MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I - Lý luận chung về thị trường và tiêu thụ sản phẩm 3
I. Các vấn đề cơ bản về thị trường 3
1. Khái niệm thị trường 3
2. Chức năng thị trường 3
3. Phân loại và phân đoạn thị trường 4
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường 5
5. Nghiên cứu thị trường 6
II. Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng hoá 7
1. Khái niệm 7
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 7
3. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu 9
4. Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá 10
III. Quan niệm về duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ 11
1. Thế nào là duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ 11
2. Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ là một tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp 12
3. Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ 13
Phần II - Thực trạng về công tác duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 17
I. Giới thiệu chung về Công ty Haprosimex 17
1. Quá trình hình thành và phát triển 17
2. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của Công ty 17
3. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty 18
4. Ngành nghề kinh doanh 19
5. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh 20
II. Thực trạng về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 22
1. Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 22
2. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ qua các năm 25
3. Xu hướng biến đổi của môi trường quốc tế và dự báo về thị trường xuấtnhập khẩu 26
4. Những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ 29
III. Phân tích thực trạng về duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 32
1. Tình hình cạnh tranh trên thị trường 32
2. Kết quả tiêu thụ theo thị trường 34
3. Nội dung của hoạt động tiêu thụ của Công ty trong thời gian qua 35
4. Một số chính sách tiêu thụ mà Công ty thực hiện trong những năm qua 37
IV. Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 39
1. Những ưu điểm cần phát huy 39
2. Những tồn tại cần khắc phục 41
3. Những nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại nêu trên 41
Phần III - Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty Haprosimex 43
I. Mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty 43
1. Phương hướng và nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới 43
2. Một số chỉ tiêu kinh tế kế hoạch cụ thể cho năm 2002 43
II. Một số giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty 44
1. Cải tiến và hoàn thiện cơ cấu phòng tổ chức kinh doanh 44
2. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường 45
3. Nâng cao chất lượng sản phẩm 46
4. Tổ chức quản lý có hiệu quả mạng lưới tiêu thụ 47
5. Tăng cường hoạt động hỗ trợ tiêu thụ cho sản phẩm 47
6. Áp dụng chính sách giá cả mềm dẻo 48
7. Củng cố và nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường 48
8. Một số biện pháp khác 49
9. Một số kiến nghị về chính sách quản lý vĩ mô 50
Kết luận 52
Tài liệu tham khảo.53
71 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ỏ Công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mặt hàng TCMN của Công ty chủ yếu là các sản phẩm đồ gỗ, hàng sơn mài, hàng thêu ren, hàng mây tre lá, song mây tre, đồ gốm sứ, hàng thảm len, và một số mặt hàng khác (biều 3).
Biều 3: Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty.
Đơn vị : 1000 USD
Tên hàng
2000
2001
So sánh
Tiền
Tỷ trọng %
Tiền
Tỷ trọng %
Chênh lệch
%
Đồ gỗ
Đồ gốm sứ
Mây tre lá
Song mây tre
Hàng sơn mài
Hàng thêu ren
Hàng thảm len
Các loại khác
583
470
106
215
227
234
160
305
25,3
20,5
4,6
9,3
10,0
0,2
7,0
13,1
830
620
150
370
350
315
275
635
23,4
17,5
4,2
10,4
9,9
8,9
7,7
18,0
247
150
44
155
123
81
115
330
42,3
32,0
41,5
71,7
54,1
34,6
71,8
108,2
Tổng
2300
100
3545
100
1245
54,13
Hầu hết các sản phẩm đồ gỗ của Công ty được xuất đi các nước là đồ dùng gia đình, các mặt hàng trang trí nội thất như tủ, giường, bàn ghế .v.v.. Các mặt hàng này được đánh giá là các mặt hàng có giá trị nghệ thuật cao, là thành tựu của nghệ thuật chạm khảm, điêu khắc với hoa văn phong phú, tinh tế được làm từ bàn tay của các nghệ nhân trong nước. Đây là một trong số các mặt hàng được thị trường Nhật Bản nhập nhiều nhất trong những năm gần đây. Tổng giá trị các sản phẩm đồ gỗ của Công ty năm 2000 là 583 nghìn USD và năm 2001 là 830 nghìn USD, tăng 247 nghìn USD tương ứng với 42,3% so với năm 2000.
