Với chức năng là trung gian tín dụng của nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại thực hiện tập trung huy động vốn tạm thời nhàn dỗi trong xã hội và phân phối lại dưới hình thức cho vay. Từ đó giúp cho các đơn vị có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, thúc đẩy sản xuất và phát triển, thông qua đó mà Ngân hàng cũng có thể tồn tại và phát triển.
Tín dụng Ngân hàng được coi là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Cùng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, hoạt động Ngân hàng cũng không ngừng phát triển, hoàn thiện. Hơn nữa tín dụng Ngân hàng cần được xem là công cụ của Nhà nước để quản lý nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế quốc doanh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực khác đã làm tăng thêm lượng dư thừa trong xã hội. Nhưng với sự phát triển không ngừng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã giải quyết một lực lượng lao động rất lớn cho xã hội cụ thể năm 1999 thu hút hơn 66.000 lao động. Thông qua việc đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tổ chức lại cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả lao động của xã hội. Từ đó cũng góp một phần cho xã hội ổn định và văn minh hơn.
Sáu là: Kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một thị trường vốn tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng cho sự phát triển của ngành Ngân hàng.
Kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực kinh tế rộng lớn, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Nó trở thành một thị trường đầy tiềm năng cần được khai thác của các ngành Ngân hàng. Vì theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và nước ngoài nếu tốc độ tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn khu vực kinh tế quốc doanh bình quân 1%/ năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm nước ta trong 15 đến 20 năm tới sẽ như sau: Kinh tế quốc doanh chiếm 10%, còn kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 90%.
Tóm lại: Định hướng phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có điều kiện tồn tại, hoạt động và phát triển. Sau hơn 10 năm đổi mới, khu vực kinh tế này đã thể hiện rõ vị trí của mình và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tồn tại và phát triển tốt là dựa trên những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước...Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra một môi trường pháp lý bình đăng tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp có điều kiện vươn lên. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng phải đương đầu với những khó khăn rất lớn là các thành phần kinh tế này mới được hình thành và phát triển nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, quy mô còn nhỏ, hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện. Hơn nữa trình độ quản lý tổ chức của các thành viên trong khu vực này còn chưa cao. Do vậy, để có thể đứng vững và phát huy được vai trò của mình, kinh tế ngoài quốc doanh cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, công nghệ ...đặc biệt là vốn và pháp luật. Nhìn chung tình trạnh phổ biến ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là thiếu vốn sản xuất kinh doanh do vốn tự có còn quá nhỏ bé, họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài với một chi phí lớn và không ổn định. Nguồn vốn chính mà kinh tế ngoài quốc doanh nên tiếp cận là nguồn vay từ Ngân hàng.
Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất thế giới, nó được thành lập đầu tiên vào năm 1782 tại Hoa Kỳ.
Do sự biến động của nền kinh tế, trong xã hội xuất hiện tầng lớp có của ăn của để, mà họ cần có một nơi gửi tiền an toàn. Đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp dân cư này, những người thợ kim hoàn đã nghĩ ra một công việc mới vì vậy ngân hàng sơ khai ra đời. Giai đoạn đầu, người chủ chỉ nhận giữ tiền vàng và họ được hưởng một khoản tiền gọi là chi phí giữ tiền hộ. Nhưng trong quá trình nhận giữ tiền như vậy họ nhận ra rằng không chỉ có những người có tiền cần gửi mà còn có nhiều người cần vay tiền. Do vậy họ đã thay đổi cách kinh doanh của mình. Họ không chỉ nhận gửi tiền mà họ còn cho vay. Toàn bộ khoản tiền mà khách hàng gửi vào, người chủ chỉ giữ lại một phần nhất định còn lại họ đem cho vay. Từ đó họ thu được một khoản lãi từ người đến vay tiền. Mặt khác người chủ sẽ trả cho người gửi tiền một khoản tiền nhất định (đây chính là tiền lãi). Hoạt động của ngân hàng sơ khai đã thay đổi. Các nghiệp vụ, các hoạt động của Ngân hàng được phát triển dần từng bước theo đà phát triển của kinh tế. Ngân hàng đã mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như thanh toán, chuyển tiền, kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài sản... Ngân hàng thời hiện đại ra đời, nó mang tính chất kinh doanh về lĩnh vực tiền tệ và tài sản. Ngày nay hệ thống Ngân hàng thương mại được phát triển rộng khắp các nước trên thế giới, đồng thời nó cũng mở rộng các lĩnh vực hoạt động thêm như: nghiệp vụ thuê mua, nghiệp vụ chiết khấu ... các nghiệp vụ này luôn cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng để từ đó thoả mãn những nhu cầu của chính mình.
