LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH THỊ TRƯỜNG VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 2
1.Thị trường 2
1.1 Khái niệm 2
1.2 Điều kiện thị trường ra đời và tồn tại 2
2. Cạnh tranh thị trường 3
II KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 3
1. Khái niệm 3
1.1 Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Porter về chỉ số năng suất. 4
1.2. Tiếp cận các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Nhật bản 5
2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 6
3. Môi trường kinh doanh và ảnh hưởng của nó đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp : 7
3.1 Các nhân tố thuộc môi trường bên trong ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. 8
3.1.1 Nề nếp hoạt động của Doanh nghiệp (văn hoá công ty). 8
3.1.2 Ảnh hưởng của hoạt động Marketing : 8
3.1.3 Ảnh hưởng của khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển : 8
3.1.4 Cơ cấu tổ chức của Doanh nghiệp : 9
3.1.5 Kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường 9
3.1.6 Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp : 9
3.2.2.1 Ảnh hưởng của nền chính trị thế giới 10
3.2.1.2 Ảnh hưởng của quy định phát luật của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế. 10
3.2.1.3 Ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật – công nghệ 11
3.2.1.4 Ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá -xã hội của các nước 11
3.2.2 Ảnh hưởng của môi trường kinh tế quốc dân: 11
3.2.2.1 Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế: 11
3.2.2.2 Các nhân tố chính trị, luật pháp: 12
3.2.2.3 Các nhân tố về khoa học, kỹ thuật, công nghệ: 12
3.2.2.4 Các nhân tố về văn hoá, xã hội: 12
3.2.2.5 Các nhân tố tự nhiên: 13
3.2.3 Các yếu tố thuộc môi trường ngành: 13
3.2.3.1 Khách hàng (người mua): 13
3.2.3.2 Các đối thủ cạnh tranh trong ngành: 15
3.3.3.2 Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường (đối thủ tiềm ẩn) 15
3.2.3.4 Sức ép từ phía các nhà cung cấp : 16
3.2.3.5 Sức ép từ phía các sản phẩm thay thế 16
4. Một số công cụ vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp 17
4.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm: 17
4.2 Cạnh tranh bằng giá cả : 18
4.3 Cạnh tranh về phân phối và bán hàng: 19
4.4 Sử dụng vũ khí cạnh tranh coi khách hàng là “thượng đế” 20
4.5.1 Cạnh tranh bằng tốc độ: 21
4.5.2 Cạnh tranh bằng mạo hiểm : 21
4.6 Cạnh tranh bằng thủ pháp đối đầu: 22
III. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 22
1. Thị phần của doanh nghiệp 22
1.1 Thị phần tuyệt đối 22
1.2 Thị phần tương đối: 23
2. Sức sinh lời của vốn đầu tư: 24
3. Năng suất lao động 25
4. Tỷ suất lợi nhuận: 25
5. Tỷ lệ giữa tốc độ tăng chi phí Marketing và tốc độ tăng doanh thu do tăng chi phí Marketing: 26
6. Các chỉ tiêu mang tính định tính: 26
IV. CÁC CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH CHUNG CẦN ÁP DỤNG ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP : 26
1. Chiến lược nhấn mạnh chi phí : 27
2. Chiến lược khác biệt hoá: 28
3. Chiến lược trọng tâm hoá: 29
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI 31
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY 31
1. Giới thiệu về Công ty: 31
2. Các loại vải dệt kim và các sản phẩm may mặc bằng vải Rib, Interlok, Single, Lacost: 32
3. Các loại khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn 32
4. Các loại vải Denim và các sản phẩm quần Jeans: 32
5. Các loại mũ: 32
3. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty: 33
4. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty : 34
4.2 Đặc điểm về công nghệ sản phẩm: 37
4.2.1 Dây chuyền sản xuất sợi : 37
4.3 Đặc điểm sản phẩm của Công ty : 37
4.3.1 Đặc điểm chung: 37
4.3.2 Đặc điểm của từng loại sản phẩm : 38
4.4 Đặc điểm nguồn nhân lực: 41
4.4 Đặc điểm về nguồn cung ứng nguyên vật liệu chính: 42
II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY: 42
1. Khái quát chung về thị trường sản phẩm của Công ty: 42
2. Môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty dệt may – Hà Nội. 45
2.1 Môi trường cạnh tranh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty : 45
2.1.1 Khách hàng 45
2.1.1.1 Khách hàng trong nước: 46
2.1.1.2 Khách hàng nước ngoài: 48
2.1.2 Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường: 1
2.1.2.1 Đối thủ cạnh tranh trong nước: 1
2.1.2.2 Đối thủ cạnh tranh ở thị trường nước ngoài: 2
2.1.3 Sức mạnh của nhà cung ứng : 3
2.1.4 Áp lực từ phía các sản phẩm thay thế: 4
2.1.5 Mối đe doạ của các doanh nghiệp mới gia nhập ngành : 4
2.2 Môi trường nội bộ của Công ty dệt may Hà Nội : 5
2.2.1 Tình hình hoạt động sản xuất của Công ty: 5
2.2.1.2 Hoạt động giảm thiểu chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm: 8
2.2.1.3 Về chính sách giá cả của Công ty: 10
2.2.1.4 Về mạng lưới phân phối của Công ty : 12
2.2.1.5 Tình hình sử dụng vốn của Công ty: 14
2.2.1.6 Cách tiệp cận chiến lược của Công ty : 15
2.2.2 Vũ khí cạnh tranh của Công ty : 16
3. Đánh giá chung về khả năng cạnh tranh của Công ty. 1
3.1 Các điểm mạnh có thể phát huy của Công ty: 2
3.2 Các cơ hội Công ty có thể năm bắt: 3
3.3 Các điểm yếu của Công ty có thể khắc phục được: 3
3.4 Thách thức mà Công ty phải đối phó: 4
CHƯƠNG III 7
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHIẾN LƯỢC NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI 7
I. Nhiệm vụ và mục tiêu của công ty đến năm 2005: 7
1. Nhiệm vụ của công ty: 7
2. Mục tiêu của Công ty đến năm 2005: 7
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHIẾN LƯỢC NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI: 9
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO : 19
106 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp chiến lược nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm mới nhưng đã góp phần không nhỏ vào việc tăng sản lượng của Công ty vào năm 2001 cụ thể đã sản xuất được 36.343 chiếc quần áo DENIM trong đó xuất khẩu chiếm 33% trong nước chiếm 67%, sản lượng vải sản xuất được 3.014.233 mét vải trong đó xuất khẩu chiếm 3,9% và trong nước là 96,1%. Tuy nhiên Công ty vẫn duy trì mức sản xuất hiện tại để có thể đáp ứng một phần đơn đặt hàng các sản phẩm truyền thống từ các khách hàng nội địa lẫn khách hàng nước ngoài. Đây cũng là bước khởi đầu đáng mừng cho sản phẩm này.
Sản phẩm khăn, lều du lịch :
Trong những năm vừa qua sản phẩm khăn chủ yếu chiếm thị phần lớn ở thị trường xuất khẩu, thị phần trong nước chiếm không đáng kể. Chất lượng sản phẩm tốt thoả mãn được yêu cầu của thị trường Nhật bản rất khó tính và ổn định trong thời gian dài, từ đó cho phép Công ty phát triển mạnh thị trường xuất khẩu. So với những năm trước sản lượng khăn của Công ty tương đối ổn định tăng đều qua các năm nhưng vào năm 2001 sản lượng sản phẩm của Công ty đã giảm xuống còn 86,4% so với năm 2000. Điều này chứng tỏ sức cạnh tranh của sản phẩm khăn đã giảm chủ yếu do nguyên nhân là: sản xuất và tiêu thụ khăn hoàn toàn phụ thuộc vào một khách hàng lớn, kỹ năng tiếp thị còn yếu và đặc biệt là Công ty hầu như không có thông tin về người sử dụng cuối cùng các sản phẩm khăn của mình do khách hàng của Công ty hầu hết là các Công ty thương mại. Công ty cũng cần có những giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm này. Cũng như sản phẩm khăn thì sản phẩm lều vải du lịch của Công ty có thị phần tương đối không ổn định, sản lượng giảm một cách đáng kể qua các năm: năm 1999 so với năm 1998 giảm còn 36,5% và năm 2000 chỉ còn 19,9% so với năm 1998. Trước tình hình công ty đã chuyển hướng sản xuất. Xưởng may lều đã chuyển hướng đạo tạo công nhân may sang hàng mũ và từ năm 2001 Công ty đã có sản phẩm may mới là mũ với 2,5 triệu sản phẩm trên một năm, chiếm thị phần trong nước là 42,1% và thị phần nước ngoài là 57,9%. Mặc dù so với các đối thủ cạnh tranh khác sản xuất mũ đây không phải là số lượng lớn nhưng nó cũng là bước khởi đầu đáng mừng cho sản phẩm này.
2. Môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty dệt may – Hà Nội.
Môi trường ảnh hưởng đến ngành dệt may bao gồm nhiều yếu tố phức tạp, đa dạng, thay đổi liên tục theo thời gian ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Nhưng với kiến thức chuyên ngành được học và phạm vi bài viết có giới hạn , sau đây đi sâu phân tích một
trong những yếu tố của môi trường kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của Công ty dệt may Hà Nội.
2.1 Môi trường cạnh tranh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty :
Theo M.Porter cấu trúc cạnh tranh trong một ngành được mô tả bằng năm lực lượng chính đó là: mối đe doạ từ những người có khả năng gia nhập ngành, vị thế thương lượng của khách hàng, mối đe doạ từ các sản phẩm thay thế và mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành. Một trong những lực lượng này lại chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố khác mà bản thân các yếu tố đó cũng cần phải được nghiên cứu để tạo ra một bức tranh đầy đủ về sự cạnh tranh trong ngành.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Công ty dệt may Hà nội đã có bước phát triển khá mạnh cả về số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và kim ngạch xuất nhập khẩu. Nhiều nhà máy thành viên của Công ty đã đầu tư chiều sâu cải tạo, nâng cấp thiết bị cũ hoặc đầu tư công nghệ mới do đó đã nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống và sản xuất những sản phẩm mới, mẫu mã phong phú hơn đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của khách hàng trong và ngoài nước. Nhưng khi phân tích sâu hơn, cụ thể hơn các lợi thế cạnh tranh của Công ty về công nghệ, về sản phẩm chủ yếu và nhãn hiệu hàng hoá, về phương thức kinh doanh thì nỗi lo còn nhiều. Với một ngành sản xuất rất ít lợi thế, ngoài đội ngũ lao động cần cù, tiếp thu nhanh, có kỹ năng lao động thì Công ty còn phải phụ thuộc nhiều vào thị trường trong và ngoài thế giới, phải đối mặt với cạnh tranh toàn diện ở cả thị trường trong và trên thế giới. Vận dụng mô hình năm lực lượng của Porter để phân tích tình trạng khả năng cạnh tranh trên của Công ty dệt may Hà Nội.
2.1.1 Khách hàng
Khách hàng là bộ phận cấu thành của ngành sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định đến sự thành công của Doanh nghiệp. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp là tài sản vô giá.
Sản phẩm của Công ty đã và đang tạo được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Một số mặt hàng như : áo phông, quần bò,…đang được khách hàng ưa thích.
2.1.1.1 Khách hàng trong nước:
Theo số liệu thống kê,dân số nước ta đến đầu năm 2002 đã gần 80 triệu dân và số dân tập trung về các thành phố ngày càng nhiều, nhu cầu về sản phẩm may ở các thị trường này tăng lên rõ rệt. Công ty tỏ ra khá am hiểu về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong nước và tạo vị thế của mình trên thị trường nội địa.
Sợi là nguyên liệu của công nghệ dệt vải và quy thị trường trong nước của sản phẩm này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm dệt may của Việt nam. Khách hàng truyền thống của Công ty ở khu vực phía Bắc đó là: Công ty dệt vải công nghiệp, Công ty dệt kim Hà Nội, Công ty dệt kim Đông Xuân. Thời gian gần đây có thêm một số khách hàng mới như: tổ hợp sản xuất Hoàng Thị Loan, Công ty chỉ khâu Hà Nội, Công ty dệt kim Thắng Lợi,… Tại khu vực phía Nam Công ty ít bán được trực tiếp cho các Công ty dệt mà chủ yếu cho các Công ty thương mại, Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Thành, Tiên Tiến, Nguyên Long,... gần đây có thêm Công ty thương mại Trung Tín và Vinatex Đà Nẵng. Khu vực miền Nam là khu vực tiêu thụ sợi lớn nhất của Công ty đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 80% khối lượng tiêu thụ sản phẩm trong nước).