Bên cạnh các sản phẩm đồ gỗ, thì đồ gốm sứ cũng là một loại sản phẩm chủ lực trong các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà Công ty xuất sang thị trường các nước. Sản phẩm gốm sứ của Công ty có hàng trăm chủng loại, kiểu dáng đẹp, hoa văn phong phú, không những chỉ có giá trị nghệ thuật cao mà các sản phẩm của Công ty ngày càng tăng thêm độ bền. Nhờ có sự phối hợp giữa các cơ sở sản xuất, biết ứng dụng các thành tựu khoa học cùng với bí quyết gia truyền, kết hợp giữa men truyền thống với men hoá học và đặc biệt là dùng lò ga trong khâu nung sản phẩm thay thế cho các phương pháp thủ công mà các sản phẩm gốm sứ của Công ty có chất lượng cao và năng suất cũng tăng gấp 3 lần. Điều này góp phần làm giảm chi phí và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường thế giới. Đồ gốm sứ của Haprosimex đang được các thị trường lớn như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản đặt mua thường xuyên. Nằm ngay trên địa bàn Hà Nội, cách không xa làng gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Công ty có rất nhiều thuận lợi trong việc thường xuyên tiếp xúc với các cơ sở sản xuất, có lợi thế trong việc lựa chọn và thu mua các sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Việc thu mua các sản phẩm ở thị trường phía Nam do chi nhánh của Công ty tại Tp. Hồ Chí Minh đảm nhiệm. Do đó đối với mặt hàng này, Công ty có rất nhiều lợi thế về nguồn hàng, việc quan trọng là tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho xuất khẩu sản phẩm gốm sứ, Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng qua các năm. Năm 2000, tổng giá trị thu gom đối với các sản phẩm gốm sứ là 470 nghìn USD và năm 2001 là 620 nghìn USD tăng 150 nghìn USD, tương ứng với 32%.
Các mặt hàng song mây, mây tre đan, đồ sơn mài của Công ty cũng rất đa dạng, nhiều chủng loại khác nhau như các loại bàn ghế, giá, kệ, lẵng hoa và các vật dụng trang trí nội thất khác. Mặc dù mặt hàng này chịu sự cạnh tranh rất mạnh đối với các sản phẩm của Trung Quốc, Thái Lan nhưng trong những năm gần đây Công ty vẫn tạo được thế đứng cho các sản phẩm của mình trong các thị trường lớn. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu qua các năm còn thấp.
Để đáp ứng nhu cầu phục vụ xuất khẩu, hàng năm Công ty vẫn không ngừng làm tốt công tác thu gom, gia công chế biến các sản phẩm mây tre đan, đồ sơn mài từ các địa phương trong cả nước. Hàng thêu ren, thảm len của Công ty trong những năm gần đây cũng đã được một số thị trường lớn như Bỉ, Đức, Anh, Hà Lan.v.v.. chấp nhận và có xu hướng tăng kim ngạch xuất khẩu trong những năm tới. Các sản phẩm thêu ren được làm từ nguyên liệu ngoại nhập nên ngày càng được nâng cao chất lượng, cùng với sự sáng tạo nhiều mẫu mã mới nên từng bước đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ưu thế của mặt hàng này là việc đóng gói bao kiện và vận chuyển dễ dàng hơn các mặt hàng khác, nên chi phí xuất khẩu cho các mặt hàng này giảm đáng kể. Những năm qua, nhờ có việc đầu tư nhập công nghệ hiện đại phục vụ yêu cầu sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm mà khối lượng và chất lượng của sản phẩm cũng không ngừng tăng. Việc tìm kiếm và khai thác các thị trường mới cho mặt hàng thêu ren, thảm len đang được Công ty tập trung quan tâm.
Tóm lại, cơ cấu các mặt hàng TCMN ở Công ty rất đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại, mẫu mã với chất lượng cao, giá thành có sức cạnh tranh trên thị trường. Trong tương lai, Công ty sẽ tập trung khai thác mặt hàng này để đưa tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn Công ty lên cao hơn nữa.
2. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ qua các năm ở Công ty.
Nhờ vào làm tốt công tác mở rộng thị trường, củng cố niềm tin đối với khách hàng và được sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý Nhà nước, sự cộng tác của các đơn vị liên kết kinh doanh mà kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Haprosimex không ngừng tăng qua các năm.
