Chuyên đề Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam

Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp đều là DN ngoài nhà nước,cụ thể là

công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong khi đó, theo qui định nhà nứơc thì khối lượng

phát hành của một lô trái phiếu tối thiểu là 500 tỷ. Nhưng với qui mô công ty như

thế này thì liệu rằng có bao nhiêu doanh nghiệp có khả năng phát hành. Và do đó ,

thị trừơng trái phiếu doanh nghiệp sẽ không thể phát triển mạnh cũng nh ư nâng

cao tính thanh khoản của nó.

 Kết luận: ADB đã chỉ ra ba rủi ro chính đối với viễn cảnh thị trường trái

phiếu khu vực, bao gồm một giai đoạn suy thoái sâu ở Mỹ, những biến động tiếp

tục xảy ra trên thị trường vốn toàn cầu gây áp lực đốivới các nhà đầu tư, và lạm

phát tăng cao tại khu vực khiến nhiều quốc gia phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng.

Bên cạnh đó, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước VN cần tăng phát hành

trái phiếu để hạn chế mức tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán; tăng dự trữ

bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền gửi ngắn hạn và Chính phủ cần có những biện

pháp giảm thuế quan.

pdf86 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77%. 3.1.4 Kỳ hạn của trái phiếu: Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm, dài nhất là 10 năm. Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm, đầu tư vào các công trình thuỷ điện, cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Để khuyến khích các nhà đầu tư, phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) là quyền mua cổ phiếu với mức giá ưu đãi. Trong một thị trường tài chính phát triển , trái phiếu thường có thời hạn từ trên 20 năm cho đến 30 năm. Ngoài ra, trái phiếu chính phủ đã từng bước được đa dạng về kỳ hạn nhưng chủ yếu là kỳ hạn 5 năm, các loại kỳ hạn khác như (2 năm; 3 năm; 7 năm; 10 năm và 15 năm...) chưa được duy trì đều đặn. Sự đơn điệu về kỳ hạn trái phiếu đã không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư trái phiếu trong thời gian qua. Các ngân hàng thường hạn chế trong việc cho vay các khoản vay dài hạn như thế vì rủi ro cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong điều kiện lạm phát cao, môi trường chính sách không đảm bảo và do tác động khá nhạy cảm của các biến động kinh tế quốc tế đã gây nên tâm lý thiếu tin tưởng của các nhà đầu tư khi đầu tư vào một loại trái phiếu có thời hạn quá dài. Tâm lý e ngại này có thể là do: Việt Nam ngày càng có xu hướng gia tăng về biên độ giá mua/bán. Đặc biệt, năm 2007 biên độ này tăng hơn gấp đôi nghĩa là mức độ rủi ro trên thị trường vào năm 2007 gia tăng và rủi ro tương đối cao so với những nước khác. Cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ phần nào đem lại lợi ích cho thị trường trái phiếu nội tệ của Đông Á. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ thắt chặt tín dụng hiện nay, các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ đang nổi lên ở Đông Á được lợi nhờ việc giới đầu tư đẩy mạnh tìm kiếm các kênh đầu tư sinh lời hấp dẫn bên ngoài thị trường Mỹ. Tuy nhiên, khi rủi ro gia tăng trên thị trường toàn cầu, giới đầu tư ngoại bắt đầu thoái lui khỏi thị trường châu Á, dẫn tới mức độ bất ổn tăng cao tại các thị trường vốn trong khu vực. Trong bối cảnh rủi ro tăng cao, tính thanh khoản yếu của các loại trái phiếu nội tệ của khu vực là yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường. 3.1.5 Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp: Đây là một trong những tiêu chí quan trọng với nhà tài trợ vốn. Chất lượng của bất kỳ trái phiếu nào đều được dựa trên khả năng tài chính của nhà phát hành để thanh tóan lãi suất và hòan trả khỏan tiền vay tại kỳ đáo hạn. Dịch vụ đánh giá giúp đánh giá sự tin cậy về tín dụng của trái