Chuyên đề Mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 4

NỘI DUNG 6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6

1.1. Tổng quan về NHTM 6

1.1.1. Khái niệm NHTM 6

1.1.2. Các hoạt động của NHTM 6

1.1.2.1. Huy động vốn 6

1.1.2.2. Sử dụng vốn 7

1.1.2.3. Hoạt động trung gian 8

1.2. Hoạt động cho vay của NHTM 8

1.2.1. Khái niệm cho vay 8

1.2.2. Nguyên tắc cho vay 9

1.2.2.1. Khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích 9

1.2.2.2. Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi đúng thời hạn 9

1.2.3. Qui trình cho vay 9

1.2.4. Các loại hình cho vay 10

1.2.4.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay 10

1.2.4.2. Căn cứ vào hình thức đảm bảo 10

1.2.4.3. Căn cứ vào cách thức cho vay 11

1.2.4.4. Căn cứ vào phương thức cho vay 12

1.2.4.5. Các hình thức phân loại khác 14

1.3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM 14

1.3.1. Sự cần thiết mở rộng cho vay 14

1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay của NHTM 15

1.3.2.1. Các chỉ tiêu của ngân hàng 15

1.3.2.2. Các chỉ tiêu của khách hàng 20

1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay của NHTM 21

1.3.3.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng 21

1.3.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng 25

1.3.3.3. Các nhân tố khác 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO BAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG YÊN VIÊN 29

2.1. Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên 29

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 29

2.1.2. Cơ cấu tổ chức 30

2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây 30

2.2. Thực trạng mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên 32

2.2.1. Giới thiệu chung về làng nghề Ninh Hiệp 32

2.2.2. Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Ninh Hiệp 34

2.2.2.1. Về thị trường 36

2.2.2.2. Về tổ chức sản xuất 38

2.2.2.3. Về lao động và giải quyết việc làm 39

2.2.2.4. Về trang bị máy móc thiết bị 40

2.2.3. Nhu cầu vốn của làng nghề Ninh Hiệp 40

2.2.4. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 44

2.2.3.1. Qui trình , điều kiện cho vay của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 44

2.2.2.2. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp 46

2.2.3. Đánh giá hoạt động mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 51

2.2.3.1. Những kết quả đạt được 51

2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 51

2.2.3.2.1. Hạn chế 51

2.2.3.2.2. Nguyên nhân 52

CHƯƠNG 3: GIAI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI CHỊ NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG YÊN VIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 55

3.1. Mục tiêu mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 55

3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên 55

3.2.1. Cải tiến qui trình, điều kiện, thủ tục cho vay 55

3.2.1.1. Cải tiến qui trình cho vay 55

3.2.1.2. Cải tiến các điều kiện vay vốn 56

3.2.1.3. Cải tiến thủ tục cho vay 58

3.2.2. Áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt và phù hợp 59

3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức cho vay 60

3.2.3.1. Cho vay theo hạn mức 60

3.2.3.2. Cho vay gián tiếp qua các tổ chức trung gian 61

3.2.3.3. Cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay 61

3.2.3.4. Cho vay bằng nguồn vốn ủy thác 62

3.2.4. Mở rộng thông tin, tuyên truyền nhằm tiếp cận làng nghề 63

3.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng 64

3.2.6. Tăng cường và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ 66

3.3. Kiến nghị 67

3.3.1. Kiến nghị đối với các cấp chính quyền 67

3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam 68

KẾT LUẬN 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

 