Biểu 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 1999 - 2001
Đơn vị 1000 USD
Tên hàng
1999
2000
2001
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng%
Đồ gỗ
Đồ gốm sứ
Mây tre lá
Song mây tre
Hàng sơn mài
Hàng thêu ren
Hàng thảm len
Các loại khác
450
375
75
115
150
230
140
215
25,7
21,4
4,3
6,6
8,5
11,1
8,0
12,4
580
467
105
215
225
234
160
305
25,7
20,3
4,5
9,4
9,8
10,2
7,0
13,1
830
616
150
370
350
315
275
634
23,4
17,4
4,2
10,5
9,9
8,9
7,8
17,9
Tổng
1750
100
2291
100
3540
100
Nhìn vào biểu 4 ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng đều qua các năm. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1750 nghìn USD thì năm 2000 là 2291 nghìn USD, tăng 541 nghìn USD tương ứng với 30,9%, và năm 2001 là 3540 nghìn USD, tăng 1249 nghìn USD so với năm 2000, tương ứng với 54,5%.
Các mặt hàng chủ yếu làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu là đồ gỗ chiếm tỷ trọng khoảng 25%, đồ gốm sứ 22%, và hàng thêu ren.
3. Xu hướng biến đổi của môi trường quốc tế và dự báo về thị trường XNK.
3.1 Xu hướng biến đổi của môi trường quốc tế
Trong một vài thập kỷ gần đây, quá trình tự do hoá thương mại diễn ra khắp toàn cầu. Từng nhóm nước, từng khu vực thành lập nên các khu vực mậu dịch tự do. Các doanh nghiệp Việt Nam được chứng kiến sự ra đời và hoạt động của các khu vực tự do ở Bắc Mỹ, AFTA, ASEAN, khu vực mậu dịch tự do của châu Mỹ, EU, Liên hiệp châu Âu, APEC, hội nghị hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương ...
Trong đó AFTA, ASEAN là khu vực mà các doanh nghiệp Việt Nam đang trực tiếp tham gia, Việt Nam cũng mới được kết nạp vào APEC - một khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Tham gia vào các tổ chức này sẽ mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Họ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc xuất khẩu các sản phẩm của mình sang các nước trong khối, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên họ cũng phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn từ thị trường các nước trong khu vực cũng như tại thị trường trong nước.
- Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính hồi giữa năm 1999, kéo dài hết năm 2000 đã làm ảnh hưởng tới môi trường chung của thị trường quốc tế. Bắt đầu từ Thái Lan, cuộc khủng hoảng đã lan rộng ra nhiều nước châu á khác như Inđônêsia, Philippin... và lan ra toàn cầu đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào các nước đó.Tuy nhiên những dấu hiệu khôi phục kinh tế của các nước này cùng với sự mở rộng quan hệ với nhiều nước khác ta thấy chiều hướng tốt hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Đặc biệt sự thay thế GATT của tổ chức thương mại thế giới WTO bắt đầu từ 1/1/1997 có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đẩy nhanh sự trao đổi, buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới. Hiện nay có 11 nước thành viên và Việt Nam cũng đang đàm phán để được tham gia. Việc thành lập WTO là bước tiến lớn trên con đường tháo gỡ các hàng rào cản trở việc buôn bán tự do trên thế giới. Theo phân tích kinh tế nếu các thoả thuận của WTO được thực hiện đúng thời hạn và việc mở cửa các thị trường đúng qui định, tính chung cả thế giới sẽ cắt giảm được 38% thuế nhập khẩu. Với tiến độ đạt được đó, kim ngạch ngoại thương của thế giới sẽ tăng 12%=745 tỷ USD và lợi tức tăng 230 tỷ USD mỗi năm trong vòng 10 năm tới.
3.2 Dự báo về thị trường xuất nhập khẩu:
- Về thị trường xuất nhập khẩu quốc tế:
Từ khi WTO được thành lập, tốc độ phát triển của thương mại quốc tế luôn luôn ở mức cao do các hàng rào thuế quan được xoá bỏ và các nước trong WTO mở cửa thị trường của mình rộng hơn, thông thoáng hơn. Hơn nữa, do tốc độ phát triển kinh tế của thế giới được phục hồi từ đầu thập kỷ này đặc biệt là các nước đang phát triển cũng làm cho thương mại quốc tế (TMQT) phát triển mạnh.