phiếu. Vài trái phíêu, như là trái phiếu đô thị, có thể được đảm bảo bởi bên thứ ba. Các tiêu chí phát hành không được quy định rõ ràng; thiếu thông tin; các quy định điều chỉnh việc chào bán riêng lẻ không đầy đủ và hệ thống giao dịch trái phiếu không đồng bộ. Vào tháng 12 năm 2007, CIC (Credit Information Center). Những thông tin này rất quan trọng đối với ngân hàng và các nhà đầu tư, tuy nhiên, chúng cũng chỉ có ý nghĩa tại thời điểm xếp hạng , không phải trong cả một giai đoạn. Nếu việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp được thực hiện định kỳ, ít nhất là hàng tháng hoặc hàng quí, chắc chắn chúng sẽ trở nên hữu ích hơn cho người sử dụng. Hiện nay, CIC mới chỉ cung cấp dịch vụ xếp hạng tín dụng theo yêu cầu, chưa phổ biến ra công chúng do chi phí khá cao (khoảng 60 000 VND/lần hỏi tin). Sau đây là chuẩn xếp hạng tín nhiệm của các nước: Moody's Standard & Poor's chất lượng cao nhất Aaa AAA chất lượng cao Aa AA mức độ đầu tư trên trung bình A - 1,A A trung bình Baa - 1,Baa BBB đầu cơ Ba BB mức độ không đầu tư rủi ro Ca, C D Nguồn: www.investingbonds.com Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nào thực hiện dịch vụ cung cấp các chỉ tiêu xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, từ đó là cơ sở để xếp hạng trái phiếu doanh nghiệp là một rào cản cho các doanh nghiệp nhỏ khi phát hành trái phiếu. Thêm vào đó, chi phí phát hành cổ phiếu thấp không khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu. 3.1. 6 Điều khoản trái phiếu: - Mục đích phát hành trái phiếu: với các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nêu rõ, cụ thể phương án phát hành trái phiếu. Chưa hề có một tổ chức nào đứng ra định giá hay thẩm định các dự án đầu tư của doanh nghiệp. - Phương thức trả lãi: đa phần các doanh nghiệp trả lãi định kỳ hằng năm. - Đối với loại trái phiếu zero-coupon thì việc thanh toán được thực hiện vào ngày đáo hạn, không trả lãi định kỳ. - Nguồn thanh toán lãi: việc thanh toán lãi cho người nắm giữ trái phiếu được doanh nghiệp lấy từ hoạt động có lời của dự án. Riêng đối với trái phiếu phát hành có tài sản đảm bảo thì thực trạng hiện nay cho thấy các doanh nghiệp chưa công khai các bản báo cáo về việc sử dụng tài sản, các tỷ số đánh giá mức độ sử dụng hiệu quả. - Vấn đề tỷ giá: khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế thì đây là vấn đề gay nhiều “nhức nhối” do tỷ giá VND biến hóa khôn lường trước những biến động thị trường. Trong năm 2007, VND được coi là bị đánh giá cao so với USD. Nguyên nhân chính là từ thị trường cho vay cầm cố của Mỹ. Do đó mà kết quả điều tra cho thấy, (theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)), giao dịch trái phiếu của các nhà ĐTNN tăng 55% trong năm 2007. So với lãi suất 4 - 5%/năm ở nước ngoài, lãi suất 8,5%/năm của trái phiếu chính phủ Việt Nam được coi là rất hấp dẫn, nhất là trong bối cảnh VND đang lên giá so với USD. Khi trái phiếu đáo hạn, chuyển từ VND sang USD sẽ có lợi, như thế nhà ĐTNN mua trái phiếu được lợi cả đôi đường. Mặt khác cũng từ nguyên nhân trong nước, những mặt yếu kém trong cách quản lý và hành xử trước biến động thị trường của cấp quản lý.  Tình trạng nhập siêu của nền kinh tế.  Các doanh nghiệp có vốn FDI chuyển lợi nhuận về nước do kết thúc niên độ kế toán.  Cung USD giảm do Ngân hàng nhà nước đã mua số lượng lớn USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu và vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán vẫn chưa giải ngân do diễn biến thị trường bất lợi.  