Mặc dù thị trường miền Nam ở xa Công ty, chi phí vận chuyển lớn, giá thành cao song do đây là thị trường mục tiêu nên Công ty đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng cách kéo sợi có chỉ số cao, tỷ lệ pha trộn giữa Cotton và PE khác nhau nhằm đa dạng hoá mặt hàng và chất lượng sản phẩm cao nên thu hút được nhiều khách hàng, tăng khối lượng bán, hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa Công ty đảm bảo tiến độ giao hàng kịp thời, áp dụng các hình thức giá và phương thức thanh toán thích hợp. Do vậy mà sợi của Công ty vẫn đủ sức cạnh tranh ở thị trường trong nước. Tuy nhiên Công ty cũng cần trú trọng và mở rộng hơn nữa thị trường miền Bắc một thị trường tiềm năng sẽ đem lại nhiều lợi thế cho Công ty đó là chi phí vận chuyển giảm, khả năng thông hiểu đối tác dễ dàng hơn và tăng các hình thức phân phối trực tiếp cũng như quảng bá sản phẩm. Về khả năng phát triển thị trường của Công ty chưa cao, Công ty mới chỉ chú ý đến quan hệ mua bán với các đối thủ cũ mà chưa khai thác những bạn hàng mới mà điều này rất cần thiết cho sự sống còn của Công ty trong tương lai với nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và các đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều. Khu vực miền Trung do đặc điểm kinh tế nên hệ thống các Công ty dệt còn ít và nhu cầu của khu vực này thường ít chủ yếu là do Công ty chưa chú ý khai thác thị trường này. Trong tương lai khu vực miền Trung sẽ là một thị trường tiềm năng khi vực này được sự ưu tiên của Chính phủ và khi đó đời sống nhân dân sẽ ngày càng cao liên quan trực tiếp đến sức mua sẽ tăng lên.
Đối với sản phẩm dệt kim trong những năm vừa qua sản lượng và doanh thu trong nước lại không ổn định. Vậy tại sao ở thị trường trong nước có tới gần 80 triệu dân mà loại sản phẩm này lại khó tiêu thụ và không ổn định. Trong thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may ta thấy khi sử dụng sản phẩm dệt kim người tiêu dùng thường hay có các nhận xét như: Dày, mỏng, ngắn, dài, rộng hẹp, mầu sắc, mẫu mốt,…và những nhận xét về chất lượng như: Bền màu hay chóng phai, mịn màng hay sù lông, mức độ thấm mồ hôi, mặc mát hay nóng,…và sau cùng nhưng quan trọng nhất đối với người tiêu dùng đó là yếu tố giá cả: Giá cả liệu có phù hợp hay không? Thông thường thì giá cả của sản phẩm dệt kim đắt hơn các sản phẩm dệt thoi trong khi đó nền kinh tế Việt nam chưa phát triển mạnh mẽ, đời sống thu nhập của nhân dân vẫn ở mức hạn chế cho nên người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những sản phẩm có giá rẻ hơn. Hơn thế nữa nhu cầu của khách hàng lại có sự khác biệt theo mùa, mặt khác các nhà sản xuất dệt kim chưa đưa ra được các sản phẩm trong nước thực sự vừa lòng khách hàng bằng sự hài hoà về mẫu mã, độ bền đẹp, giá cả hợp túi tiền người mua.
Nhu cầu về sản phẩm khăn của khách hàng trong nước tăng dần vào những năm trước nhưng gần đây cũng giảm dần do Công ty chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu của khách hàng trong nước mà phụ thuộc rất lớn vào một khách hàng hàng truyền thống của Công ty ở Nhật Bản và đặc biệt là chưa có nhiều hoạt động bán và tiếp thị các sản phẩm này. Trong thời gian tới Công ty phải có các biện pháp để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm ở thị trường trong nước và nhu cầu của khách hàng ngày cáng đa dạng mà sản phẩm hầu như tương đồng trên thị trường.
2.1.1.2 Khách hàng nước ngoài:
Khách hàng nước ngoài có quan hệ mua bán với Công ty bao gồm nhiều tập đoàn, Công ty thương mại thuộc các quốc gia khác nhau trên thị trường thế giới. Đa số những khách hàng này là người đặt may gia công, họ có nhiều lợi thế trong việc lựa chọn đối tác để gia công ngành dệt may, có ưu thế trong thương lượng giá cả các hợp đồng gia công.
Biểu 4. Kim ngạch xuất khẩu của Công ty HANOSIMEX qua các năm.
Qua biểu trên cho thấy kim ngach xuất khẩu tăng qua các năm chứng tỏ sản phẩm của Công ty đã dần đứng vững trên thị trường nước ngoài. Mặc dù sợi là sản phẩm truyền thống chủ yếu tiêu thụ trong nước nhưng gần đây đã len lỏi dần vào thị trường nước ngoài, sản phẩm dệt kim mặc dù chiếm tỷ trọng lớn so với các hàng xuất khẩu (70%) năm 2001 cũng giảm chỉ còn 98,90% so với năm 2000. Công ty cần xem xét lại chất lượng mẫu mã của sản phẩm này .Sản phẩm khăn xuất khẩu cũng có chiều hướng tăng lên (29% so với năm 2000).
Ngược lại, do không phù hợp với thị hiếu nên sản phẩm lều du lịch có xu hướng giảm
mạnh
và không có nguy cơ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước tình hình đó năm 2001 Công ty đã thay thế sản phẩm này bằng sản phẩm mũ, vải bò, quần áo bò. Tuy chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty nhưng đây có thể là dấu hiệu khởi đầu thành công cho Công ty và cần có các giải pháp chiến lược để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm này.
Bước vào nền kinh tế hội nhập ,khách hàng nước ngoài hiện tại và tiềm năng của Công ty càng có nhiều sự lựa chọn và Công ty cũng có nhiều cơ hội và thách thức trong việc thâm nhập và phát triển các thị trường chủ yếu như:
- Khối EU: đây là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt nam với số lưpng lớn và giá trị xuất khẩu sản phẩm may của Công ty sang EU khá ổn định từ năm 1998 đến năm 2001, xuất khẩu sản phẩm khăn sang EU trong năm 2000 tăng so với trước nhưng không ổn định đến năm 2001 giảm xuống chỉ còn 0,64% thị trường. Bên cạnh đó xuất khẩu sang EU còn gặp rất nhiều khó khăn là: các sản phẩm có yêu cầu phức tạp, chất lượng cao thì hầu như Công ty chưa đáp ứng được nhiều khách hàng của thị trường này. Mặt khác EU là một thị trường đòi hỏi chất lượng cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng là khó tính về mẫu mốt, thị hiếu. Khác với Việt nam nơi giá cả có vai trò quyết định trong việc mua hàng, đối với phần lớn người Châu Âu “thời trang” là yếu tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng, thời trang, giá cả hấp dẫn thì khi đó sản phẩm mới có cơ hội bán được ở Châu Âu. Việc nhiều nước châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có nhiều kinh nhiệm có mặt ở thị trường EU là một khó khăn lớn đối với Công ty trong việc thâm nhập thị trường này. Chính vì vậy đòi hỏi Công ty phải thực sự cố gắng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong điều kiện hoà nhập với thế giới.
Thị trường Nhật bản: ngược lại với thị trường EU, hàng dệt may của Công ty xuất khẩu sang Nhật chủ yếu là sản phẩm sang khăn khá ổn định từ 1,9 triệu USD vào năm 1998 đến năm 2001 đã tăng lên 3,2 triệu USD nhưng sản phẩm may xuất khẩu sang Nhật lại giảm nhanh từ 7,3 triệu năm 1998 xuống còn 2,8 triệu năm 2001. Ngoài những thuận lợi có được ở thị trường này thì Công ty cũng phải đối đầu với những khó khăn: hàng của Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản phải cạnh tranh quyết liệt với hàng dệt may của nhiều nước, đặc biệt là Trung Quốc và các nước ASEAN khác,hơn nữa Nhật Bản cũng là một đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn, chất lượng tự nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS (Japan Industrial Standard).
Tóm lại, để nắm bắt cơ hội kinh doanh trên thị trường Nhật Bản cũng như các thị trường khác thì Công ty dệt may Hà Nội phải quan tâm đúng mức đến hoạt động marketing ở nước ngoài như lời quan chức đại diện của Nhật ở Việt nam đã nói “Phải chủ động tìm đến khách hàng để bán sản phẩm cho họ, không thể đợi họ đến Việt nam mua”.
Như vậy, khách hàng nước ngoài bao gồm nhiều quốc gia khác nhau trên đây chỉ là những khối thị trường tiêu biểu mà kim ngạch xuất khẩu của Công ty chiếm phần lớn ở thị trường này.
Đơn vị tính
Qua biểu 5 cho thấy xuất khẩu sợi của Công ty chủ yếu là sang thị trường Châu á cũng tăng rất nhanh từ 1,3 triệu USD năm 1998 lên đến 4,4 triệuUSD năm 2001, đây là một trong những thị trường tiềm năng, Công ty cần phát huy thế mạnh của thị trường này. Ngoài ra Công ty còn xuất khẩu sang các thị trường mới như Mỹ đối với các sản phẩm may, quần áo denim, và các thị trường khác.
Tóm lại, người mua cụ thể ở đây là khách hàng trong và ngoài nước của Công ty có vị thế thương lượng rất cao, họ có nhiều sự lựa chọn và có thể dễ dàng chuyển sang mua của người khác vì sản phẩm hầu như tương đồng, chỉ cần đáp ứng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, giá cả phù hợp. Người mua có thể khảo giá ở nhiều đối tác và chọn mua ở đối tác nào có những điều kiện kèm theo hấp dẫn nhất. Đứng trước những thách thức trên, Công ty phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong Công ty để có thể tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
2.1.2 Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường:
2.1.2.1 Đối thủ cạnh tranh trong nước:
Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành ở thị trường rất cao, chủ yếu là do tình trạng manh mún và hoạt động vô tổ chức, cạnh tranh bằng mọi giá trong cùng một ngành.Về sản phẩm sợi đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty chủ yếu là các Công ty ở khu vực phía Nam: công ty dệt Huế, công ty dệt Nha Trang. Đối với công ty dệt Nha Trang ra đời cùng với Công ty dệt may Hà Nội, máy móc thiết bị do Nhật trang bị, quy mô sản xuất gần giống với quy mô sản xuất của Công ty dệt may Hà Nội. Những năm qua Công ty đã tập trung nâng cấp thiết bị, đầu tư và mở rộng sản xuất nên chất lượng sản phẩm được nâng cao rõ rệt và thị trường của nó cũng tập trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh. Còn đối với sản phẩm may của Công ty, hiện nay có quá nhiều các Công ty tư nhân cùng ngành cung cấp những mặt hàng gần giống như của Công ty, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
Hàng dệt may được nhập khẩu từ các nguồn khác nhau.Trong đó, hàng dệt may của Trung Quốc xâm nhập mạnh cả thị trường miền Bắc lẫn miền Nam. Nguồn hàng này có ưu thế là chủng loại, mẫu mã đa dạng, giá cả phù hợp với túi tiến của đa số khách hàng có thu nhập trung bình và thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sản phẩm của Công ty.Tuy nhiên, phần lớn hàng dệt may Trung Quốc xâm vào thị trường nước ta chủ yếu là hàng chất lượng thấp, khách hàng ít trung thành với nguồn hàng này.
Thời gian gần đây, hàng dệt may Hàn Quốc xâm nhập vào thị trường Việt nam với chủng loại và mẫu mã đa dạng, cùng với chiến lược marketing qua phim ảnh khá hiệu quả đã thu hút đông đảo khách hàng thanh niên.
Bên cạnh đó, hàng may mặc “second hand” (đã qua sử dụng) đã và đang tràn ngập thị trường nước ta với giá cả thấp, đặc biệt là giới trẻ.
Những nguồn hàng trên là thách thức đối với Công ty dệt may Hà Nội, đông thời cũng là động lực thúc đẩy Công ty phải tự khẳng định mình trên thị trường nội địa.
2.1.2.2 Đối thủ cạnh tranh ở thị trường nước ngoài:
Đối thủ cạnh tranh của Công ty hiện nay chủ yếu là các nước thuộc Châu á: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc là những đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Công ty trong thị trường xuất khẩu sợi, vải và may mặc.Và đây em chỉ đi sâu phân tích đối thủ cạnh tranh mạnh nhất đã và đang ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng cạnh tranh của Công ty đó là Trung Quốc.
Một trong những sự kiện từ bên ngoài trong năm 2001 có tác đồng quan trọng và lâu dài đến nến kinh tế Việt nam là sự kiện Trung Quốc được kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) hồi tháng 11. Việt nam là nước Châu á chịu sức ép nhiều nhất. Việt nam cho đến nay xuất khẩu đa số những mặt hàng giống Trung Quốc, Trung Quốc có lợi thế so sánh khá vượt trội so với Việt nam trong những mặt hàng: sợi, vải, quần áo may sẵn. Và Công ty dệt may Hà Nội là một trong những Công ty sản xuất mặt hàng cạnh tranh này .
Hiện nay, Trung Quốc đang thay đổi hướng phát triển để chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may lớn thành một quốc gia có ngành công nghiệp mạnh. Vì thế,nhiệm vụ chiến lược đối với công nghiệp dệt may Trung Quốc là: Trung Quốc tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế thông qua việc điều chỉnh quy mô sản xuất, hiện đại hóa thiết bị và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Cùng với việc mở rộng thị trường quốc tế, ngành dệt may Trung Quốc còn cố gắng phát triển thị trường trong nước và đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân.
Ưu thế cơ bản trong cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc :
- Đội ngũ nhân viên kỹ thuật giỏi, có khả năng tận dụng thiết bị cũ do Trung Quốc sản xuất để tạo ra sản phẩm mới, chất lượng cao, hợp thị hiếu khách hàng (hàng dệt kim, vải dệt thoi).