Năm 1997, mức tăng trưởng TMQT là 5,9% (đạt gần 9000 tỷ USD) năm 1998 tăng 6,5%. Năm 1999 mặc dù xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á nhưng tốc độ tăng vẫn cao đạt 7,2%. Năm 2000 cuộc khủng hoảng vẫn còn tiếp diễn, với tốc độ tăng trưởng có giảm hơn năm 1999 nhưng vẫn đạt 2%. Năm 2001 ổn định hơn nên tốc độ tăng 3%. Dự kiến năm 2002 tăng 3,5%.
- Riêng về hàng thủ công mỹ nghệ nhu cầu ngày càng tăng cường với các yêu cầu về tính đa dạng, độ thẩm mỹ, mẫu mã càng cao hơn. Một số nước cũng có sản phẩm này để xuất khẩu như Trung Quốc, Inđônêsia... sẽ vẫn tăng cường đầu tư thúc đẩy xuất khẩu. Tại các nước này đã xuất hiện các sản phẩm được sản xuất bằng máy móc chứ không làm bằng thủ công nữa. Dù những mặt hàng này sẽ sản xuất được khối lượng lớn, năng suất lao động cao, giá hạ nhưng chúng lại không đam bảo tính đa dạng, phức tạp, tính thủ công đặc trưng mà khách hàng nước ngoài rất coi trọng. Mức độ cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường thế giới không cao do giá trị xuất khẩu thấp và chỉ có một số nước có sản phẩm xuất khẩu. Do vậy Việt Nam chúng ta cần khai thác được nhiều hàng thủ công mỹ nghệ với mẫu mã phong phú và đa dạng phục vụ cho công tác xuất khẩu là công việc quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu cũng như các nhà quản trị mua hàng.
- Thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện nay tập trung ở châu á - Thái Bình Dương (chiếm 65% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam) sau đó là châu Âu và các khu vực khác.
Biểu 5: Thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2001
TT
Khu vực
Tỷ lệ (%)
1
2
3
4
5
Châu á - Thái Bình Dương:
Nhật Bản
Singapore
Hongkong
Hàn Quốc
Đài Loan
Các nước khác
Châu Âu
Châu Phi
Châu Mỹ
Australia
65
10
13
7
8
5
12
22
4
6
3
- Thị trường xuất khẩu của Hà Nội nói riêng: hiện nay Hà Nội có mối quan hệ buôn bán với hơn 60 nước trên thế giới. ở Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội đã có quan hệ buôn bán với gần 50 nước trên thế giới.
+ Đông Bắc á: Các nước Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản... tỷ trọng xuất khẩu tại khu vực này là 22%.
Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu vào khu vực này là hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, nông sản, hải sản.
+ Khu vực EU: Xuất khẩu hàng hoá dịch vụ vào các nước EU đã tăng từ gần 20% lên 25%, các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu vào các nước này là dệt may, giầy dép, nông sản, thủ công mỹ nghệ (không kể một số mặt hàng xuất khẩu sang châu á để tái xuất sang EU).
+ Khu vực Đông Âu và các nước SNG: Tuy là thị trường quen thuộc nhưng những năm qua do nhiều yếu tố biến động, Hà Nội đã để trống khu vực này. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do phía bạn một thời gian dài vẫn chưa có phương thức thanh toán ổn định, mặt khác ta cũng chưa thực sự năng động tìm phương thức buôn bán mới như hàng đổi hàng, đổi hàng tạm nhập tái xuất. Tư tưởng coi nhẹ chất lượng, đưa hàng xấu, hàng rởm sang tiêu thụ đại trà cũng là nguyên nhân làm cho ta mất đi uy tín ở các thị trường này. Bên cạnh đó với sự bắt chước, năng động, truyền thống của Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước khác đã kịp thời xâm nhập hàng của họ với giá cạnh tranh hơn. Từ đó Việt Nam đã mất dần thị trường, cho đến nay buôn bán với các nước này chỉ đạt khoảng 5% kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, Hà Nội nói chung và Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội nói riêng phản ánh đúng xu thế của hoạt động ngoại thương Việt Nam là xuất khẩu sang Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu.
4. Những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
4.1 Thuận lợi: Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đã và đang chiếm một vai trò quan trọng trong số các mặt hàng của nước ta xuất đi nước ngoài. Đây là mặt hàng đang được quan tâm xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế như một mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Hiện nay mặt hàng này thuộc diện mười nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Những thuận lợi của việc sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ là rất lớn.