Bên cạnh đó, việc mở rộng biên độ giao dịch cho tỷ giá, thực hiện thí điểm mua ngoài tệ theo phương thức thỏa thuận ở ngân hàng thương mại,…cũng đã có những tác dụng nhất định, giúp cho thị trường tiền tệ được linh hoạt hơn và phản ánh tốt hơn đối với sự thay đổi chung của thị trường tiền tệ quốc tế. - Tiềm lực tài chính doanh nghiệp: do tốc độ tăng trưởng nền kinh tế mà số lượng thành lập các công ty ngày càng tăng, đặc biệt là các công ty TNHH. Trước những diễn biến phức tạp trên thị trường tài chính Việt Nam,nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng nắm giữ trái phiếu ngày càng nhiều. Điều này càng thấy rõ tiềm năng phát triển của thị trường trái phiếu trong tương lai. - Dòng tiền doanh nghiệp: Đối với trái phíêu doanh nghiệp, có các nhân tố khác : tình hình tài chính công ty và dòng tiền hoạt động. Các nhà phân tích trái phiếu xem doanh nghiệp có đủ tiền mặt để thanh tóan khỏan nợ cho chủ nợ. Nếu một trong những tổ chức xếp hạng cho rằng tình hình tài chính tín dụng của công ty nằm dưới mức đầu tư (BBB), giá trái phiếu gần như giảm. Mặt khác đặc biệt đối với các nhà phát hành, Nghị định 52 chưa có thông tư hướng dẫn, tuy nhiên theo thông lệ, việc bảo lãnh phát hành thường là bảo lãnh với nỗ lực tối đa, theo đó tổ chức bảo lãnh bằng khả năng và nỗ lực của mình chào bán trái phiếu cho nhà đầu tư và bảo lãnh khối lượng trái phiếu mà nhà đầu tư đăng ký mua. Cách thức này hạn chế nhiều rủi ro cho tổ chức bảo lãnh vì họ không phải cam kết ngay từ đầu về việc bảo lãnh toàn bộ khối lượng trái phiếu phát hành, thay vì họ chỉ phải xác định nghĩa vụ bảo lãnh của mình sau khi đã xác định khối lượng đặt mua và lãi suất mong muốn của nhà đầu tư. Để đợt phát hành thành công, có nhiều yếu tố chi phối, tuy nhiên năng lực của tổ chức bảo lãnh là rất quan trọng, đòi hỏi phải là những tổ chức uy tín, có nhiều kinh nghiệm, và đặc biệt có hệ thống khách hàng là các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm rộng khắp. Ngoài ra, tài liệu chào bán phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và thường được xây dựng theo tiêu chuẩn Eurobond. Đặc biệt là bản công bố thông tin phát hành, giới thiệu về quá trình hình thành và phát triển DN, rủi ro, hoạt động kinh doanh, chiến lược, tình hình tài chính, các dự án đầu tư... Đây là nguồn thông tin rất quan trọng để nhà đầu tư đánh giá về DN và trái phiếu. Để đảm bảo số liệu cung cấp trong bản công bố thông tin là trung thực, tổ chức thu xếp thường yêu cầu một tổ chức kiểm toán kiểm tra và xác nhận những số liệu trên bản công bố thông tin nhằm gia tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư. Phát hành trái phiếu còn giúp DN tiết kiệm chi phí trả lãi so với cách huy động vốn bằng đi vay và phát hành cổ phiếu. Lãi suất cho vay bình quân của khối NHTM hiện vào khoảng 11 - 15%/năm đối với các kỳ hạn trên 1 năm tuỳ từng đối tượng khách hàng. Cổ tức chi trả cho các cổ đông nắm giữ trái phiếu bình quân khoảng 12 - 14%/ năm. Trong khi lãi suất coupon trái phiếu có kỳ hạn 5 năm cao nhất hiện nay trên thị trường là 10,5%/năm (trái phiếu Sông Đà phát hành tháng 8/2006), thấp nhất là 8,15%/năm (trái phiếu BIDV phát hành tháng 7/2007). Như vậy, phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn có chi phí trả lãi thấp. Hơn nữa, phát hành trái phiếu đòi hỏi thời gian ít hơn so với thời gian đi vay hoặc phát hành cổ phiếu. Thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ khâu chuẩn bị đến khi hoàn tất giao dịch mất bình quân 6 - 8 tuần. Tuy nhiên, nếu đi vay ngân hàng hay phát hành cổ phiếu, DN sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ. Một ưu điểm khác của trái phiếu là cho phép DN huy động được khối lượng vốn lớn. Rõ ràng, nếu DN có nhu cầu trên 1.000 tỷ đồng thì họ có thể tiếp cận nguồn vốn từ phát hành trái phiếu dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành cổ phiếu. Khó khăn trong việc bán trái phiếu một phần là do đầu tư bất động sản có lợi hơn nhiều. Một vài động thái của chính phủ trước diễn biến phức tạp của thị trường: nâng biên độ dao động tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ lên mức +/- 2%: Biên độ dao động mới được nới rộng thêm 1,25% theo yêu cầu từ các ngân hàng và các thành viên tham gia thị trường ngoại hối nhằm nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh và giúp nhiều ngân hàng thương mại chủ động hơn trong việc đưa ra một tỷ giá linh hoạt hằng ngày. Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ sẽ được triển khai để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư ra nước ngoài; không hạn chế các nguồn cung chứng khoán hiện tại trên thị trường, Chính phủ đã chỉ đạo các ban ngành có kế hoạch thực hiện các đợt IPO, không hạn chế số lượng các công ty niêm yết, đồng thời tiếp tục thực hiện quyết định 03 về cho vay chứng khoán. Bên cạnh đó, chính phủ cũng đang xem xét việc thành lập công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài, cũng như tăng tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài đối với các công ty đại chúng chưa niêm yết. 3.1.8 Tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây: * Về tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối ổn định và có xu hướng tăng. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, để có thể hoàn thành mục tiêu kiểm soát lạm phát thì tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 sẽ chậm lại. Nhìn chung so với các thị trường trong khu vực, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao (8.5% vào năm 2006). * Về lãi suất: Trước tiên, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ giữa giá cả, lãi súât và suất sinh lợi khi đầu tư vào trái phiếu như sau: Những nhà đầu tư sẵn lòng trả cho 1 trái phiếu bị ảnh hưởng nhiều bởi LS lưu hành. Người mua tìm kíêm mức giá thấp TSSL trên 1 trái phiếu là suất sinh lợi hàng năm, bị ảnh hưởng phần lớn bởi giá cả mà người mua trả cho nó. Người mua tìm kiếm những trái phiếu có TSSL cao Nhìn chung là trả lãi sau với phương thức trả lãi hàng năm với lãi suất cố định. Riêng chỉ có tổng công ty Sông Đà và tập đoàn Điện lực phát hành trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất trái phiếu Chính phủ hoặc lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngoài lãi vay, các doanh nghiệp phát hành còn phải trả một khoản phí hay hoa hồng cho các dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành và bảo lãnh thanh toán. Chi phí này có thể tăng lên rất cao, phụ thuộc vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng trả nợ càng thấp, chi phí phát hành càng cao. Đây cũng là một trong những rào cản chính với việc phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, kể từ năm thứ hai trở đi trả theo lãi suất thả nổi theo biến động thị trường. Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh theo sự biến động thị trường để đưa ra mức lãi suất hợp lý. Cụ thể đó là việc gắn chặt thay đổi lãi suất với biến động lạm phát. Giá Lãi súât Giá Lãi súât Giá Suất sinh lợi Suất sinh lợi Đặc điểm kinh tế nổi bật ở Việt Nam là sự thay đổi từng ngày trong chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát đã tăng lên mức 2 con số. Do vậy chính phủ đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước đã quyết định tăng gấp 2 lần tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thu hút một khối lượng lớn tiền từ lưu thông về thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Một cách nhìn nhận cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam là lãi suất thị trường luôn luôn biến động; các khoản vay dài hạn thường phải gánh chịu rủi ro về lãi suất bất kể lãi suất được áp dụng là cố định hay thả nổi. Nếu phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi thì rủi ro xuất hiện theo xu hướng thị trường, nghĩa là các nhà đầu tư cũng như tổ chức phát hành khó có thể kiểm soát được mức lãi suất tương lai. Nhưng bù lại rủi ro này là tổ chức phát hành luôn có được mức chi phí vay hợp lý của thị trường. Ngược