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dịch nhỏ bé, có thể nói Ngân hàng Công Thương Yên Viên đã và đang từng bước phát triển mạnh, khẳng định vị trí quan trọng trên địa bàn, góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Căn cứ vào Quyết định số 325/QĐ-HĐQT, ngày 28/03/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên trở thành chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng Công Thương TW và thành lập 7 phòng nghiệp vụ sau: Phòng khách hàng cá nhân: Có 5 Quỹ Tiết kiệm trực thuộc: Quỹ TK 45, 57, 59, 78, 85. Phòng khách hàng doanh nghiệp Phòng kho quỹ Phòng tài chính- kế toán: Có hai tổ trực thuộc là Tổ điện toán và Tổ dịch vụ thẻ. Phòng tổ chức hành chính Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ Phòng tài trợ thương mại Hiện nay chi nhánh đã thành lập thêm Phòng giao dịch Ninh Hiệp đặt tại xã Ninh Hiệp. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây Trong những năm vừa qua, nhất là trong giai đoạn 2003-2005, sau khi trở thành chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng Công Thương TW, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên đã đạt được những kết quả kinh doanh khả quan. Nguồn vốn huy động tăng trưởng đều đặn qua các năm: Năm 2004 đạt 387 tỷ đồng tăng 129 tỷ đồng (tăng 50%) so với năm 2003. Năm 2005 đạt 580 tỷ đồng tăng 193 tỷ đồng (tăng 49,87%) so với năm 2004. Nếu so sánh với khi còn là Phòng giao dịch Yên Viên, tổng huy động vốn khi đó đạt khoảng 25 tỷ đồng. Trong cơ cấu huy động thì tiền gửi dân cư chiếm tỷ lệ rất lớn: năm 2003 chiếm 88,37%, năm 2004 chiếm 89,66%, năm 2005 chiếm 88,79%. Nếu phân chia nguồn vốn huy động theo loại tiền cho thấy vốn VND vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn, thường trên 80%, tuy có thay đổi qua các năm nhưng thay đổi không lớn. Năm 2005 vốn ngoại tệ đã có dấu hiệu tăng lên, chiếm tỷ trọng 22%. Hoạt động cho vay: cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao, trung bình 70-80%, còn lại là cho vay trung, dài hạn. Năm 2003 cho vay đạt 480 tỷ đồng, năm 2004 đạt 600 tỷ đồng tăng 25% so với 2003, năm 2005 đạt 513 tỷ đồng giảm 14,5% so với 2004. Nhu cầu vay trung, dài hạn bằng ngoại tệ lớn hơn nhu cầu vay ngắn hạn bằng ngoại tệ. Hoạt động dịch vụ năm 2005 tăng hơn so với các năm trước đó: năm 2005 thu hoạt động dịch vụ đạt 1,7 tỷ đồng so với năm 2004 là 1,2 tỷ đồng và năm 2005 là 0,8 tỷ đồng. Các dịch vụ ngân hàng đã ngày càng được cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Với phương châm chung của toàn hệ thống Ngân hàng Công Thương: “Nhanh chóng- Chính xác- An toàn- Hiệu quả” Thực hiện mở mới L/C hàng nhập với trị giá trung bình mỗi năm khoảng 1 triệu USD, xử lý các bộ chứng từ hàng nhập, chứng từ nhờ thu hàng nhập, thông báo L/C hàng xuất... Thực hiện các khoản thanh toán quốc tế có khối lượng lớn cho một số công ty như Công ty cổ phần sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì Hà Nội, Công ty xuất nhập khẩu công trình Hà Nội, Tổng công ty ô tô Việt Nam... Các dịch vụ chuyển tiền, thanh toán trong nước được mở rộng tới mọi địa phương trên cả nước và tới bất kỳ ngân hàng nào trong cũng như ngoài hệ thống với thời gian được rút ngắn rất nhiều. Hoạt động thẻ rút tiền tự động ATM bắt đầu được triển khai trong năm 2005, lắp đặt và sử dụng máy ATM ngay tại trụ sở của Chi nhánh, số lượng thẻ được mở đang ngày càng tăng Chênh lệch thu- chi năm 2005 của Chi nhánh đạt 10 tỷ đồng. Sau khi tách khỏi Ngân hàng Công Thương Chương Dương trở thành Chi nhánh cấp I vào đầu năm 2003, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên còn nhiều khó khăn trong triển khai hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận sau thuế không cao, nhưng năm sau luôn cao hơn năm trước: năm 2003 là 2,3 tỷ đồng, năm 2004 là 5,4 tỷ đồng, năm 2005 là 8,2 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngày càng đem lại hiệu quả cao hơn.Tuy lợi nhuận không cao nhưng chi nhánh Yên Viên luôn quan tâm đến việc trích lập dự phòng rủi ro nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn tín dụng. Chính vì vậy hoạt động kinh doanh của Chi nhánh được đảm bảo an toàn và chất lượng tín dụng được nâng cao. 2.2. Thực trạng mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên 2.2.1. Giới thiệu chung về làng nghề Ninh Hiệp Ninh Hiệp là một xã thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, cách Hà Nội 18 km về phía Bắc sông Đuống. Ninh Hiệp xưa gọi là làng Phù Ninh hay làng Nành, so với các địa phương vùng nông thôn có những điểm khác biệt. Ngay từ khi mới hình thành Ninh Hiệp đã không chia ra các thôn mà chỉ có đơn vị xóm, ở liền nhau, được gọi theo các số tự nhiên 1,2,...,9. Nằm trong cái nôi văn hóa Việt cổ, nơi hội tụ những tinh hoa của hai dòng văn hóa: văn hóa Kinh Bắc với yếu tố nghề và văn hóa Thăng Long với truyền thống kinh doanh thương trường. Suốt hàng nghìn năm lịch sử người dân Ninh Hiệp đã biết khai thác những nguồn lực tự nhiên và xã hội để phát triển các nghề thủ công phục vụ con người. Ninh Hiệp nổi tiếng khắp cả nước là một vùng “đất trăm nghề”, là một làng đa nghề, có sự kết hợp của nghề truyền thống và nghề mới. Xưa kia Ninh Hiệp thông với sông Đuống, giao thông thuận tiện, phía Tây đất màu mỡ thích hợp cho việc trồng dâu, nuôi tằm nên ở đây sớm có nghề dệt lụa, kéo theo là nghề nhuộm. Vào thời Lý Nhân Tông, kỹ nghệ dệt thủ công ở khu vực phía Bắc sông Đuống rất phát triển, chợ Nành đã trở thành trung tâm trao đổi các sản phẩm tơ tằm, dệt nhuộm của các tỉnh châu thổ sông Hồng. Cũng vào thời Lý có bà Lý nương đã truyền cho dân làng cách trồng và chế biến các loại cây thành thuốc chữa bệnh. Ngay từ thế kỷ 17-18 làng Phù Ninh đã là một môn phái trong y học cổ truyền Việt Nam. Nghề thuốc phát triển cả y và dược, đặc biệt ngành dược buôn bán rất phát đạt. Cuối thế kỷ 19 người làng Nành còn học được nghề da, sau đó những người biết nghề này đã sang kinh thành Thăng Long xưa mở hiệu đóng yên ngựa, giày da, guốc dép, lập nên phố Hà Trung hiện nay vẫn còn đang làm và buôn bán hàng da và giả da khá nhộn nhịp. Với truyền thống làng nghề lâu đời như vậy các nghề ở Ninh Hiệp cứ ngày càng được phát triển, mở rộng hơn. Khi Nhà nước thực hiện chính sách “mở cửa”, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân thì người dân Ninh Hiệp đã nhanh chóng trở nên giàu có nhờ buôn bán với bên ngoài. Hiện nay các nghề chính ở Ninh Hiệp là: buôn bán vải, may gia công, bán quần áo may sẵn, chế biến dược liệu, buôn bán thuốc Nam, thuốc Bắc, chế biến hạt sen, long nhãn, tinh dầu, chè Thanh nhiệt... Ngay từ năm 1995 chính quyền xã Ninh Hiệp đã xây dựng “Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển làng nghề truyền thống xã Ninh Hiệp theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa đến năm 2000 và các năm tiếp theo”. Đến tháng 9/2004 thành phố Hà Nội đã ra quyết định 150/2004/QĐ-UB phê duyệt quy hoạch chi tiết Cụm công nghiệp Ninh Hiệp. Sau đó công tác giải phóng mặt bằng với diện tích khoảng 60 ha, xây dựng các công trình bên ngoài hàng rào... đang được thực hiện. Hoạt động buôn bán vải được đẩy mạnh thông qua việc tu bổ nâng cấp chợ vải Ninh Hiệp (lấy lại tên cổ là chợ Nành). Huyện Gia Lâm cũng đã phê duyệt dự án xây dựng chợ dược liệu, trung tâm chế biến dược liệu (được thành phố hỗ trợ 1 tỷ đồng). Toàn xã có 3020 hộ với 14136 nhân khẩu làm ăn trên 488 ha đất tự nhiên. Theo định hướng phát triển của huyện Gia Lâm và thành phố Hà Nội, Ninh Hiệp sẽ trở thành một khu trung tâm thương mại, dịch vụ, công nghiệp của các xã bắc sông Đuống. 