- Thứ nhất: Nguồn nguyên liệu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu trong nước, nhu cầu nhập nguyên liệu phụ không đáng kể. Trị giá nguyên vật liệu phụ nhập khẩu chiếm trong giá thành sản phẩm nếu có cũng chỉ tối đa là 3%. Đây là yếu tố rất cơ bản có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.
- Thứ hai: Đây là ngành nghề có thể giải quyết nhiều lao động dôi dư mà trình độ không đòi hỏi cao lắm. Theo số liệu thống kê và theo kinh nghiệm nếu xuất khẩu được 1 triệu USD thì thu hút được khoảng 3500 đến 4000 lao động chuyên nghiệp một năm. Nếu là lao động nông nhàn theo thời vụ thì có thể thu hút gấp 3 đến 4 lần số lao động trên. Con số này rất có ý nghĩa về mặt xã hội, nên rất được sự quan tâm, khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước. Nếu kim ngạch xuất khẩu hàng năm càng cao, có nghĩa là càng tạo được nhiều chỗ làm việc cho người lao động và cải thiện được đời sống của họ.
- Thứ ba: Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì nhu cầu về vốn đầu tư nói chung là không lớn lắm. Hơn nữa mặt bằng sản xuất có thể phân tán trong các gia đình, hộ nông nhàn, không nhất thiết phải có cơ sở sản xuất tập trung. Một số khâu trong sản xuất có thể sử dụng máy móc thay thế cho lao động thủ công để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Song cũng có thể làm dần từng bước, không đòi hỏi phải giải quyết ngay một lần, vì thế cũng tạo thuận lợi cho việc chuẩn bị vốn đầu tư. Trong điều kiện chung của các cơ sở sản xuất kinh doanh là có sự hạn chế về nguồn vốn thì đây cũng là một yếu tố giúp cho sự phát triển các làng nghề truyền thống.
- Thứ tư: Xu hướng hiện nay và trong tương lai khi đời sốn con người không ngừng được nâng cao thì nhu cầu tiêu dùng về mặt hàng này ngày càng gia tăng, bởi vì chứa đựng bên trong giá trị sử dụng của nó là một yếu tố rất quan trọng, đó là giá trị nghệ thuật xuất phát từ đặc tính thủ công của mặt hàng này. Nhiều khi người tiêu dùng không còn quan tâm tới giá cả nếu như mặt hàng mà họ muốn có được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Đây là một yếu tố quan trọng mà các nhà sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ cần quan tâm.
- Thứ năm: Xuất phát từ ưu thế chính của mặt hàng này Nhà nước đã đưa ngành nghề truyền thống này vào loại ngành nghề được ưu đãi đầu tư. Đây là yếu tố tạo khá nhiều thuận lợi cho người sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Với tư cách là chủ thể quản lý lớn nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, những tác động của hoạt động điều tiết mà Nhà nước đưa ra là rất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới các thành phần kinh tế khác.
4.2 Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi thì việc sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ cũng gặp không ít những khó khăn.
- Thứ nhất là việc tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Hàng rào về thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng là điều mà các đơn vị sản xuất kinh doanh không dễ gì vượt qua. Đây là một khó khăn lớn cho việc bắt đầu và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai là khó khăn về mặt bằng cơ sở vật chất và hạ tầng cơ sở hiện còn thấp kém. Hệ thống đường giao thông bến bãi kho tàng, đường tải điện còn chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Thứ ba là do đặc điểm của sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là phải sử dụng chất đốt rắn và có rất nhiều chất thải độc cho nên việc xử lý chất thải không tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Với các làng nghề và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đây là gánh nặng mà họ không có khả năng xử lý. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến sự sống của con người.
- Thứ tư là thị trường tiêu thụ còn rất nhiều khó khăn. Mặc dù nhu cầu có gia tăng nhưng để nắm bắt được từng thị hiếu của từng thị trường, tiếp cận được thị trường, tìm được đối tác kinh doanh, xây dựng mối quan hệ bạn hàng lâu dài và ổn định lại là việc khó khăn, phức tạp. Để làm tốt công tác tiêu thụ thì khâu xúc tiến thương mại là rất quan trọng nhưng chi phí cho hoạt động này là khá tốn kém mà người sản xuất kinh doanh nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì thường không kham nổi. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh, để đảm bảo thành công trong việc xúc tiên các hoạt động xuất khẩu thì mộ đòi hỏi đó là phải có sự phối hợp nhịp nhàng và hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tác tham gia và các cơ quan hỗ trợ thương mại, các cơ quan của Chính phủ có liên quan là một việc làm hết sức khó khăn trong tình hình hiện nay.
- Thứ năm là vấn đề tổ chức khai thác và cung ứng nguồn nguyên liệu chưa tốt. Các đơn vị sản xuất nhỏ muốn có nguồn nguyên liệu thường phải mua lại từ nhiều nguồn, chủ yếu là cung ứng gián tiếp, thậm chí bất hợp pháp nên phải mua với giá cao phải làm tăng chi phí sản xuất và giá thành và sản phẩm và thường không có hoá đơn giá trị gia tăng để được hoàn thuế khi xuất khẩu. Ngoài ra còn phải kể đến khó khăn về thủ tục hành chính trong tất cả các khâu từ sản xuất đến lưu thông, giao nhận vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá còn quá nhiều phiền hà, tốn kém với người kinh doanh.
Đối với Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đều được thu gom, mua lại từ các cơ sở sản xuất, các tư nhân trong nước. Do đó những khó khăn và thuận lợi của Công ty trong kinh doanh mặt hàng này cũng xuất phát từ những thuận lợi, khó khăn của người sản xuất kinh doanh của người sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nói chung.
Một trong những vấn đề hàng đầu mà Công ty đang quan tâm hiện nay đó là tìm kiếm thị trường, đẩy nhanh tiêu thụ, bởi vì trong công tác xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường rất quan trọng. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt ở khoảng 50 nước trên thế giới, chủ yếu là thị trường châu Âu, Mỹ và một số thị trường châu á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, .v.v... và một số nước Trung Đông. Tuy nhiên ta chưa xuất được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn, vì vậy khả năng mở rộng thị trường mới và tranh thủ cơ hội khai thác sâu các thị trường đã có nhất là các thị trường có nhu cầu lớn và lâu dài là khả năng hiện thực cần phấn đấu khai thác trong những năm tới.
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc thâm nhập các sản phẩm gỗ, mây tre lá, song mây, hàng thêu ren. Thị trường Nhật được coi là thị trường lớn nhất cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng được ưa chuộng nhất là đồ gỗ. Theo thống kê của Nhật, hàng năm Việt Nam đã xuất sang Nhật khoảng 60 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ. Nhật cũng là một thị trường nhập khẩu đồ gốm sứ lớn, nhưng hiện mỗi năm ta chỉ khai thác được 5 triệu USD. Để bước vào thị trường này, việc nắm bắt các thông tin và kiến thức xúc tiến thương mại là rất quan trọng, có phương thức và kênh bán hàng phù hợp. Ngoài ra phải tính đến các thị trường như Nga, các nước SNG, Đông Âu, Bắc Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Trung Đông.
Là một Công ty lớn của miền Bắc, Haprosimex xuất khẩu nhiều loại hàng, có mối quan hệ làm ăn với gần 50 nước trên thế giới. Điều này tạo khá nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thị trường chính nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty là các nước EU, ASEAN, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore.(Biểu).
Để đáp ứng nhu cầu phục vụ xuất khẩu Công ty đã từng bước nâng cao chất lượng quản trị mua hàng và tiêu thụ.
Sơ đồ 2: Các thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty.
Thị trường
Khối asean
đức
bỉ
Hà lan
anh
Nước khác
singapore
Malaysia
Thái lan
Brunây
Nước khác
Nhật bản
Hàn quốc
đài loan
Nước khác
Khối EU
III. Phân tích thực trạng về duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty.
Tình hình cạnh tranh trên thị trường.
Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ đưa nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất. Các quốc gia trên thế giới đều thực hiện chính sách kinh tế mở cửa hướng về xuất khẩu, lấy thị trường thế giới làm cơ sở cho sản xuất kinh doanh. Quá trình tự do hoá thương mại diễn ra khắp toàn cầu hình thành nhiều khu vực tự do, quan hệ buôn bán giữa các nước không ngừng được mở rộng và tình hình cạnh tranh trên thị trường cũng diễn ra một cách gay gắt hơn. Mỗi đơn vị kinh tế khi tham gia vào thị trường phải biết phát huy thế mạnh của mình, nắm chắc và kịp thời các thông tin thương mại, tạo được lợi thế trong cạnh tranh thì mới có cơ hội thành công trong kinh doanh .ý thức được điều đó, trong nhiều năm qua Công ty đã đưa ra các biện pháp, các quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Một mặt tạo thêm được nhiều bạn hàng mới, mặt khác cũng cố và phát huy được mối quan hệ với các bạn hàng cũ tạo điều kiện cho quá trình làm ăn lâu dài. Một kết quả đáng khích lệ là cho đến nay Công ty đã trực tiếp xuất khẩu gần 50 nước trên thế giới. Tuy nhiên các mặt hàng của Công ty nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng cũng chịu tác động của nhiều đối thủ cạnh tranh trên thế giới, nhưng nhìn chung mức độ cạnh tranh của mặt hàng này không cao do giá trị xuất khẩu thấp và chỉ có một số nước có sản phẩm xuất khẩu.