lại, nếu trái phiếu phát hành có lãi suất cố định hay trái phiếu zero- coupon thì rủi ro xuất hiện theo hướng ngược lại với thị trường. Nghĩa là khi lãi suất thị trường lên cao hơn mức lãi suất trong hợp đồng vay thì đây là loại rủi ro có lợi cho phía người đi vay, vì người đi vay được mức chi phí vay thấp hơn mức đáng lẽ phải chịu từ thị trường. Còn nếu lãi suất thị trường giảm xuống thì người đi vay phải chịu một chi phí cao hơn mức lãi hợp lý (mức lãi suất của thị trường). Tuy nhiên, thông thường với trái phiếu lãi suất thả nổi, tổ chức phát hành cam kết sẽ điều chỉnh tăng lãi suất trái phiếu khi lãi suất huy động vốn trên thị trường tăng, ít nhất phải thay đổi lãi suất cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ; còn ngược lại nếu lãi suất huy động vốn giảm thì mức lãi suất mà người sở hữu trái phiếu hưởng sẽ được giữ nguyên. Hơn nữa, để có thể xác định mức giá của trái phiếu thì rất khó. Với cổ phiếu mà bạn sở hữu, bạn biết những nhà đầu tư khác sẵn lòng trả nó bao nhiêu, vì nhìn chung cổ phiếu của công ty được bán suốt ngày và cổ phiếu được niêm yết trên sàn. Nhưng với trái phiếu, tình huống này không đơn giản. Và trong thực tế, giá cả trên các báo cáo có thể không giống như mức giá mà bạn đã trả. Giá mà bạn nhìn thấy trên một báo cáo đối với những chứng khoán có thu nhập ổn định, đặc biệt những chứng khoán mà ko được giao dịch, là một mức giá lấy từ những nhà cung cấp giá cả của ngành, chứ ko phải mức giá trong phiên giao dịch cuối. Mức giá lấy từ nguồn trên giải thích cho những nhân tố như là lãi súât coupon, kỳ đáo hạn và việc đánh giá chất lượng. Giá cả cũng được dựa trên những lô giao dịch lớn. Nhưng giá cả không thể giái thích cho nhân tố ảnh hưởng đến giá thực mà bạn sẽ được đưa ra nếu bạn thực sự bán trái phiếu. Bên cạnh đó, hầu hết trái phiếu không được niêm yết. Thông thường, để đánh giá mức giá hỏi mua, bạn thường nhận cách đánh giá từ người giao dịch trái phiếu. Trong thực tế, hai trái phiếu với cùng tỷ suất sinh lợi sẽ chi trả lãi súât khác nhau. Nếu bạn đang mua một trái phiếu chủ yếu vì nguồn thu nhập thường xuyên, không chỉ chú ý đến suất sinh lợi đáo hạn mà còn lãi súât coupon, vì vậy sẽ xác định bạn thực sự nhận bao nhiêu tiền mỗi năm. * Lạm phát: Lạm phát có ảnh hưởng tương tự như lãi súât. Khi lạm phát tăng, giá của 1 trái phiếu có xu hứơng giảm vì trái phiếu ko thể trả đủ lãi súât để giữ theo lạm phát. Nhớ rằng lãi súât coupon của trái phiếu nhìn chung ko đổi trong vòng đời của trái phiếu Kỳ đáo hạn của trái phiếu càng dài, có nhiều cơ hội rằng lạm phát sẽ tăng nhanh tại vài điểm và giá trái phiếu thấp hơn. Đó là lý do mà trái phiếu có kỳ đáo hạn dài đưa ra mức lãi súât cao hơn. Chúng cần làm vậy để thu hút những người mua trái phiếu đang lo sợ tỷ lệ lạm phát tăng. Nhìn chung, lạm phát ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng đặc biệt là từ năm 2007 đến tháng 3/2008, tốc độ tăng rất mạnh. Nếu so với Malaysia thì Việt Nam có lạm phát tăng rất cao. So với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước có tỷ lệ lạm phát cao thứ hai.(khoảng 19.4%/tháng ) và có thể nói đây là tỷ lệ cao gấp hơn hai, ba lần so với các nước khác. Vào tháng 12/2006 tỷ lệ lạm phát tăng từ 6.6% lên mức 15,7% tính đến tháng 2/2008. Năm 2007 đã ghi nhận cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đáng lo ngại, ước khoảng 9,3% - 9,7% GDP. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng gấn 40%, trong đó máy móc thiết bị tăng 56,5% do nhu cầu đầu tư của các dự án lớn trong nước. Mức tăng nhập khẩu cũng cao tương tự đối với nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản xuất hàng may mặc và giày dép xuất khẩu, hoá chất, sản xuất thức ăn giá súc… ước tăng khoảng 40%. Cũng đồng thời trong khoảng thời gian này, giá tài sản tại Việt Nam tăng cao nhất trong vòng vài chục năm trở lại đây, khi mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam là xúc tác, trợ lực cho giá cổ phiếu những tháng đầu năm 2007 tăng phi mã, đã có lúc VN-Index lên đến trên 1.200 điểm. Tuy nhiên, cơn sốt cổ phiếu lập tức chuyển qua kênh bất động sản vào những tháng cuối năm 2007, giá nhà đất tăng đột biến, gây ra tình trạng bong bóng trên thị trường bất động sản. * Về thuế: Thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chính sách điều tiết của nhà nước. Đặc biệt, hiện nay đang có tranh luận về việc nên hay không nên đánh thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trái phiếu chính phủ. Như chúng ta đã biết, nếu đánh thuế thì lãi súât trái phiếu phải cao đủ để thu hút nhà đầu tư mua trái phiếu. Mặt khác, nhà nước khi phát hành trái phiếu phải đưa ra mức lãi súât cạnh tranh, đủ mức hấp dẫn nhà đầu tư so với mức lãi suất huy động vốn ngân hàng. Chính vì thế, một khi quyết định đánh thuế thì sẽ làm tăng mức lãi huy động của ngân hàng. Do đó, nếu đánh thuế vào trái phiếu thì nhà nước sẽ đứng trước những khó khăn: khi lãi súât giữ nguyên (khoảng 8-8.5% như hiện nay) thì trái phiếu sẽ không hấp dẫn người mua, lúc đó thị trường trái phiếu không có tính thanh khoản và phát triển. Nhưng khi tăng lãi súât thì mặt bằng lãi súât huy động vốn ở NHTM tăng cao, lúc đó sẽ còn có nhiều vấn đề phát sinh. 3.1.9 Về đấu thầu trái phiếu: Ngày 20/6/2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 2276/2006/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC. Theo đó, kể từ ngày 1/7/2006, các loại trái phiếu chính phủ bao gồm: trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư được tập trung đấu thầu tại HASTC, nhằm tạo ra một thị trường phát hành trái phiếu sơ cấp có tính chuyên môn hoá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà phát hành và nhà đầu tư tham gia thị trường, từ đó dần hình thành một thị trường trái phiếu chuyên biệt. Mặc dù thị trường đấu thầu đã có tính cạnh tranh hơn, số lượng thành viên tham gia nhiều hơn và khối lượng đăng ký đấu thầu trong thời gian gần đây đều vượt quá khối lượng gọi thầu, tuy nhiên do việc đưa ra mức lãi suất trần thấp nên một số phiên đấu thầu đã không huy động đủ 100% khối lượng gọi thầu. Thực trạng hiện nay cho thấy các ngân hàng thương mại đang khó khăn về vốn (do chính sách thắt chặt tiền tệ), lãi suất huy động cao hơn lãi suất đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nguồn tài chính của các công ty chứng khoán không dồi dào do thị trường chứng khoán suy giảm mạnh. Do đó, dẫn đến việc có ít thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ.  Về phía chính phủ: hiện đã có 63 thành viên đủ điều kiện tham gia đấu đầu trái phiếu chính phủ tại HASTC. Ngoài 9 thành viên là các ngân hàng, quỹ đầu tư nước ngoài, các thành viên còn lại chủ yếu là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm trong nước... 3.1.10 Về tình hình các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay: Theo bảng cáo cáo quý 1 /2008 của BIS, ta thấy đến cúôi tháng 9/2007, ở Việt Nam thu nhập ở ngân hàng là 1227 triệu USD (Malaysia là 14432 triệu USD), khu vực nhà nứơc là 2291 triệu USD ( Malaysia 21 419 triệu USD), khu vực tư nhân là 5952 triệu USD (59 321 triệu USD), các hợp đồng phái sinh là 22 triệu USD (2072 triệu USD), bảo hiểm là 1843 triệu USD (15 242 triệu USD) và tín dụng là 2726 triệu USD. (Malaysia 22 538 tri ệu USD). Có thể thấy, thị trường vốn của Malaysia lớn hơn 10 lần thị trường Việt Nam, phát triển rất mạnh về sản phẩm phái sinh. 0 5000 10000 15000 20000 25000 30000 35000 40000 45000 DN 2004 2005 2006 vốn BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN QUI MÔ DOANH NGHIỆP 0.5 tỷ 0.5 - 1 tỷ 1 - 5 tỷ 5- 10 tỷ 10 - 50tỷ 50 - 200 tỷ 200 -500 tỷ 500 tỷ trở lên Nguồn: Tổng cục thống kê Xét về qui mô vốn, phần lớn