2.2.2. Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Ninh Hiệp Do là làng đa nghề nên so với những làng nghề khác, hoạt động sản xuất, kinh doanh ở Ninh Hiệp diễn ra rất sôi động quanh năm không ngừng nghỉ. Truyền thống làm nghề lâu đời cùng môi trường kinh tế xã hội ở địa phương đã nuôi dưỡng và rèn luyện nên những con người có năng lực, kinh nghiệm kinh doanh buôn bán. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ là nguồn thu lớn nhất và luôn tăng trưởng đều đặn qua các năm, điều này được thể hiện qua kết quả kinh tế toàn xã hai năm 2004, 2005. Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Số tiền Kết cấu Số tiền Kết cấu Tổng sản phẩm toàn xã 240,75 100% 268,45 100% Sản xuất CN, tiểu thủ CN 132,69 55,12% 150,223 55,96% Thương mại, dịch vụ 88,8 36,88% 102,12 38,04% Sản xuất nông nghiệp 19,26 8% 16,107 6% Năm 2005 thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ đạt 252,343 tỷ đồng chiếm 94% tổng sản phẩm toàn xã, tăng 30,853 tỷ đồng so với năm 2004 (tăng 13,93%). Riêng giá trị ngành thương mại, dịch vụ đạt 102,12 tỷ đồng tăng 15% so với năm 2004. Sản xuất nông nghiệp tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng bà con nông dân vẫn bảo đảm chắc ăn hai vụ lúa trong năm, giá trị đạt hơn 50 triệu đồng 1 ha canh tác. Những kết quả đạt được này đã vượt chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ xã đã đề ra từ năm 2000. Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành nghề trong tổng sản phẩm toàn xã: (tỷ đồng) Năm 2005 ở Ninh Hiệp tỷ lệ hộ giàu đã chiếm trên 25% (hơn 755 hộ), hộ nghèo chỉ còn 0,63% (19 hộ). Mức tăng trưởng bình quân đạt 11,5%/năm. Mục tiêu do chính quyền xã đặt ra đến năm 2010 là: tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt từ 11,5% đến 12%. Nâng tỷ trọng thu từ công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ lên 96,8%, hộ nghèo giảm còn 0,15%, thu nhập bình quân 1 người/năm là 7,5 triệu đồng. Những con số này phản ánh quyết tâm của Ninh Hiệp hướng tới cái đích công nghiệp hóa- hiện đại hóa nền kinh tế đa dạng của mình. Nếu như chỉ dựa vào nông nghiệp như các xã khác thì không thể đạt tới một cuộc sống đô thị mà Ninh Hiệp đang vươn tới. Ninh Hiệp xứng đáng là điển hình của ngoại thành Hà Nội, là trọng điểm thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn. 2.2.2.1. Về thị trường Không như những làng nghề chỉ có một nghề chính, là làng đa nghề với nhiều mặt hàng nên thị trường của Ninh Hiệp rất rộng lớn. Ngay từ khi Nhà nước cho phép mở cửa buôn bán với nước ngoài, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động thị trường, các cơ sở sản xuất tư nhân được phép trực tiếp xuất khẩu... thương nhân Ninh Hiệp đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội để mở rộng hoạt động. Họ trực tiếp mở rộng quan hệ buôn bán sang Trung Quốc, Hồng Kông, Campuchia... qua con đường xuất nhập khẩu tiểu ngạch. Ngoài nguồn cung cấp vải trong nước chủ yếu từ Hà Nội, các hộ buôn bán vải lớn tại Ninh Hiệp đều có những vệ tinh đầu vào từ Trung Quốc, Hồng Kông. Còn những hộ buôn nhỏ không có vốn thì mua lại hàng tồn, hàng ế để bán lẻ cho người tiêu dùng, chưa bao giờ bị lỗ cả. Thị trường đầu ra cho những người bán vải ở Ninh Hiệp thì vô cùng, trải dài từ Bắc vào Nam, từ chợ Đồng Xuân, sân bay Nội Bài, Nha Trang, đến thành phố Hồ Chí Minh... Ngoài bán buôn thương nhân Ninh Hiệp còn bán lẻ thông qua hoạt động vô cùng sầm uất của chợ vải Ninh Hiệp (chợ Nành)_ là chợ vải lớn nhất nước, là trạm trung chuyển vải khổng lồ của các tỉnh phía bắc. Ngày nay chợ Ninh Hiệp đã được mở rộng ra phía ngoài hình thành khu phố chợ với những cửa hàng khang trang, là nơi tập trung kinh doanh buôn bán vải của thương nhân, nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân theo hình thức bán buôn, bán lẻ, đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Chợ Ninh Hiệp đáp ứng mọi nhu cầu về vải cho khách hàng, từ vải trong nước đến vải Trung Quốc, vải nhập ngoại cao cấp. Người tiêu dùng từ người mua lẻ đến mua buôn từ lâu vẫn rất thích mua vải ở Ninh Hiệp vì “mua tận gốc bán tận ngọn”. Có những người Ninh Hiệp sáng sớm đã sang Hà Nội lấy hàng, chiều lại giao hàng cho khách ở Hà Nội về lấy. Ninh Hiệp đã có uy tín với khách hàng như vậy. Không chỉ có vậy, nói đến chợ Ninh Hiệp không thể không nhắc đến hàng trăm vệ tinh khác của nó ở Hà Nội và các tỉnh khác. Riêng ở chợ Đồng Xuân (Hà Nội) phải có đến hơn 200 quầy hàng là của người Ninh Hiệp. Từ Bắc vào Nam nơi nào cũng có đại lý của người Ninh Hiệp. Ngoài mặt hàng truyền thống là vải, những năm gần đây, Ninh Hiệp còn mở rộng nghề gia công may mặc, quần áo may sẵn cũng đã trở thành mặt hàng quan trọng đứng sau vải trong hoạt động kinh doanh tại Ninh Hiệp. Còn đối với nghề thuốc, chủ yếu tập trung ở hai xóm 7 và 8 với khoảng vài trăm hộ. Vào buổi sáng, chợ xóm 8 trở thành nơi các loại thuốc đã qua sơ chế tập trung về đây buôn bán, trao đổi. Do điều kiện đất canh tác bị thu hẹp, dân số tăng quá nhanh người Ninh Hiệp không có điều kiện trồng nhiều cây thuốc nữa mà chủ yếu phải thu mua từ khắp các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên...thuốc nam từ vùng chùa Hương, chùa Thầy. Nhưng chủ yếu là nhập về từ Trung Quốc. Các loại nguyên liệu được tập trung về Ninh Hiệp chế biến, gia công, sấy khô sau đó được đóng gói phân bổ đi các nơi. Các hộ chế biến dược liệu ở Ninh Hiệp có tay nghề giỏi, nắm được nhiều bí quyết trong nghề đối với một số mặt hàng thuốc mà chưa nơi nào học được. Do đó mặt hàng thuốc xuất đi các nơi rất có uy tín, được coi là một trong những điểm trung chuyển thuốc đông y lớn vào hàng nhất nhì ở miền bắc. Các mặt hàng sen khô, long nhãn, tinh dầu, chè Thanh nhiệt... cũng đều được tiêu thụ rộng khẵp trên thị trường cả nước và xuất khẩu (Trung Quốc, Campuchia...). Từ năm 1998 đến nay chỉ riêng mặt hàng sen khô mỗi năm Ninh Hiệp xuất khoảng 10.000 tấn sen khô đã qua chế biến sang Trung Quốc đổi lấy thuốc bắc về Việt Nam. Như vậy có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Ninh Hiệp có thị trường rất rộng, không chỉ trong nước mà còn cả xuất khẩu sang nhiều nước. Điều này đòi hỏi các thương nhân Ninh Hiệp phải ngày càng hoàn thiện sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm, cùng với nhu cầu ngày càng lớn của thị trường còn cần mở rộng sản xuất, tìm kiếm những nguồn hàng mới, cung cấp các sản phẩm đa dạng hơn. 2.2.2.2. Về tổ chức sản xuất Người dân Ninh Hiệp với truyền thống kinh doanh buôn bán đã biết phát huy khả năng của mình vào hoạt động kinh tế. Nhiều thương nhân sau một thời gian tích lũy vốn đã đầu tư vào sản xuất để trở thành những cơ sở sản xuất kinh doanh. Để tổ chức sản xuất kinh doanh người trong gia đình thường làm những công việc quản lý, giao dịch, tiêu thụ sản phẩm hay chỉ làm những công việc về bí quyết gia truyền còn lại là thuê nhân công. Sự phân công công việc mang tính chuyên môn hóa cao hơn. Một số cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động có hiệu quả do mở rộng được thị trường đã thành lập các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân với hình thức xưởng trung tâm và xưởng vệ tinh. Xưởng trung tâm tập trung những thợ bậc cao chuyên làm những khâu kỹ thuật thuộc bí