- Có nhiều trung tâm thiết kế và sản xuất thời trang nổi tiếng, có sức thu hút khách hàng đặt hàng trên thế giới .
- Giá cả thấp, do sức thu hút mạnh khách hàng từ các nước (chỉ bằng 80% so với giá hàng tương ứng của Công ty) do đó: giá nguyên phụ liệu đầu vào thấp (hầu hết sản xuất tại Trung Quốc), thiết bị sản xuất được chọn tối ưu (sản xuất ở Trung Quốc hoặc các nước NICs, các doanh nghiệp có kinh nghiệm quản lý kỹ thuật và sản xuất …
- Marketing có hiệu quả (do truyền thống của một dân tộc giỏi buôn bán) nên đã đưa hàng dệt may của Trung Quốc đi khắp thế giới.
Bên cạnh những ưu thế Trung Quốc cũng có những điểm yếu đó là :
- Tỷ lệ công nghệ sản xuất lạc hậu chưa kịp đổi mới còn khá cao .
- Giá thành sản xuất có chiều hướng tăng cao do lợi thế chi phí nguyên vật liệu và tiền công đáng thấp dần .
Cần phải nói rằng sự cạnh tranh liên quan đến Trung Quốc vừa là nhân tố tích cực,vừa là nhân tố tiêu cực. Là nhân tố tích cực vì hàng của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ là thời cơ,tăng thêm sức ép buộc Công ty phải đổi mới hơn nữa để tăng sức cạnh tranh, nhưng đồng thời cũng lá thách thức vì những mặt hàng nào không đổi mới được, không tăng được sức cạnh tranh thì sẽ bị loại. Vì vậy, muốn giữ được thị phần hiện có, Công ty cần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình thông qua việc hoàn thiện hoạt động quản trị, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất và quản trị chiến lược kinh doanh hữu hiệu .
2.1.3 Sức mạnh của nhà cung ứng :
Thực trạng chung của ngành dệt may Việt nam là nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài chiếm đa số, Công ty dệt may Hà nội cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Do vậy, tình hình sản xuất của Công ty phụ thuộc rất nhiều vào tình hình nhập khẩu nguyên vật liệu, nên làm giảm khả năng cạnh tranh. Các nguyên vật liệu chính để sản xuất bao gồm Cotton và sơ PE, ngoài ra còn phải nhập rất nhiều loại hoá chất thuốc nhuộm dùng cho công đoạn như tẩy, nhuộm.
Về sơ PE hiện nay nước ta chưa có đơn vị nào sản xuất chính.Vì vậy các đơn vị sản xuất sợi trong nước đều phải nhập từ nước ngoài, còn với bông Cotton hiện nay nước ta cũng đã trồng được nhưng diện tích còn qúa ít, khối lượng cung ứng không đều, mặt khác chất lượng chưa cao.Vì vậy chi phí nguyên vật liệu thường đắt hơn không dưới 10% so với các nước Đông Nam á là các nước đã sản xuất được nhiều sợi tổng hợp và trồng được nhiều bông đặc biệt là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Công ty hiện nay đó là Trung Quốc .
Về hoá chất thuốc nhuộm, Công ty cũng phải nhập khẩu hơn 90% trong khi Trung Quốc sử dụng khoảng 60% đến 70% hàng nội có giá rẻ hơn 60% so với hàng nhập khẩu của Công ty. Trong cơ cấu giá thành vải, hoá chất thuốc nhuộm thướng chiếm khoảng 7% đến 8% nên giá sản phẩm của Công ty lại đắt hơn hàng Trung Quốc từ 3% đến 4%. Thiết bị cũng vậy 60% thiết bị ngành dệt và 80% thiết bị kéo sợi của Trung Quốc là hàng sản xuất trong nước. Trong khi đó Công ty nhập khẩu gần như 100% với giá cao hơn nhiều lần so với Trung Quốc nên chi phí trong vải lại cao hơn từ 3% đến 4% .Theo tôi so với các nước Đông Nam á, công nghệ của ta đi chậm hơn họ không dưới 10 năm. Quản lý yếu kém sẽ dẫn tới chi phí cao và năng xuất thấp. Điều này đã thấy rất rõ trong một số liên doanh. Cùng với thiết bị và đội ngũ lao động tương tự nhưng người nước ngoài quản lý thì năng xuất lại cao từ hai đến ba lần so với mình quản lý. Điển hình như ở Công ty dệt Việt Thắng có thể đứng được 25 đến 30 máy dệt/ một người và làm được 25 mét vải / ca / máy. Trong khi ở nhà máy cũ thì 8 đến 10 máy/ một người và làm được 22 mét vải / ca /máy.
