăng từ 6.6% lên mức 15,7% tính đến tháng
2/2008. Năm 2007 đã ghi nhận cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đáng lo ngại, ước
khoảng 9,3% - 9,7% GDP. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng gấn 40%, trong đó
máy móc thiết bị tăng 56,5% do nhu cầu đầu tư của các dự án lớn trong nước. Mức
tăng nhập khẩu cũng cao tương tự đối với nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu dùng
trong sản xuất hàng may mặc và giày dép xuất khẩu, hoá chất, sản xuất thức ăn giá
súc… ước tăng khoảng 40%.
Cũng đồng thời trong khoảng thời gian này, giá tài sản tại Việt Nam tăng cao
nhất trong vòng vài chục năm trở lại đây, khi mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Việt Nam là xúc tác, trợ lực cho giá cổ phiếu những tháng đầu năm 2007 tăng phi
mã, đã có lúc VN-Index lên đến trên 1.200 điểm. Tuy nhiên, cơn sốt cổ phiếu lập
tức chuyển qua kênh bất động sản vào những tháng cuối năm 2007, giá nhà đất tăng
đột biến, gây ra tình trạng bong bóng trên thị trường bất động sản.
* Về thuế:
Thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chính sách điều tiết của nhà
nước. Đặc biệt, hiện nay đang có tranh luận về việc nên hay không nên đánh thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trái phiếu chính phủ. Như chúng
ta đã biết, nếu đánh thuế thì lãi súât trái phiếu phải cao đủ để thu hút nhà đầu tư
mua trái phiếu. Mặt khác, nhà nước khi phát hành trái phiếu phải đưa ra mức lãi
súât cạnh tranh, đủ mức hấp dẫn nhà đầu tư so với mức lãi suất huy động vốn
ngân hàng. Chính vì thế, một khi quyết định đánh thuế thì sẽ làm tăng mức lãi
huy động của ngân hàng.
Do đó, nếu đánh thuế vào trái phiếu thì nhà nước sẽ đứng trước những khó
khăn: khi lãi súât giữ nguyên (khoảng 8-8.5% như hiện nay) thì trái phiếu sẽ
không hấp dẫn người mua, lúc đó thị trường trái phiếu không có tính thanh khoản
và phát triển. Nhưng khi tăng lãi súât thì mặt bằng lãi súât huy động vốn ở
NHTM tăng cao, lúc đó sẽ còn có nhiều vấn đề phát sinh.
3.1.9 Về đấu thầu trái phiếu:
Ngày 20/6/2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số
2276/2006/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC.
Theo đó, kể từ ngày 1/7/2006, các loại trái phiếu chính phủ bao gồm: trái
phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư được tập trung đấu thầu tại HASTC, nhằm tạo
ra một thị trường phát hành trái phiếu sơ cấp có tính chuyên môn hoá cao, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà phát hành và nhà đầu tư tham gia thị trường, từ đó dần hình
thành một thị trường trái phiếu chuyên biệt. Mặc dù thị trường đấu thầu đã có tính
cạnh tranh hơn, số lượng thành viên tham gia nhiều hơn và khối lượng đăng ký
đấu thầu trong thời gian gần đây đều vượt quá khối lượng gọi thầu, tuy nhiên do
việc đưa ra mức lãi suất trần thấp nên một số phiên đấu thầu đã không huy động
đủ 100% khối lượng gọi thầu.
Thực trạng hiện nay cho thấy các ngân hàng thương mại đang khó khăn về
vốn (do chính sách thắt chặt tiền tệ), lãi suất huy động cao hơn lãi suất đầu tư vào
trái phiếu chính phủ, nguồn tài chính của các công ty chứng khoán không dồi dào
do thị trường chứng khoán suy giảm mạnh. Do đó, dẫn đến việc có ít thành viên
tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ.
Về phía chính phủ: hiện đã có 63 thành viên đủ điều kiện tham gia đấu
đầu trái phiếu chính phủ tại HASTC. Ngoài 9 thành viên là các ngân hàng, quỹ
đầu tư nước ngoài, các thành viên còn lại chủ yếu là các ngân hàng thương mại,
công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm trong nước...
3.1.10 Về tình hình các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay:
Theo bảng cáo cáo quý 1 /2008 của BIS, ta thấy đến cúôi tháng 9/2007, ở Việt
Nam thu nhập ở ngân hàng là 1227 triệu USD (Malaysia là 14432 triệu USD), khu
vực nhà nứơc là 2291 triệu USD ( Malaysia 21 419 triệu USD), khu vực tư nhân là
5952 triệu USD (59 321 triệu USD), các hợp đồng phái sinh là 22 triệu USD (2072
triệu USD), bảo hiểm là 1843 triệu USD (15 242 triệu USD) và tín dụng là 2726
triệu USD. (Malaysia 22 538 tri ệu USD). Có thể thấy, thị trường vốn của
Malaysia lớn hơn 10 lần thị trường Việt Nam, phát triển rất mạnh về sản phẩm
phái sinh.
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
DN
2004 2005 2006
vốn
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN QUI MÔ DOANH NGHIỆP
0.5 tỷ
0.5 - 1 tỷ
1 - 5 tỷ
5- 10 tỷ
10 - 50tỷ
50 - 200 tỷ
200 -500 tỷ
500 tỷ trở lên
Nguồn: Tổng cục thống kê
Xét về qui mô vốn, phần lớn các doanh nghiệp có qui mô vốn từ 1-5 tỷ và
dưới 5 tỷ. Số doanh nghiệp có tăng nhưng nguồn vốn của các doanh nghiệp qua
các năm không có nhiều thay đổi. Đặc biệt, các doanh nghiệp có qui mô vốn lớn
chiếm 1 tỷ lệ quá ít so với tổng doanh nghiệp.
LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 2005
4%
93%
3%
DN nhà nước
DN ngoài nhà nước
DN có vốn đầu tư
nước ngoài
LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 2006
3%
94%
3%
DN nhà nước
DN ngoài nhà nước
DN có vốn đầu tư
nước ngoài
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp đều là DN ngoài nhà nước,cụ thể là
công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong khi đó, theo qui định nhà nứơc thì khối lượng
phát hành của một lô trái phiếu tối thiểu là 500 tỷ. Nhưng với qui mô công ty như
thế này thì liệu rằng có bao nhiêu doanh nghiệp có khả năng phát hành. Và do đó ,
thị trừơng trái phiếu doanh nghiệp sẽ không thể phát triển mạnh cũng như nâng
cao tính thanh khoản của nó.
Kết luận: ADB đã chỉ ra ba rủi ro chính đối với viễn cảnh thị trường trái
phiếu khu vực, bao gồm một giai đoạn suy thoái sâu ở Mỹ, những biến động tiếp
tục xảy ra trên thị trường vốn toàn cầu gây áp lực đốivới các nhà đầu tư, và lạm
phát tăng cao tại khu vực khiến nhiều quốc gia phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng.
Bên cạnh đó, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước VN cần tăng phát hành
trái phiếu để hạn chế mức tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán; tăng dự trữ
bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền gửi ngắn hạn và Chính phủ cần có những biện
pháp giảm thuế quan.
Từ đó ta rút ra 4 nguyên nhân chính khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp
chưa thể phát triển. Trước hết, thói quen tìm kiếm nguồn vốn từ ngân hàng đã ăn
sâu vào suy nghĩ của những doanh nghiệp Việt Nam. Khi cần tiền đầu tư cho một
dự án mới thì nguồn vốn đầu tiên mà công ty nghĩ đến là đi vay ngân hàng vì lãi
suất thấp.
Tuy nhiên, bởi có quá nhiều công ty vay vốn nên kỳ hạn cho vay của ngân
hàng thường chỉ dưới 1 năm. Vì thế, công ty rất khó trong việc tìm nguồn vốn cho
những dự án lớn có thời gian hoàn vốn lâu.
- Thứ ba, xuất phát từ việc thiếu cơ sở để ấn định lãi suất khi phát hành trái
phiếu nên khiến cho các doanh nghiệp lúng túng, thêm vào đó là sự hiểu biết của
doanh nghiệp về trái phiếu còn rất ít.
- Cuối cùng, sự thiếu quan tâm của các định chế tài chính trung gian trong
việc phát hành trái phiếu khiến việc phát hành đến với tay nhà đầu tư rất khó khăn.
Các cơ quan quản lý thị trường tiền tệ và TTCK chưa có sự hợp tác chặt chẽ với
nhau để có thể tạo ra một cở sở hạ tầng căn bản cho việc phát hành cũng như đầu
tư vào trái phiếu doanh nghiệp.
3.2 Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
Như đã đề cập ngay từ chương I, yếu tố quan trọng nhất cho một thị trường vốn
nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng, chính là tính thanh khoản. Thị trường trái
phiếu nào tính thanh khoản càng cao thì càng phát triển, do vậy các giải pháp đưa ra
nhằm phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam theo đề xuất của nhóm cũng chính là
các giải pháp nhằm cải thiện tính thanh khoản cho thị trường. Đặc biệt là tính thanh
khoản đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam.
Do vậy các nhóm giải pháp chia làm 2 loại:
1. Nhóm giải pháp khả thi có thể thực hiện để phát triển thị trường trong giai
đoạn hiện nay : Mô hình phát hành trái phiếu quy mô vừa và nhỏ.
2. Các giải pháp hỗ trợ: bao gồm các vấn đề về kinh tế vĩ mô, nâng cao năng
lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động giám sát thị trường, chiến lược phát
triển thị trường trái phiếu chính phủ, các vấn đề về chính sách thuế, các vấn đề
thuộc về bản thân do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.pdf