quyết nghề. Nhưng số cơ sở như vậy không nhiều. Tính toàn xã có đến hơn 600 hộ sản xuất kinh doanh có vốn lớn từ mấy trăm triệu đến hàng tỷ đồng nhưng hầu hết chỉ đăng ký là hộ sản xuất kinh doanh. Vì sao qui mô sản xuất lớn như vậy mà các hộ lại không đăng ký là công ty để thuận lợi trong các quan hệ đối tác, có ưu đãi về vay vốn, xuất nhập khẩu hàng hóa? Nguyên nhân chính là do tâm lý của các hộ kinh doanh tại đây, họ đều ngại thủ tục đăng ký thành lập công ty phiền hà, phải hạch toán sổ sách nhiều. Cả xã chỉ có vài chục hộ hạch toán bằng sổ sách kế toán theo yêu cầu của phòng thuế vì doanh thu của họ quá lớn. Còn lại các hộ vẫn làm theo kiểu “sổ chợ”, đây chính là lý do mà khi chợ Đồng Xuân cháy nhiều thương nhân Ninh Hiệp đã bị vỡ nợ, sổ nợ cháy theo hàng. Ngoài các hình thức tổ chức như trên ở Ninh Hiệp còn có HTX dịch vụ tổng hợp hoạt động khá hiệu quả cơ bản đáp ứng được các nhu cầu về cung ứng dịch vụ của toàn xã, thu nhập bình quân của mỗi xã viên từ 320.000 đến 550.000/tháng và có tích lũy tái đầu tư. 2.2.2.3. Về lao động và giải quyết việc làm Riêng hoạt động của chợ vải thu hút lao động của 90% hộ gia đình trong xã. Chủ thể kinh doanh tại chợ không chỉ là người tiểu nông, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ mà thương nhân, chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh, nhóm kinh doanh ngày càng nhiều. Nghề may cắt gia công có khoảng hơn 200 hộ, mỗi hộ thuê khoảng 60 lao động trong xã và các xã xung quanh may gia công. Với nhiều dự án của Chính phủ, của thành phố Hà Nội như: xây dựng trung tâm thương mại, dịch vụ, bến ôtô Bắc Nam, quốc lộ 1B, khu công nghiệp, khu chế xuất vừa và nhỏ, khu chung cư, đường vành đai 3... diện tích đất canh tác của Ninh Hiệp bị giảm mạnh lao động thuần nông dư thừa. Dự án xây dựng chợ dược liệu, trung tâm chế biến dược liệu đã được phê duyệt. Khi những công trình này đi vào xây dựng và hoạt động sẽ thu hút không chỉ người dân Ninh Hiệp mà cả lao động ở nơi khác đến làm việc. Đây là biện pháp chuyển dịch kinh tế nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. 2.2.2.4. Về trang bị máy móc thiết bị Đối với nghề thuốc, chế biến vẫn mang tính chất thủ công, không có lò sấy chuyên dùng mà chỉ là lò do các hộ tự dựng lên. Nghề may cắt gia công đã được cơ khí hóa hầu hết các công đoạn chính. Hơn 200 hộ làm nghề may cắt gia công ở Ninh Hiệp đã sử dụng 4000 đầu máy may chạy điện. Có 20 hộ sử dụng máy cắt công nghiệp, cắt từ 200-300 sản phẩm/ngày bằng dao chuyên dụng. Với các hộ buôn bán vải thì khi giao dịch với chủ hàng ở Hồng Kông, Trung Quốc đã dùng những phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, fax, internet. Tiền hàng được thanh toán qua bưu điện, hàng chuyển theo đường hàng không hay đường sắt. Ở Ninh Hiệp cũng bắt đầu có một số gia đình cho con cái ra Hà Nôi học vi tính để dùng vi tính thay cho sổ sách, nhưng chưa nhiều. Tóm lại, hoạt động sản xuất kinh doanh ở làng nghề Ninh Hiệp vô cùng sôi động, không chỉ có hoạt động trong nước mà cả hoạt động xuất nhập khẩu với khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn. Trên đà phát triển này cùng với những dự án xây dựng của thành phố và địa phương, hoạt động sản xuất kinh doanh ở đây sẽ ngày càng được mở rộng. 2.2.3. Nhu cầu vốn của làng nghề Ninh Hiệp Cũng như mọi lĩnh vực khác vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ làng nghề diễn ra ổn định và có thể mở rộng. Với nhịp độ phát triển sôi động như hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh ở Ninh Hiệp ngày càng được mở rộng, nhu cầu vốn của người Ninh Hiệp ngày càng lớn. Thực tế ở Ninh Hiệp cho thấy chu kỳ sản xuất kinh doanh của các hộ, cơ sở sản xuất là