Một số nước cũng có thế mạnh về mặt hàng này như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia... vẫn tiếp tục đầu tư và tung ra thị trường nhiều loại sản phẩm. Tại các nước này đã xuất hiện các sản phẩm sản xuất bằng máy móc, thiết bị hiện đại, tuy giá thành có hạ nhưng lại không đảm bảo được tính đa dạng và đặc trưng mang tính thủ công của mặt hàng này nên sức cạnh tranh của chúng đối với sản phẩm của nước ta là không cao.
Nhìn chung tình hình cạnh tranh giữa hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta và các nước khác còn ở mức độ bình thường, tuy nhiên cũng phải kể đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước khác cũng tham gia xuất khẩu mặt hàng này. Vì nước ta có rất nhiều lợi thế trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nên khối lượng sản phẩm được sản xuất ra ngày một tăng, nhu cầu tiêu thụ trên thế giới trong tương lai cũng khá lớn do đó ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu mặt hàng này. Đây là một dấu hiệu đáng mừng khi nước ta thực hiện nền kinh tế mở hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên để điều hoà được lợi ích của từng doanh nghiệp đảm bảo cho lợi ích chung của nền kinh tế là một vấn đề cần được quan tâm. Với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm là 2% so với cả nước và khoảng hơn 10% so với kim ngạch của toàn Công ty, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà Công ty xuất sang các nước ngày càng tạo được niềm tin đối với khách hàng bởi chất lượng cao, kiểu dáng phong phú sắc nét Công ty đã tạo cho mình một thế đứng vững trong cạnh tranh qua nhiều năm. Hầu hết các sản phẩm của Công ty đều được thị trường chấp nhận. Vấn đề đặt ra trong tương lai của Công ty là đầu tư nâng cao chất lượng quản trị mua hàng, trực tiếp sản xuất một số loại sản phẩm chủ lực, kết hợp thủ công và công nghệ hiện đại nhằm mục đích đưa giá thành sản phẩm xuống mức thấp hơn tạo sức cạnh tranh tuyệt đối trên thị trường, đồng thời đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của mình.
Kết quả tiêu thụ theo thị trường.
Trong những năm gần đây nhìn chung nhu cầu về sản phẩm thủ công mỹ nghệ tăng đều đặc biệt là các sản phẩm đồ gỗ, gốm sứ, hàng thêu ren... Nắm bắt được xu hướng đó Công ty đã có chính sách hợp lý trong việc thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, đặt thêm nhiều đại lý tiêu thụ ở các nước nên mức độ tiêu thụ trong những năm qua không ngừng tăng.
Biểu 6: Kết quả tiêu thụ hàng TCMN theo thị trường.
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
1999
2000
2001
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Nhật Bản
Đài Loan
Hàn Quốc
Singapore
Anh
Hà Lan
Bỉ
Đức
Các nước khác
304,50
157,50
148,75
192,50
140,00
113,75
157,50
133,00
402,50
17,4
9,0
8,5
11,0
8,0
6,5
9,0
7,6
23,0
492,56
217,65
171,83
263,46
171,83
148,92
219,93
160,37
444,45
21,5
9,5
7,5
11,5
7,5
6,5
9,6
7,0
19,4
690,00
293,25
258,75
362,25
241,50
207,00
293,25
258,75
845,25
20,0
8,5
7,5
10,5
7,0
6,0
8,5
7,5
24,5
Tổng
1750,00
100
2291,00
100
3450,00
100,0
Nhìn vào biểu 6 cho thấy: Xét về mặt tuyệt đối thì kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng đều theo các năm cho tất cả các thị trường. Nhưng xét về mặt tương đối( tỷ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11765.DOC