ở Việt Nam, thời kì Pháp thuộc chưa có ngân hàng riêng của mình. Pháp chỉ xây dựng một nhà băng riêng (nhà băng Đông Dương) để phục vụ cho quân Pháp. Năm 1947, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh thành lập nha tín dụng sản xuất để phục vụ cho hoạt động mang tính chất tín dụng. Đến năm 1951, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh số 15 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam để phục vụ nhu cầu khôi phục đời sống phía bắc. Còn phía Nam thì vẫn do lính ngụy thành lập và cũng mang tên Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Do đó Ngân hàng quốc gia Việt Nam phía Bắc phải đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan đến tiền tệ, ngân sách nhà nước. Đến năm 1976, chúng ta duy trì ngân hàng một cấp và đến năm 1988, nhà nước chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng chuyển từ một cấp sang thành hai cấp. Toàn bộ nền kinh tế có sự chuyển biến lớn. Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta không ngừng phát triển, mở rộng. Nó đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:
* Nghiệp vụ huy động vốn: Huy động vốn là việc Ngân hàng tập trung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn bao gồm:
- Vốn tiền gửi: Là số tiền khách hàng gửi Ngân hàng dưới các hình thức khác nhau.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có thời hạn và không có thời hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là số tiền mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Nhưng cần phải phân biệt tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tạm thời. Tiền gửi tạm thời là số tiền gửi "qua đêm hay trong một ngày". Loại tiền gửi không kỳ hạn thường được tính lãi suất rất thấp. Đặc trưng của nguồn vốn này là biến động thường xuyên và đây là nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có nguyên tắc, người gửi chỉ được rút ra khi đến kỳ hạn thanh toán đã thoả thuận (trừ trường hợp đặc biệt). Đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay có kỳ hạn của Ngân hàng thương mại.
+Tiền gửi dân cư: Gồm tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn).
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Trái phiếu Ngân hàng, kỳ phiếu, chứng từ có giá là nguồn vốn Ngân hàng nhận được bằng việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi.
Vay Ngân hàng Trung ương hoặc các Ngân hàng khác: Đây là khoản vốn Ngân hàng tìm kiếm trên thị trường liên Ngân hàng từ Ngân hàng Trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. Họ có thể vay bằng tiền hoặc bằng cách thuê tài sản. Nó được sử dụng chủ yếu để hỗ trợ cho khả năng thanh toán và bổ sung vốn tín dụng ngắn hạn.
Nguồn vốn huy động bằng cách phát hành chứng chỉ và đi vay các ngân hàng mang tính chất chủ động, vì ngân hàng lúc nào cần mới đi vay.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh nguồn vốn này thường do nhà nước cấp phát từ ngân sách nhà nước. Ngân hàng thương mại cổ phần thì nguồn vốn này được tạo thành từ việc phát hành cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh thì nguồn vốn chủ sở hữu là do góp vốn liên doanh. Ngoài ra các loại ngân hàng này còn có thể bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận ngân hàng hàng năm.
- Ngoài ra các Ngân hàng còn có các nguồn khác: Nguồn vốn tiếp nhận qua uỷ thác đầu tư. Nguồn này nảy sinh khi tổ chức nào đó nhờ Ngân hàng quản lý giúp, đầu tư tài chính, nguốn vốn này không có thường xuyên và không phải Ngân hàng nào cũng có.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh. Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, hoạt động này phản ánh đúng tính chất của ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay. Bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay truyền thống, có vị trí cơ bản trong hoạt động sử dụng và khai thác các nguồn của Ngân hàng thương mại với thời gian quy định dưới một năm. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thường mại (NHTM) có thể cho vay ngắn hạn dưới các hình thức sau:
+ Cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu.
+ Bảo lãnh: gồm ngân hàng bảo lãnh và đồng bảo lãnh.
+ Cho vay chiết khấu chứng từ có giá.
+ Nghiệp vụ thấu chi.
- Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng cơ bản. Đây là việc ngân hàng thương mại hỗ trợ các khách hàng có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện các dự án có thời gian thu hồi vốn trên 12 tháng. Cho vay trung hạn thường từ 2 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn khoảng trên 5 năm.
Đối với mỗi khách hàng, Ngân hàng có thể sử dụng những phương thức cho vay khác nhau, chẳng hạn như:
+ Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại. Đây là loại tín dụng trung và dài hạn mà Ngân hàng thực hiện nhằm tài trợ vốn cho khách hàng thực hiện các dự án đầu tư trong đó có hai loại cho vay đối với dự án phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư xây dựng cơ bản mới.
+ Đồng tài trợ dự án đầu tư. Đối với các dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và lớn, đôi khi vượt quá khả năng tài trợ của một NHTM, mặt khác để phân tán rủi ro thì các NHTM cùng cho vay một dự án. Đồng tài trợ được áp dụng trong những trường hợp sau:
Nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay của một ngân hàng thương mại.
Nhu cầu phân tán rủi ro của các NHTM.
Khả năng nguồn vốn của một NHTM không đấp ứng được nhu cầu vốn của dự án.
+ Cho thuê tài chính do các NHTM hoặc do các công ty cho thuê tài chính trực thuộc chúng thực hiện. Cho thuê tài chính là nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội sử dụng máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của họ trong khi họ chưa đủ tài lực mua sắm chúng ngay một lúc. Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng (người cho thuê) chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định, đổi lại người thuê phải trả cho Ngân hàng một khoản tiền tương đương với quyền sử dụng tài sản .
+ Cho vay thông thường là phương pháp cho vay mà Ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch, từng phương án sản xuất kinh doanh hoặc từng khâu từng loại vật tư cụ thể để phát tiền vay. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất hiện nay bao gồm: cho vay theo hạn mức và cho vay từng lần, tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng mà Ngân hàng có thể áp dụng.
+ Cho vay luân chuyển là phương pháp cho vay mà việc phát hành tiền vay và thu nợ căn cứ vào tình hình nhập và xuất vật tư, hàng hoá cho các đơn vị vay. Đây là phương pháp cho vay cá biệt chỉ sử dụng cho vay vốn lưu động, đối với những đơn vị thường xuyên phát sinh quan hệ tín dụng với Ngân hàng, có tốc độ lưu chuyển vốn nhanh. Việc cho vay được thực hiện trong phạm vi hạn mức tín dụng do khách hàng và tổ chức tín dụng thoả thuận.
+ Cho vay tiêu dùng
Cho vay công dân
Cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng vay tiền.
* Ngoài hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số nghiệp vụ khác:
- Nghiệp vụ trung gian thanh toán: Là những nghiệp vụ Ngân hàng thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng và được nhận một khoản thu nhập về việc làm trung gian đó. Nghiệp vụ này bao gồm: Thanh toán hộ, chuyển tiền hộ, uỷ thác tài sản. Trên cơ sở khách hàng gửi tiền cho Ngân hàng, uỷ thác Ngân hàng thanh toán hộ và trả hộ.
- Nghiệp vụ đầu tư: Là loại hoạt động trong đó Ngân hàng bỏ vốn để năm giữ các chứng khoán có giá với mục đích trợ giúp cho khả năng thanh toán, đa dạng hoá việc sử dụng vốn và tăng thêm lãi cho Ngân hàng.
- Nghiệp vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng cam kết trả tiền thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với người yêu cầu bảo lãnh.
- Các nghiệp vụ khác...
Đây là một số nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của hệ thống Ngân hàng thương mại hiện nay. Có thể nói nó chỉ phát triển đầy đủ trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường phát triển. Hiệu quả hoạt động của các nghiệp vụ này quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
2.1. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Cho đến nay chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về tín dụng.
Tuỳ theo cách tiếp cận, tuỳ theo mức độ quan tâm của từng đối tượng mà có cách hiểu khác nhau về tín dụng. Chẳng hạn theo quan niệm truyền thống, tín dụng là một ngành kinh tế trong đó một người là tổ chức kinh tế chuyển cho người khác hoặc tổ chức khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc vật giá trị nào đó với điều kiện được hai bên thoả thuận trước. Còn đứng về phương diện nghiệp vụ thì tín dụng là một hoạt động, trong đó một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác sử dụng hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này nhưng bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền.... Dù đứng trên phương diện nào thì chúng ta đều hiểu tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau qua các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội. Qua mỗi thời kỳ lại có những quan hệ tín dụng phù hợp với nó và ngày càng đa dạng hoá.
Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, nhu cầu vốn của xã hội ngày càng tăng thì tín dụng Ngân hàng đã ra đời. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng một bên là Ngân hàng còn bên kia là các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là các hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời. Thông thường quá trình vận động của tín dụng Ngân hàng trải qua 3 giai đoạn:
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: ở giai đoạn này vốn tiền tệ được chuyển từ Ngân hàng sang người đi vay. Đây là đặc điểm khác với mua bán hàng hoá thông thường bởi vì trong quan hệ mua bán hàng hoá thì giá trị chỉ thay đổi khi hình thái tồn tại.
- Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất: Sau khi đã nhận được khoản vay từ Ngân hàng, người đi vay có quyền sử dụng lượng giá trị đó để thoả mãn một mục đích nhất định. ở giai đoạn này vốn đựơc sử dụng vào trong quá trình mua bán hàng hoá, vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... để phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu lượng giá trị này mà phải hoàn trả trong một thời gian nhất định.
- Hoàn trả tín dụng: Là giai đoạn kết thúc của chu kỳ tín dụng. Sau khi vốn được sử dụng vào việc thực hiện một chu kỳ sản xuất và về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho Ngân hàng. Các Mác viết: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang nhà tư bản hoạt động cho nên tiền không phải bỏ ra để tự thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một số điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau kỳ hạn nhất định".
Tín dụng Ngân hàng thể hiện những ưu thế hơn hẳn của mình so với các hình thức tín dụng khác dựa trên những đặc điểm của tín dụng Ngân hàng. Cụ thể:
- Huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Do đó nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng thông qua hoạt động tín dụng là rất lớn.
- Các Ngân hàng đóng vai trò là trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng Ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Nhưng vốn tín dụng ngân hàng không phải là nguồn vốn duy nhất cho sản xuất kinh doanh. Có thể nói tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng cả về khối lượng, cả về thời hạn và nó có thể mở rộng phạm vi hoạt động sang các ngành nghề khác nhau. Mặc dù vậy tín dụng ngân hàng có độ rủi ro tương đối cao. Do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn. Hiệu quả hoạt động kém khi xảy ra rủi ro.
2.2. Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Với chức năng là trung gian tín dụng của nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại thực hiện tập trung huy động vốn tạm thời nhàn dỗi trong xã hội và phân phối lại dưới hình thức cho vay. Từ đó giúp cho các đơn vị có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, thúc đẩy sản xuất và phát triển, thông qua đó mà Ngân hàng cũng có thể tồn tại và phát triển.
Tín dụng Ngân hàng được coi là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Cùng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, hoạt động Ngân hàng cũng không ngừng phát triển, hoàn thiện. Hơn nữa tín dụng Ngân hàng cần được xem là công cụ của Nhà nước để quản lý nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế quốc doanh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của nền kinh tế ngoài quốc doanh cho thấy kinh tế ngoài quốc doanh là một thị trường đầy tiềm năng của Ngân hàng vì nó vốn là một khu vực kinh tế năng động, nhạy bén và có khả năng sản xuất cao, dễ thích ứng với sự biến động của thị trường. Tuy nhiên khu vực kinh tế này cũng còn nhiều tồn tại và hạn chế cần khắc phục. Điển hình như nguồn vốn tự có của đại bộ phận này còn rất nhỏ bé, ít ỏi, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, chính sách phát triển kinh tế đối với khu vực này chưa đồng bộ, bất cập. Do đó để phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh đúng với khả năng vốn có của nó đòi hỏi Nhà nước không chỉ có chính sách phát triển kinh tế phù hợp mà điều quan trọng là bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này. Một trong những kênh quan trọng đầu tư vốn cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đó là tín dụng Ngân hàng. Từ đó khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của tín dụng Ngân hàng trong việc thúc đẩy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Cụ thể:
Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không có quá trình tích tụ, tập trung vốn nên cơ sở ngoài quốc doanh thường bé nhỏ và nghèo nàn. Điều đó gây khó khăn trong việc mở rộng phát triển kinh doanh, giảm sức cạnh tranh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của các đơn vị. Tình trạng thiếu vốn nảy sinh ở hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà không chỉ ở thời điểm thành lập doanh nghiệp mà còn diễn ra trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, nguồn vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là nguồn vốn tự có, nguồn vốn do bên ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ mà hầu như vốn của doanh nghiệp nằm dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... Vì thế khi tiến hành hoạt động sản xuất hay đầu tư mở rộng thì các doanh nghiệp rất cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nguồn vật chất bên ngoài phần lớn là từ vốn vay của các Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Thương mại huy động vốn với mục tiêu xuyên suốt của mình là tập trung, tích tụ vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế. Với nguồn vốn huy động được từ các thành phần kinh tế, thông qua hoạt động cấp tín dụng các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho các thành phần kinh tế với quy mô lớn và thời gian dài, đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục.
Thứ hai: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện tái sản xuất mở rộng ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại. Kinh tế ngoài quốc doanh với trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp kém, công nghệ chắp vá, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cản trở sự phát triển của nó. Thông qua nguồn vốn tín dụng Ngân hàng đã tạo ra các cơ hội "vàng" cho các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất tìm kiếm những công việc đổi mới dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn nhu cầu trong nước và ngoài nước.
Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên một trong những mục đích kinh doanh của Ngân hàng là mục tiêu lợi nhuận, nên luôn đề cao nhiệm vụ đảm bảo an toàn vốn. Cho vay luôn canh cánh một nỗi lo, liệu nguồn vốn cho vay này có thu hồi được không, có được sử dụng đúng mục đích không, có đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng hay không? Còn đối với các nhà sản xuất kinh doanh thì lại phải quan tâm xem sử dụng vốn như thế nào để có thể đem lại hiệu quả cao nhất, hoàn trả cả vốn và lãi cho Ngân hàng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, không có tình trạng cho vay tràn lan mà Ngân hàng tiến hành cho vay có "chọn lọc" những khách hàng làm ăn thực sự có hiệu quả. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vốn đã bị nhiều hạn chế trong khi vay vốn tín dụng như cần phải quan tâm hơn đối với hiệu quả từng đồng vốn.
Mặt khác, Ngân hàng dựa trên những hiểu biết, kinh nghiệm nắm bắt thị trường có thể soạn thảo giúp các đơn vị được vay vốn Ngân hàng những dự án đầu tư, tư vấn cho khách hàng trong việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả thông qua công cụ tín dụng Ngân hàng. Từ đó hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với những doanh nghiệp cũng như bản thân Ngân hàng.
Thứ tư: Tín dụng Ngân hàng góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá.
Hiện nay, phần lớn nguồn vốn tín dụng của kinh tế ngoài quốc doanh bắt tay vào ngành thương mại, dịch vụ chiếm tới trên 70%. Do vậy bằng các chính sách tín dụng, định hướng chung của Nhà nước, góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu ngành hợp lý và cân đối.
Bằng công cụ tìn dụng Ngân hàng, Ngân hàng có thể đầu tư ưu đãi những ngành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của chính phủ.
Từ một trong những vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh là giải quyết một số vấn đề nan giải của xã hội là tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng bằng công cụ tín dụng đã tiếp vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất, thu hút người lao động của xã hội, tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư làm giàu chân chính, tăng thu nhập của người lao động, dần từng bước xoá đói giảm nghèo.
Thứ sáu: Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng giao lưu kinh tế, tăng cường mối quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế giữa kinh tế quốc doanh với kinh tế ngoài quốc doanh. Tín dụng Ngân hàng đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện liên doanh hợp tác kinh tế với các tổ chức kinh tế nước ngoài, khai thác những lợi thế mang lại từ sự hợp tác này như kinh nghiệm sản xuất, quản lý, công nghệ khoa học kỹ thuật. Từ đó đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập cùng nền kinh tế thế giới.
Như vậy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh để mở rộng hoạt động kinh doanh Ngân hàng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho khu vực này phát triển thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với khu vực này là cần thiết.
III. Các hình thức của tín dụng ngân hàng.
Tuỳ vào mỗi giác độ, mức độ nghiên cứu của vấn đề mà người ta có thể đưa ra các hình thức của tín dụng ngân hàng.
1. Dựa vào kỳ hạn của các khoản tín dụng thì có 2 loại hình tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn:
Tín dụng ngắn hạn có thời hạn sử dụng vốn dưới 12 tháng. Loại hình này thường đầu tư chủ yếu là tài sản lưu động. Các khoản cho vay thuộc loại hình này thường có mức độ rủi ro thấp, do đó lãi xuất cho vay cũng phải ấn định thấp hơn so với lãi xuất cho vay trung và dài hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn dễ có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt hơn do đó dễ dàng bán nợ để thu hồi vốn hơn.
- Tín dụng trung và dài hạn:
Hình thức tín dụng này thường có thời hạn sử dụng vốn trên một năm và chủ yếu đầu tư vào tài sản cố định. Các khoản cho vay thuộc loại hình tín dụng này có mức độ rủi ro cao, do vậy mà mức lãi xuất cho vay thường cao hơn cho vay ngắn hạn. Do hình thức tín dụng này có thời gian sử dụng dài, chi phí chuyển đổi lớn vì vậy mà các khoản vay thuộc loại này thường không có tính lỏng nhiều.
Dựa vào tính chất bảo đảm của khoản vay
- Tín dụng có bảo đảm: đây là loại hình tín dụng khi cấp ra được bảo đảm bằng tài sản thế chấp thuộc sở hữu của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34305.doc