Biểu 6 : Tình hình nhập khẩu của Công ty trong các năm
(nguồn: phòng xuất nhập khẩu)
Năm
Kim ngạch nhập khẩu (USD)
1998
11.531.751
1999
12.613.305
2000
23.996.000
2001
10.623.162
Qua biểu cho thấy kim ngạch nhập khẩu từ năm 1998 đến năm 2000 tăng rất nhanh chứng tỏ Công ty phải nhập khẩu nguyên vật liệu chủ yếu từ nước ngoại do nguyên vật liệu trong nước không đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, mặt khác số lượng nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào không nhiều, nguồn nguyên liệu không dồi dào, trong khi đó có vô số những Công ty kinh doanh cùng ngành muốn mua nguyên liệu, dẫn đến khả năng ép giá của những người cung ứng cao và từ đó làm tăng chi phí đầu vào của Công ty. Nhưng so với những năm trước thì năm 2001 kim ngạch cũng đã giảm tương đối, sở dĩ như vậy là vì trong thời kỳ này Công ty đã đưa vào sử dụng nguyên liệu đầu vào trong nước để thúc đẩy thị trường nội địa, và Công ty cũng chịu sức ép về giá ít hơn đối với những nhà cung ứng nội địa.
2.1.4 áp lực từ phía các sản phẩm thay thế:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta cũng bước vào hội nhập với các nước trên thế giới và nhu cầu thoả mãn về đời sống tinh thần của người dân cũng dần được nâng cao, trong đó nhu cầu về may mặc cũng không kém phần đa dạng, phong phú và các đối tác trên thị trường may mặc cũng không ngừng nghiên cứu, tìm tòi cung cấp những sản phẩm mới, đa dạng về mẫu mã, chất liệu để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiện nay. Cụ thể như các mặt hàng sản xuất từ thổ cẩm, tơ tằm, gấm, lụa,…mà Công ty không sản xuất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của Công ty, do vậy khống chế mức giá bán của Công ty. Chính vì vậy, trong thời gian tới Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó mới có thể cạnh tranh với các loại sản phẩm này.
2.1.5 Mối đe doạ của các doanh nghiệp mới gia nhập ngành :
Có thể nói rào cản sự gia nhập ngành rất thấp, trước đây trong ngành dệt may chủ yếu là các Doanh nghiệp quốc doanh, hoạt động dưới sự kiểm soát của Nhà nước nhưng thời gian gần đây do mở cửa nền kinh tế và do có luật Doanh nghiệp ra đời năm 1999, việc xuất hiện các cơ sở, doanh nghiệp cùng ngành là điều không tránh khỏi,.đặc biệt là doanh nghiệp dệt may có 100% vốn đầu tư nước ngoài đã và đang phát triển tại các khu chế xuất. Các doanh nghiệp này có nhiều lợi thế hơn so với các doanh nghiệp Việt nam: nguồn vốn đầu tư lớn, máy móc thiết bị hiện đại hơn, có kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh hơn, thu hút nhiều lao động giỏi từ các doanh nghiệp dệt may Việt nam, thị trường tiêu thụ hàng hoá chủ yếu của họ là các nước không bị khống chế bởi “Quota”. Ngoài ra các Công ty này còn được chính sách thuộc luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Mặc dù sản phẩm của họ sản xuất cũng gần như giống với sản phẩm của Công ty nhưng do họ có nhiều ưu thế hơn nên khiến một số sản phẩm của Công ty phải lao đao, thậm chí phải bán hạ giá một số sản phẩm ở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty.
Như vậy, cánh cửa ra nhập ngành đã, đang và sẽ tiếp tục bị đột nhập vì Công ty chưa có sự khác biệt hoá sản phẩm nhiều. Công ty cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể ngăn cản sự gia nhập này và Công ty cần chú ý công thức:
Vị thế cạnh tranh = Nội lực + Thợi thế
2.2 Môi trường nội bộ của Công ty dệt may Hà Nội :
2.2.1 Tình hình hoạt động sản xuất của Công ty:
Biểu 7: Kết quả sản xuất của Công ty qua các năm
(nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
Qua biểu 7 cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty tương đối ổn định và không ngừng phát triển, có mức tăng trưởng cao. Đây là chiều hướng tích cực thể hiện ở các chỉ tiêu: giá trị tổng sản lượng năm 2000 tăng so với năm 1999 là 15,3% tương đương với 66,185 triệu đồng và năm 2001 tăng so với năm 2000 là 16,4
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33568.doc