ngắn, thường chỉ kéo dài 3 tháng, 6 tháng đến 12 tháng vì mặt hàng là vải, nông sản, dược liệu... nên có tính mùa vụ rất cao. Ví dụ, riêng đối với mặt hàng vải, do yêu cầu của thị trường tiêu thụ thì mỗi mùa đều phải có những loại vải khác nhau phù hợp với nhu cầu may mặc từng mùa, ngoài ra phải thường xuyên cập nhật nhiều loại vải mới, thay đổi mẫu mã liên tục đáp ứng nhu cầu thời trang may mặc. Do đó nhu cầu vốn của Ninh Hiệp chủ yếu là ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động, quay vòng vốn để nhập hàng mới cho mùa sau. Tuy nhiên đối với các hộ chế biến dược liệu hay hộ gia công may mặc, nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị mới cũng rất lớn. *Đối với nghề buôn bán vải: Theo thống kê của xã, để bắt đầu bán hàng vải trong chợ một thương nhân cần ít nhất 400-500 triệu đồng để thuê kiốt, lấy hàng từ các đại lý buôn bán vải lớn trong xã. Đối với người Ninh Hiệp, do nghề buôn bán vải đã có từ lâu đời và thường truyền cho con cháu trong nhà, mức độ tích lũy vốn để tái đầu tư tương đối cao nên với số vốn 400-500 triệu để mở kiốt bán vải thường là bố mẹ bỏ ra ban đầu cho con, anh chị trong nhà cho em. Vì vậy đối tượng thương nhân bán vải nhỏ lẻ trong chợ tuy rất đông (khoảng hơn 1000 người) nhưng họ hầu như không có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Những hộ kinh doanh lớn, đại lý cung cấp vải ở Ninh Hiệp mới là đối tượng có nhu cầu vốn lớn mà ngân hàng và các tổ chức cho vay khác cần hướng tới. Ở Ninh Hiệp có khoảng hơn 100 hộ buôn lớn như vậy. Những đại lý này thường xuyên sang Trung Quốc, Hồng Kông lấy hàng, cứ khoảng hai lần một tháng là có đợt nhập hàng mới, vốn lưu động vì vậy quay vòng rất nhanh, nhu cầu vốn lưu động rất lớn, ước tính khoảng 650 tỷ đồng/năm. *Đối với nghề may cắt quần áo gia công, chế biến dược liệu, nông sản Hiện nay mới có 20/400 hộ có nghề may cắt gia công tại Ninh Hiệp sử dụng máy cắt công nghiệp, còn lại là máy may chạy điện. Do đó sản phẩm do Ninh Hiệp làm ra có chất lượng không cao, chỉ có thể bán được với giá thấp, không mở rộng được thị trường tiêu thụ. Để nâng cao năng suất, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn ước tính những hộ này cần vốn khoảng 250 tỷ đồng để mua sắm máy cắt công nghiệp, máy may công nghiệp, thay thế máy cũ đã hết giá trị sử dụng. Các hộ làm nghề chế biến dược liệu, nông sản thì đều chưa có máy sấy chuyên dùng nên có nhu cầu vốn để cải thiện công nghệ, xây dựng qui trình chế biến hiện đại. Vì thị trường tiêu dùng ngày càng đòi hỏi các sản phẩm, nhất là các sản phẩm thuốc, nông sản phải sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây độc hại cho người sử dụng. Việc người Ninh Hiệp sử dụng diêm sinh để sấy cũng đã gây lo lắng cho người tiêu dùng gây ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ. Mặt khác đối với những hộ kinh doanh, làm đại lý cung cấp dược liệu thì nhu cầu vốn lưu động cũng rất lớn. Các hộ này thường mỗi tuần một lần phải sang Trung Quốc nhập hàng, mỗi đợt hàng khoảng 4, 5 tấn. Để hoạt động được như vậy các hộ phải có vốn mua xe, vốn để trả trước một phần tiền hàng cho chủ hàng Trung Quốc. Ở Ninh Hiệp có khoảng vài trăm hộ kinh doanh nghề thuốc như vậy nên số vốn lưu động ước tính phải cần đến 200 tỷ đồng/năm, vốn để mua sắm tài sản cố định (xe tải, máy sấy...) xấp xỉ 300 tỷ đồng. Như vậy theo ước tính nhu cầu vốn lưu động của Ninh Hiệp khoảng 850 tỷ đồng/năm; nhu cầu vốn trung, dài hạn để mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ, di chuyển sản xuất vào khu công nghiệp... là khoảng 550 tỷ đồng. Do đặc điểm sản xuất kinh doanh từ lâu đời, quan hệ với bạn hàng Trung Quốc đã nhiều năm nên khi nhập hàng mới chỉ phải trả trước một phần tiền hàng, phần còn lại sau khi bán hàng thu được tiền mới phải trả phần còn lại. Trên 60% vốn lưu động để kinh doanh là vốn tự có (khoảng trên 510 tỷ đồng) còn lại là vốn vay, trong đó vay ngân hàng chỉ chiếm khoảng 10% (khoảng 85 tỷ đồng), vay của người cho vay nặng lãi, vay của bạn bè... chiếm khoảng 30% còn lại, chủ yếu là vay nặng lãi. Về vốn trung, dài hạn, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bằng vốn tự có, phần còn lại là nhu cầu rất lớn của Ninh Hiệp đang đợi các ngân hàng khai thác. Người dân làng nghề ít vay vốn ngân hàng mặc dù có nhu cầu lớn là do hai nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu cần vốn nhanh chóng thậm chí cần ngay lập tức của thương nhân Ninh Hiệp. Thứ hai là do người có nhu cầu vay không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng về chứng minh khả năng tài chính, lập phương án sử dụng vốn vay, các yêu cầu về tài sản đảm bảo... Chính vì vậy họ chọn lựa giải pháp vay nặng lãi mặc dù chịu lãi suất cao, nhưng ngay lập tức có vốn. Với thời gian vay cực ngắn thì đây là giải pháp hiệu quả hơn đi vay ngân hàng. Tuy nhiên những con số trên mới chỉ là ước tính trong thời điểm hiện tại. Theo định hướng phát triển, Ninh Hiệp trở thành trung tâm cung cấp vải và phụ kiện ngành may cho toàn miền Bắc, hoạt động kinh doanh vải ngày càng mở rộng, hoạt động buôn bán, xuất nhập khẩu với nước ngoài sẽ ngày càng phát triển. Hoạt động kinh doanh trong thời kỳ mới có thể vượt quá khả năng vốn tự có của các thương nhân ở đây. Khi đó nhu cầu vay vốn lưu động của ngân hàng chắc chắn sẽ tăng cao hơn. Và khi khu công nghiệp Ninh Hiệp được xây dựng xong, theo chủ trương của các cấp lãnh đạo các hộ may cắt gia công cần được tập trung lại thành xưởng may, công ty may mặc, các hộ chế biến dược liệu tập trung thành các xưởng chế biến, công ty chế biến dược liệu, nông sản. Khi đó các hộ cần phải tiến hành xây dựng nhà xưởng mới, mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải mới, trả tiền thuê đất,...nhu cầu vốn trung, dài hạn vì vậy cũng ngày càng cao. Trong tương lai nhu cầu vốn của Ninh Hiệp chắc chắn sẽ còn tăng lên nữa. 2.2.4. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 2.2.3.1. Qui trình , điều kiện cho vay của Ngân hàng Công Thương Yên Viên Trong toàn hệ thống Ngân hàng Công Thương áp dụng điều kiện vay vốn và qui trình cho vay thống nhất cho mọi đối tượng khách hàng. Khách hàng muốn vay vốn ngân hàng phải đáp ứng đủ những điều kiện sau: - Có năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối với khách hàng doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào phương án/ dự án phục vụ sản xuất kinh doanh hay phục vụ đời sống. Trường hợp vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tham gia vào phương án/ dự án vay vốn thấp hơn mức quy định, ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho vay căn cứ vào tính hiệu quả, khả năng đảm bảo trả nợ của phương án/ dự án. Có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có lãi., nếu bị lỗ thì phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận cấp bù lỗ. - Phương án/ dự án đầu tư hoặc dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống phải khả thi, có hiệu quả kèm theo phương án trả nợ khả thi. - Thực hiện các biện pháp tài sản đảm bảo tiền vay. - Phải mua bảo hiểm tài sản nếu tài sản là đối tượng vay vốn mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm. - Đối với khách hàng là cá nhân phải có hộ khẩu thường trú hoặc có xác nhận cư trú thường xuyên tại cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi các chi nhánh củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 132.doc
Tài liệu liên quan