các doanh nghiệp có qui mô vốn từ 1-5 tỷ và dưới 5 tỷ. Số doanh nghiệp có tăng nhưng nguồn vốn của các doanh nghiệp qua các năm không có nhiều thay đổi. Đặc biệt, các doanh nghiệp có qui mô vốn lớn chiếm 1 tỷ lệ quá ít so với tổng doanh nghiệp. LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 2005 4% 93% 3% DN nhà nước DN ngoài nhà nước DN có vốn đầu tư nước ngoài LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 2006 3% 94% 3% DN nhà nước DN ngoài nhà nước DN có vốn đầu tư nước ngoài Nguồn: Tổng cục thống kê Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp đều là DN ngoài nhà nước,cụ thể là công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong khi đó, theo qui định nhà nứơc thì khối lượng phát hành của một lô trái phiếu tối thiểu là 500 tỷ. Nhưng với qui mô công ty như thế này thì liệu rằng có bao nhiêu doanh nghiệp có khả năng phát hành. Và do đó , thị trừơng trái phiếu doanh nghiệp sẽ không thể phát triển mạnh cũng như nâng cao tính thanh khoản của nó.  Kết luận: ADB đã chỉ ra ba rủi ro chính đối với viễn cảnh thị trường trái phiếu khu vực, bao gồm một giai đoạn suy thoái sâu ở Mỹ, những biến động tiếp tục xảy ra trên thị trường vốn toàn cầu gây áp lực đốivới các nhà đầu tư, và lạm phát tăng cao tại khu vực khiến nhiều quốc gia phải hy sinh mục tiêu tăng trưởng. Bên cạnh đó, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước VN cần tăng phát hành trái phiếu để hạn chế mức tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán; tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% đối với tiền gửi ngắn hạn và Chính phủ cần có những biện pháp giảm thuế quan. Từ đó ta rút ra 4 nguyên nhân chính khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa thể phát triển. Trước hết, thói quen tìm kiếm nguồn vốn từ ngân hàng đã ăn sâu vào suy nghĩ của những doanh nghiệp Việt Nam. Khi cần tiền đầu tư cho một dự án mới thì nguồn vốn đầu tiên mà công ty nghĩ đến là đi vay ngân hàng vì lãi suất thấp. Tuy nhiên, bởi có quá nhiều công ty vay vốn nên kỳ hạn cho vay của ngân hàng thường chỉ dưới 1 năm. Vì thế, công ty rất khó trong việc tìm nguồn vốn cho những dự án lớn có thời gian hoàn vốn lâu. - Thứ ba, xuất phát từ việc thiếu cơ sở để ấn định lãi suất khi phát hành trái phiếu nên khiến cho các doanh nghiệp lúng túng, thêm vào đó là sự hiểu biết của doanh nghiệp về trái phiếu còn rất ít. - Cuối cùng, sự thiếu quan tâm của các định chế tài chính trung gian trong việc phát hành trái phiếu khiến việc phát hành đến với tay nhà đầu tư rất khó khăn. Các cơ quan quản lý thị trường tiền tệ và TTCK chưa có sự hợp tác chặt chẽ với nhau để có thể tạo ra một cở sở hạ tầng căn bản cho việc phát hành cũng như đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp. 3.2 Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam Như đã đề cập ngay từ chương I, yếu tố quan trọng nhất cho một thị trường vốn nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng, chính là tính thanh khoản. Thị trường trái phiếu nào tính thanh khoản càng cao thì càng phát triển, do vậy các giải pháp đưa ra nhằm phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam theo đề xuất của nhóm cũng chính là các giải pháp nhằm cải thiện tính thanh khoản cho thị trường. Đặc biệt là tính thanh khoản đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy các nhóm giải pháp chia làm 2 loại: 1. Nhóm giải pháp khả thi có thể thực hiện để phát triển thị trường trong giai đoạn hiện nay : Mô hình phát hành trái phiếu quy mô vừa và nhỏ. 2. Các giải pháp hỗ trợ: bao gồm các vấn đề về kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động giám sát thị trường, chiến lược phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, các vấn đề về chính sách thuế, các vấn đề thuộc về bản thân do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan