Mục lục
Nội dung Trang
Lời nói đầu 1
Chương I Lý luận chung hoạt động nhập hoạt động nhập
hàng khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường hiện nay 3
I. Vai trò và nội dung của các hoạt động nhập khẩu 1. Sự cần thiết và lợi ích của Thương mại quốc tế hàng hoá trong
nền kinh tế thị trường hiện nay 3 2. Vai trò hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế 4 3. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động nhập khẩu 7 4. Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay 11 II. Nội dung hoạt động nhập khẩu 14 1. Nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác giao dịch 14 2. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu 19 3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 25 Chương II Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Dệt
Vải Công Nghiệp Hà Nội 30 I. Tình hình sản suất kinh doanh ở Công ty Dệt Vải Công
Nghiệp Hà Nội 30 1. Lịch sữ hình thành và phát triển 30 2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban và cơ cấu tổ chức 33 3. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh của Công ty 41 4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 44 II. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty 48 1. Kim ngạch nhập khẩu và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 48 2. Thị trường nhập khẩu 50 3. Hoạt động đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng của
Công ty 51
4. Các hình thức nhập khẩu 53 III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của Công ty Dệt Vải
Công Nghiệp Hà Nội 55 1. Những thành quả đạt được 56 2. Những điểm còn hạn chế 58 Chương III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạtđộng
nhập khẩu hàng hoá ỏ Công ty Dệt Vải Công Nhgiệp Hà Nội 62 I. Phương hướng, mục tiêu kinh doanh của Công ty 62 1. Phương hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới 62 2. Mục tiêu 65
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập
khẩu của Công ty 66 1. Tổ chức mạng lưới thông tin nghiên cứu thị trường 66 2. Nâng cao bồi dưỡng trinh độ cho đội ngũ cán bộ nghiệp
vụ xuất nhập khẩu 69 3. Nâng cao hiệu quả công tác giao dịch đàm phán 70 4.Thực hiện tốt việc xin giấy phép nhập khẩu, mở L/C chuẩn bị mua hàng, kiểm tra hàng nhập khẩu, khai báo Hải quan, nhận hàng và thanh toán tiền hàng. 75
5. Hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng 81 6. Huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả 83 7. Giải pháp bảo đảm nguồn hàng và tổ chức kinh doanh 83 III. Một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tạo lập môi trường và điều kiện thực hiện các giải pháp. 84 1. Thuế nhập khẩu 84 2. Về quản lý ngoại tệ 85 3. Cải cách hành chính 85 Kết luân 86 Tài liệu tham khảo 87 Mục lục 88
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo dõi bệnh nghề nghiệp.
Chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường.
Thực hiện chỉ đạo công tác dân số kế hoạch hoá gia đình.
Sửa chữa nhỏ và các dịch vụ khác.
g. Phòng bảo vệ:
Chịu trách nhiệm trước giám đốc về tài sản của Công ty như vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị, nhà xưởng để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế hiện nay, lực lượng bảo vệ giữ vai trò gương mẫu trong mạng lưới của Công ty, bảo vệ tài sản của Công ty, không để mất mát hư hỏng. Nếu thấy có trường hợp nghi vấn phải báo ngay cho giám đốc để có biện pháp xử lý kịp thời. Hàng năm cán bộ phòng bảo vệ được đi tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ bảo vệ tài sản cũng như bảo vệ an ninh chính trị của đơn vị.
h. Phân xưởng dệt:
Là phân xưởng chính của Công ty chịu trách nhiệm sản xuất các loại vải mà Công ty ký kết hợp đồng với khách hàng trong kỳ. Phân xưởng vừa nhận nguyên liệu gia công cho khách hàng vừa sản xuất khép kín.
Sơ đồ về quy trình công nghệ sản xuất ra sản phẩm dệt , sản phẩm chủ yếu của Công ty.
Tổ đậu
KCS kỹ thuật
Tổ xe
Tổ ống, suốt
Tổ lờ
Tổ dệt
Tổ go
Tổ dồn
Đóng gói
Nhập kho thành phẩm
Tiêu thụ
Kho nguyên liệu
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty là quá trình sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục, loại hình sản xuất với lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục.
Nguyên vật liệu chính là sợi đơn nhập về từ kho nguyên liệu theo từng chủng loại sợi mà phòng khoa học công nghệ yêu cầu cho từng mã hàng. Sau đó đưa vào ghép sợi( qua máy điện) tuỳ theo yêu cầu.
i. Phân xưởng nhúng keo:
Là phân xưởng chịu trách nhiệm nhúng keo tự động cho vải mành. Vải mành sau khi nhúng keo sẽ được bán cho các Công ty chuyên sản xuất lốp xe đạp và ôtô.
Vải mộc
Máy tở vải
Máy may đầu tấm
Máy lôi vải trước
Máy nhúng keo
Khu sấy trước
Khu sấy
sau
Tổ kéo dãn số 1
Khu kéo dãn
Tổ kéo dãn sô 2
Khu định hình
Khu làm lạnh
Tổ kéo dãn số 3
Giá tồn vải sau
Máy lôi vải sau
Máy cuộn vải
Đóng gói
Nhập kho thành phẩm
Máy lôi vải giữa
Giá tốn vải trước
Sơ đồ qua trình công nghệ sản xuất phân xưởng nhúng keo.
k. Phân xưởng may:
Là phân xưởng mới thành lập, khi chuyển sang cơ chế thị trường phân xưởng chịu trách nhiệm gia công sản phẩm may mặc cho các tổ chức cá nhân có yêu cầu, nguyên vật liệu do các khách hàng đưa đến, phân xưởng chịu trách nhiệm gia công.
Sơ đồ công nghệ phân xưởng may.
Nhóm KCS
Đóng kiện
Nhập kho
Nhóm là
Tổ may
Tổ cắt
3. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh của Công ty
a/Vải mành
Dùng để sản xuất lốp xe đạp dây đai thang cao su, các loại sản phẩm nàyđược khách hàng trong ngành cao su sử dụng là chủ yếu như Nhà máy cao su Sao vàng, nhà máy cao su Biên hoà, Sao su Đà Nẳng, nhà máy cao su Hải Phòng... Đây là mặt hàng chuyền thống, chiếm nhiều năm độc quyền của Công ty. Vòng đời sản phẩm bắt đầu từ năm 1970 đến 1973, thị trường tiêu thụ mới có Nhà máy cao su Sao vànglà khách hàng sử dụng vải bông của Trung Quốc. Từ năm 1973 đến 1987, sản phẩm bước vào giai đoạn tăng trưởng: Khối lượng tiêu thụ lớn giá thành hợp lý mang lại lợi nhuận cao cho Công ty. Đặc biệt sản phẩm làm ra được nhà máy cao su Sao vàng tiêu thụ hết. Sau 1975 sản phẩm mành của Công ty đã có vị trí vững chắc từ Bắc vào Nam, khách hàng mới được mở rộng tới gần chục nhà máy họ mua vải mành về sản xuất lốp xe đạp đó là nhà máy cao su Nghệ tĩnh, nhà máy cao su Thái Bình, nhà máy cao su Đồng Nai...
Từ 1988 đến 1993 là giai đoạn bão hoà của sản phẩm đặc trưng số lượng vaỉ mành tiêu thụ cao nhất là 3,3 triệu m2 năm 1988 rồi chững và đi xuống. Năm 1989 tiêu thụ 1,5 triệu m2 năm 1990 và 1991 là 2,4 triệu m2 1992 là 1,9 triệu m2 và năm 1993 là 1,6 triệu m2. Nguyên nhân là do xuất hiện sản phẩm cạnh tranh mới, vải mành nylon của Trung Quốc. Để duy trì doanh số bán ra, kéo dài dòng đời sản phẩm, Công ty dệt vải công nghiệp Hà nội đã cải tiến vải mành từ sợi bông sang vải mành sợi pêcô. Nhưng thực tế vòng đời của sản phẩm vải sợi bông đã chấm dứt vào năm 1991, còn vải mành pêcô đã bị mành Trung quốc lấn chiếm thị trường, Công ty chỉ có khách hàng là Cao su su vàng nhưng tiêu thụ với số lượng rất ít. Từ năm 1994-1995 vải mành bước vào giai đoạn suy thoái, không còn đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, Công ty phải tạm ngừng sản xuất .
Năm 1996, phân xưởng nhúng keo ra đời ,Sản phẩm vải mành tiếp tục được sản xuất, sản phẩm làm ra được sử lý qua khâu nhúng keo...tăng cuờng các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường.Từ đó sản phẩm vải mành lại được tiếp tục tiêu thụ nhưng với số lượng chưa được khả quan. (năm 2000 tiêu thụ 34.200m trong khi năm 1998 tiêu thụ 582.397m).
b-Vải bạt:
Dùng ống dẫn nước, ống hút bùn, băng truyền tải loại nhỏ vì vậy nó cũng là nguyên liệu sản xuất cho các doanh ngiệp nghành cao su, lọc đường , làm giầy vải các loại,may găng tay, quần áo bảo hộ, may tăng võng , ba lô phục vụ Quốc phòng. Đây cũng là mặt hàng truyền thống, chuyên môn hoá của Công ty thời bao cấp.Thị trường chính để tiêu thụ vải bạt là Nhà máy giầy vải thượng đình, Công ty giầy Thụy khuê, nhà máy giầy Hải Phòng, cục quân trang... Số lượng sản phẩm này đạt mức tiêu thụ cao nhất vào năm 1982 (2,6 triệu mét). Khi chuyển sang hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, từ năm 1989 số lượng tiêu thụ chững lại và đi xuống, năm 1989 tiêu thụ 1,8 triệu mét ;1990 là 0,7 triệu mét và năm 1998 là 0,38 triệu mét.Như vậy là sản phẩm vải bạt đã ở giai đoạn bão hoà, mặt khác doanh nghiệp dệt 19-5 là đối thủ cạnh tranh quyết liệt.Để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ Công ty đã cải tiến công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm từ sản phẩm chuyên môn hoávải bạt 3x3 và 3x4,Công ty đã tạo ra các sản phẩm vải bạt mới bạt718, bạt 195, bạt pêcô, bạt 1611, bạt pha đay...lần lượt chiêm lĩnh thị trường thay thế sức tiêu thụ vải bạt 3x3 và 3x4 (đang trong giai đoạn suy thoái), tiếp tục kéo dài vòng đời vải bạt nói chung.Do cải tiến mẫu mã, Công ty đã mở rộng thị trường tiêu thụ,các khách hàng mới của Công ty là : Công ty giầy Sài gòn, giầy Cần thơ, nhà máy giầy Hiệp hưng, Công ty xuất nhập khẩu Tân bình... Tiêu thụ vải bạt bắt đầu tăng và có dấu hiệu khả quan. Năm 1998 là 1,3 triệu mét, 2000 là 1,35 triệu mét, 2001 là 1,38 triệu mét,2002 là 1,3 triệu mét.
d-Sợi xe : Dùng làm chỉ khâu dân dụng và chỉ khâu công nghiệp để may vỏ bao xi măng, vỏ bao đựng phân bón, xe sợi để dệt các loại vải gabađin, vải đò luyn, vải bò.Thị trường chính của Công ty gồm các khách hàng: Công ty xi măng Hoàng thạch, Nhà máy phân lân Văn điển, Nhà máy phân đạm Hà bắc, Công ty dệt lụa Nam Định, Công ty sợi dệt kim Hà nội. Sản phẩm của Công ty luôn có tín nhiệm trên thị trường nay đã bị một số Công ty và tư nhân cạnh tranh mạnh về giá cả dẫn đến tiêu thụ cũng bị giảm theo. Năm 1991 tiêu thụ 116 triệu tấn; năm 1992 là 87 triệu tấn; năm 1993 là 51 triệu tấn; năm 1994 là 36 triệu tấn; năm 1995 là 77 triệu tấn; năm 1996 là 65 triệu tấn; năm 1997 là 69 triệu tấn; năm 1998 là70 triệu tấn; năm 2000 là 99 triệu tấn; 2001 là 192 triệu tấn; năm 2002 là 98,6 triệu tấn.
Giá trị sản xuất công nghiệp doanh thu sản phẩm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
Vải mành
Kg
153.841
498.257
627.477
838.982
Vải bạt
M
1.156.644
1.098.927
1.202.794
1.044.433
Sợi xe
Kg
111.564
99.506
142.663
98.682
Vải mộc khác
M
529.264
249.862
175.781
358.585
c-Vải mộc khác: Dùng để may quân trang, bảo hộ lao động, lót túi, lót giầy... Đây cũng là sản phẩm đa dạng hoá của Công ty, thị trường tiêu thụ là Cục quân trang, các Công ty giầy, Công ty may và tư nhân. Sản phẩm vải mộc các loại gồm các mặt hàng chủ yếu là: vải 3024, 3419, vải phin 6624, 5420,6060...
Mức tiêu thụ năm 1990 đạt 0,97 triệu mét; 1991 là 1,8 triệu mét, 1992 là 1,7 triệu mét, năm 1993 là 0,57 triệu mét, năm 1994 là 0,56 triệu mét, năm 1995 là 0,36 triệu mét, năm 1996 là 0,4 triệu mét, 1997 là 0,16 triệu mét, 1998 là 0,163 triệu mét.
Ngoài ra Công ty còn tiến hành sản xuất các loại sản phẩm may như các loại sản phẩm May gia công xuất khẩu, sản phẩm May bán POB sản phẩm May nội địa… Số lượng các loại sản phẩm được sản xuất ra tương đối ổn định qua các năm, trong năm 2000 với 191.333 sp được sản xuất, năm 2001 sản xuất 182.921 sp ,năm 2002 sản xuất 180.055 sp.
4. Hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty
Biểu tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
I
Giá trị SXCN
triệu đ
30645
33665
37200
42081
51969
49494
60000
60157
II
Tổng doanh thu
26000
32000
58000
74415
97047
86649
90500
91226
+ Doanh thu SXCN
-
-
37251
52896
60130
55676
67500
66677
+ Doanh thu bán hàng
-
-
20749
21516
37168
30974
23000
24549
III
Kim ngạch XK
1000 $
2650
3973
3890
2463
531
1976
1100
1111
IV
Tiền lương-Lao động
+ Tổng số lao động
ngời
786
777
966
925
834
849
812
827
+ Thu nhập bình quân
1000đ/t
719
635
610
625
635
649
635
660
V
Lợi nhuận
Triệu đ
251
1268
865
836
1545
1621
1422
1532
VI
Nộp ngân sách
triệu đ
1313
1276
1082
1104
5532
5462
5210
5169
VII
Tiêu thụ
1. Vải các loại
1000m
1100
1059
1200
1102
1150
1127
1400
1751
2. Vải phin các loại
1000m
650
713
400
321
299.15
353
300
308
3. Sợi xe
1000kg
120
111
100
91
100.60
83.5
91
99
4. Vải mành
1000kg
150
128
280
504.5
548.62
598
800
863
Qua bản tổng kết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 1998 đến năm 2002.
- Giá trị sản xuất công nghiệp của Công ty tăng đều trong các năm 1998-2002, năm 1999 đạt 33665 triệu đ, nhưng năm 2002 con số này tăng gần gấp đôi 60157 triệu đ. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng kéo theo sự gia tăng về doanh thu. Doanh thu tăng đột biến vào năm 2001 là 86649 triệu đ trong hai năm 2000 và 2001 luôn vợt mức kế hoạch đặt ra 128% (năm2000) , 111%(năm 2001).
-Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên liên tục tăng đặc vào năm 1998 và 1999, thu nhập tăng từ 0,450 triệu đ lên 0,635 triệu đ. Đây là những con đáng mừng mặc dù thu nhập không phải là cao nhng cũng không phải là điều dễ làm trong nền kinh tế mở cạnh tranh khốc liệt.
- Lợi nhuận: Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không muốn nói là quan trọnh nhất cho tất cả các doanh nghiệp hoạt sản xuất kinh doanh. Cùng với sự ra tăng của doanh thu, thu nhập của Công ty cũng tăng nhanh năm 2000 mới chỉ có 836 triệu đ thì đến năm 2002 là 1532 triệu đ. Lợi nhuận của Công ty tăng một cách đáng kể như vậy một phần do Công ty tiến hành cải tiến và thay đổi thiết bị máy móc công nghệ hiện đại, mặt khác công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty luôn có những kế hoạch tốt phù hợp với tình hình hiện tại.
- Mức tiêu thụ hàng năm của Công ty chỉ có Vải mành và Vải các loại có mức tiêu tăng đều qua các năm, đặc biệt là Vải mành chỉ trong bốn năm khối lượng tiêu thụ tăng gấp năm lần (năm 1999 mới tiêu thụ được 128 tấn, năm 2002 đạt được 863 tấn). Bên cạnh đó Vải phim và Sợi se lại giảm dân qua các năm, nguyên nhân là do không đầu tư thêm và các dây chuyền sản xuất các sản phẩm này mặt khác cũng bị các đối thủ khác cạnh tranh khốc liệt nên không giữ vững mức tiêu thụ đó.
- Bên cạnh việc tiêu thụ hàng hoá trong nước Công ty cung tiến hành mở rộng thị trường ra nước ngoài bằng cách xuất khẩu sản phẩm của mình. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu vẩn không ổn định, nhưng đây cũng là những cố gắng của cán bộ công nhân viên của Công ty. Ngoài việc xuất khâu các sản phẩm của mình Công ty còn nhận gia công các loại sản phẩm may, với mục đích tận dụng các trang thiết bị, tạo thêm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên mặt khác còn tăng thêm thu nhập cho Công ty.
- Các khoản nộp ngân sách của Công ty luôn thực hiện đầy đủ và năm nay cao hơn năm trước.
- Để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch có tính khả thi Công ty đã nghiên cứu lại các kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình sao cho sát với thực tế nhằm đánh giá đúng đắn năng lực sản xuất kinh doanh và đa ra kế hoạch lâu dài của Công ty. Để mang lại hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty từng bước tháo gỡ những kho khăn tồn tại mà chưa được tháo gỡ như thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu, nguyên liệu đầu vào không ổi định, thương xuyên phải chống đỡ các cơn sốt giá với sự cạnh tranh không cân sứ với hàng nhập lậu, hàng chốn thuế trong nước. Bộ máy quản lý dần dần khớp nhau, nó đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp điều hành sản xuất, thúc đẩy quá trình kinh doanh phát triển.
II. Thực trạng hoạt động nhập khâu ở Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội.
Kim ngạch nhập khẩu – cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Bảng kim ngạch XNK trong các năm 2000-2002 (1000 USD)
chỉ tiêu
2000
2001
2002
kh
th
% 00/99
kh
th
% 01/00
kh
Th
% 02/01
Kim ngạch XK
3.980
2.463
135
1.531
1.975
80
1.100
1.111
56
Kim ngạch NK
4.000
3.091
69
1.240
1.702
55
2.528
3.263
192
Tổng KN XNK
7.980
5.553
88
2.771
3.677
66
3.628
4.374
118
Qua bảng kim ngạch xuất nhập khẩu trên ta dễ dàng nhận thây rằng hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty có chiều hướng giảm qua các năm. Đặc biệt là hoạt xuất khẩu năm sau thấp hơn năm trước, trong năm 2000 mặc dù đạt được 135% so với năm 1999 nhưng trong năm 2001, năm 2002 con số này chỉ còn 80% và 56%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 2.463 (1000$), nhưng đến năm 2002 chỉ đạt 1.111 (1000$). Trong khi đó nhập khẩu lại thất thường trong năm 2000 hoạt động nhập khẩu chỉ đạt 69% so với năm 1999, năm 2001 đạt 55% so với năm 2000 nhưng năm 2002 lại đạt được 192% so với năm 2002.
Từ bảng trên cò thể nhận thấy rằng Công ty nhập khẩu chủ yếu là sợi nylong, xơ các loại và hoá chất. Trong đó chủ yếu là sợi nylong với kim ngạch nhập khẩu chiếm trên 45% qua các năm. Công ty cần phải nhập khẩu nhiều sợi nylong là do đây là loại nguyên liệu mà trong nước vẩn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của Công ty. Và đây cũng là nguyên liệu chính dùng đẻ sản xuất các loại lốp xe đạp, xe máy mà nhu cầu trong nước của các loại lốp xe ngày càng tăng.
Bảng cơ cấu càc mặt hàng nhập khâu (1000$)
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Sợi nylong
1.392
801
1.432
Xơ các loại
773
391
531
Hoá chất
618
340
665
Phụ tùng vật tư khác
463
170
635
Tổng
3.091
1.702
3.263
Xơ nhập khập chủ yếu là hai loại xơ, xơ PP và xơ PEs là nguyên liệu dùng để sản xuất các loại vải mành, vải kỹ thuật và làm giấy. Kim ngạch nhập khẩu năm 2000 là 773.000 $ (chiếm 25%) và cũng con số này trong năm 2002 là 531.000 $ (chiếm 16%). Kim ngạch nhập khẩu không ổn định là do thành phẩm của các nguyên liệu này có lượng tiêu thụ không ổn định vì phải cạnh tranh nhiều với các doanh nghiệp khác sản xuất cùng loại.
Từ sau khi phân xưởng nhúng keo ra đời, nhu cầu về các loại hoá chất dùng để nhúng keo vải mành có nhu cầu tăng lên. Trong khi đa một số loại hoá chất trong nước lại chưa đáp ứng được đó là Latex và Resorcinal, do vậy Công ty phải tiến hành nhập từ nước ngoài về. Quá trình sản xuất các máy móc và thiết bị không tránh được tình trạnh hư hỏng, cũng như do nhu cầu về chất lượng các thành phẩm đối với khách hàng ngày càng cao. Công ty luôn phải cải tiến thay thế, sửa chửa các máy móc tranh thiết bị và nhập khẩu các phụ tùng thay thế là điều tất yếu.
2. Thị trường nhập khẩu của Công ty
Sau khi tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước Công ty đã và đang tiến hành tìm kiếm các bạn hàng mới trong và ngoài nước đồng thời duy trì những khách hàng truyền thống trước đây. Thị trường tiêu thụ sản phẩu của Công ty vẩn là thị trường trong nước là chủ yếu. Đối với thị trường cung cấp nguyên liệu đầu vào của Công ty thì rất rộng lớn ngoài thị trường trong nước. Công ty hàng năm thường xuyên nhập các loại nguyên vật liệu từ rất nhiều các nước khác nhau.
Cụ thể như sau:
Sợi nylong chủ yếu được nhập từ Trung Quốc, Đài Loan, Inđônêsia và một số nước khác. Nhưng trong đó chủ yếu là được nhập từ Inđonesia, trước hết là vì chất lượng nguyên liệu cao hơn hết so với các nước khác. Với kim ngạch năm 2000 là 521 (1000$) trong năm 2002 là 643 (1000$).
Các loại xơ PP, PEs thì được nhập từ Singapo, Ân độ và thỉnh thoảng Công ty cũng tiến hành nhập tư Trung Quốc, Hàn Quốc…
ấN độ, Singapo là hai nước mà Công ty phải thường xuyên phải nhập các loại hoá chất.
Các loại phụ tùng máy móc trang thiết bi: Trước năm 1996 Công ty thường xuyên nhập từ Trung Quốc nhưng vài năm lại gần đây do yêu cầu về chất lượng cao hơn, cũng như mức độ hiện đại thì các loại phụ tùng trang thiết bị của Trung Quốc không đáp ứng được do vậy Công ty phải nhập từ một số nước khác như Đức, Nhật, Bỉ…
3. Các hoạt động đàm phán, ký kêt và thực hiện hợp đồng
Sau khi nghiên cứu thị trường, lựa chọn nguồn cung cấp, mặt hàng cần nhập Công ty phải tiến hành tiếp cận với các nguồn cung cấp đó để tiến hành giao dịch bán. Quá trình giao dịch là quá trình trao đổi thông tin về điều kiện thương mại giữa các bên.
a)Hỏi giá:
Để mua được hàng đúng theo yêu cầu với mức giá hợp lý và điều kiện thương mại cung cấp có khả năng nhất Công ty lập một bản “Hỏi giá” để có thể nhận được những bản chào hàng khác nhau. Qua đa Công ty nhận được các bản chào hàng cạnh tranh của các nơi cung cấp để so sánh lựa chọn cho mình một bản chào hàng thích hợp nhất với điều kiện của Công ty. Trong nội dung của một bản hỏi giá Công ty phải ghi đầy đủ những yêu cầu cần thiết về mặt hàng đó, về số lượng, chất lượng, quy cách, phẩm chất, thời gian giao hàng... và loại tiền mà mình có khả năng thanh toán, phương thức thanh toán, để tránh mất thời gian hỏi giá nhiều lần.Công ty luôn ý thức được rằng nếu hỏi giá ở quá nhiều nơi Công ty sẽ rơi vào tình trạng có quá nhiều bản chào hàng cạnh tranh khác nhau; dẫn đến Công ty phải lựa chọn đánh giá quá nhiều gây nên thị trường ảo tưởng là nhu cầu qua căng thẳng điếu đó sẽ không có lợi cho Công ty. Chính vì thế Công ty chỉ tiến hành một bản hỏi giá ở một số thị trường .
b) Chào hàng, báo giá:
Để có thể mua được hàng như mong muốn, sau khi đã lựa được cho mình một nguồn cung cấp người bán có tiềm năng nhất, Công ty có thể đưa ra bản “ Chào mua hàng” cho phái đối tác hoặc là nhận bản chào hàng của bên bán. Do vậy để đi đến việc ký kết hợp đồng Công ty đã lựa chọn kiểu “Chào hàng cố định”, đây là kiểu chào hàng có độ tin cậy đảm bảo an toàn cao nhất đối với người mua khi đưa ra nội dung của bản “Chào mua hàng” thì Công ty phải xem xét, phân tích, đánh gía một cách thận trọng.
Để có thể đánh giá được các bản chào hàng của phía người bán, Công ty đã sử dụng các phương pháp sau, có những trường Công ty phải tiến hành kết hợp các phương pháp đối với một bản chào hàng để có thể đánh giá, phân tích bản chào hàng tối ưu phù hợp với điều kiện của Công ty.
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp cho điểm
+ Phương pháp phân tích giá
c. Đặt hàng:
Khi đặt hàng phải xác định chính xác tên hàng, phẩm chất, quy cách, số lượng hàng cần mua... tên hàng cần ghi đúng tên gọi của hàng đó trên thị trường Quốc tế, phẩm chất quy cách cần đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng của Công ty phục vụ cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả tốt nhất.
d. Ký kết hợp đồng :
Sự thoả thuận thống nhất về mọi điều khoản trong hợp đồng là một tiêu thức quan trọng mà Công ty luôn phải đảm bảo trước khi bắt tay vào ký kết hợp đồng nhập khẩu nào đó.
Trước khi ký kết hợp đồng Công ty tiến hành xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu để tránh việc đối phương có thể thêm vào một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi những điều đã thống nhất.
Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những điểm của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện , hoàn cảnh tự nhiên và xã hội ... của nước người bán, trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán và nước người mua. Người đứng ra ký hợp đồng phải là người có thẩm quyền. Ngôn ngữ dùng để xác định hợp đồng nên là ngôn ngữ mà hai bên thông thạo hay được sữ dụng trong việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu.
Đối với một hợp đồng mua bán ngoại thương mà Công ty và phía đối tác đặt ra phải phù hợp và tuân thủ theo đúng cấu trúc một hợp đồng Thương Mại Quốc tế. Đặc biệt đối với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thể thêm các điều khoản khác vào hợp đồng để đề phòng những rủi ro có thể xảy ra.
e. Thực hiện hợp đồng
Nhìn chung các hợp đồng nhập khẩu của Công ty đều thực hiện theo đúng với những điều khoản đã ký kết, hạn chế việc sai sót về nghiệp vụ một cách tối đa. Những công việc của Công ty khi thực hiện hợp đồng là:
Làm thủ tục Hải quan
Tổ chức tiếp nhận hàng
Vận chuyển hàng hoá
4.Các hình thức nhập khẩu của Công ty
a) Nhập khẩu uỷ thác
Trong nhiều hợp đồng nhập khẩu khi mà Công ty không thể trực tiếp đàm phán ký kết hợp đồng. Công ty phải uỷ thác cho người trung gian đứng ra đàm phán và ký kết hợp đồng theo yêu cầu của Công ty thông qua hợp đồng uỷ thác nhập khẩu. Công ty uỷ thác nhập khẩu trong các trường hợp nhập các loại máy móc thiết bị và nhập ở một số thường mới mà Công ty chưa rõ về tập quán và hệ thống luật pháp chính trị kinh doanh ở thị trường đó. Vì những người trung gian thường hiểu rõ tình hình thị trường pháp luật và tập quán của địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác. Người trung gian có khả năng về nghiệp vụ và chuyên môn đối với một số mặt hàng nhập khẩu của Công ty họ có thể biết và hiểu rõ về những loại hàng hóa đó. Đặc biệt là các loại máy móc trang thiết bị mà Công ty thường xuyên phải nhập khẩu.
Hàng năm các hợp đông nhập khẩu uỷ thác chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty. Trong năm 2000 39,5% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu, trong năm 2001 chiếm 45% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu còn trong năm 2002 con số này là 41%.
Tuy nhiên, việc sử dụng trung gian có những khuyết điểm như:
+ Công ty không liên hệ trực tiếp với thị trường và cũng thường phải đảm ứng những yêu sách của các nhà đại lý và môi giới.
+Lợi nhuận của Công ty cũng bị chia sẻ.
b) Nhập khẩu tự kinh doanh.
Đây là hình thức nhập khẩu mà chiếm tỷ lệ giá trị kim ngạch nhập khẩu của Công ty cao. Giống như các hoạt động mua bán thông thường ở trong nước Công ty thường trực tiếp quan hệ với khách hàng bằng cách gặp mặt hoặc qua thư từ điện tín để bàn bạc thoả thuận với nhau về hàng hóa, giá cả, các điều kiện giao hàng. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc lẫn của các giao dịch trước đó.
Để thực hiện những hợp đồng nhập khẩu tự kinh doanh Công ty phải thực hiện một loạt các công việc như: nghiên cứu tiếp cận thị trường (nhận biết mặt hàng, lựa chọn thị trường, lựa chọn bạn hàng giao dịch...). Công ty phải hỏi giá đặt hàng, hoàn giá và chấp nhận giá cùng một hợp đồng nhập khẩu hàng hoá được ký kết hoặc bằng cách ký vào một văn bản hoặc bằng cách trao đổi thư từ và điện tín. Thời gian giao dịch đàm phán đối với Công ty thường thì 10 đến 15 ngày là hai bên đi đến quyết định cuối cùng có thể ký kết hợp đồng hoặc ngược lại.
Thông qua nhập khẩu tự kinh doanh Công ty có được những ưu điểm sau đây:
+Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc.
+Giảm được các chi phí trung gian đôi khi những chi phí này là rất lớn ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty.
+Công ty có điều kiện xâm nhập thị trường khắc phục được những thiếu sót, chủ đọng trong việc sản xuất và kinh doanh.
Bên cạnh đó Công ty còn gặp phải một số hạn chế như:
+Đối với thị trường mới chưa từng giao dịch thường gặp nhiều bỡ ngỡ, dễ gặơ sai lầm bị ép giá trong mua hàng...
+Đòi hỏi năng lực hiểu biết về ngoại ngữ và nghiệp vụ của cán bộ phải sâu rộng, phải có nhiều thời gian tích luỹ kinh nghiệm.
III. Đánh giá về hoạt động nhập khẩu hàng hoá ở Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội thời gian qua
Đánh giá hoạt động nhập khâu là một công việc hết sức cần thiết ở bất kỳ một doanh nghiệp nào. Phân tích, kết quả hoạt động xuất nhập khẩu qua từng thời kỳ cho phép doanh nghiệp nhận biết được những khó khăn thuận lợi, thách thức; những thành tựu đạt được cũng như những mặt còn hạn chế. Thông qua việc đánh giádoanh nghiệp sẽ dễ dàng tìm ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện công tác nhập khẩu và nâng cao hiệu quả của công tác này.
Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty gặp phải những khó khăn trở ngại, nhưng Công ty cũng đã gặt hái được những thành công nhất định:
- Hoạt động nhập khẩu của Công ty đã đảm bảo đầy đủ và kịp thời cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong những năm qua Công ty đã luôn đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và gía cả các mặt hàng nhập khẩu. Ngoài ra Công ty luôn phải nhập khẩu các phụ tùng, trang thiết bị và máy móc để thay thế sửa chữc cho các thiết bị máy móc bị đã hỏng hay lạc hậu.
- Trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được hoàn thiện. Đánh giá về công tác nhập khẩu không thể không nói đến nhân tố con người. Yêu tố con người Công ty đã góp phần để đạt được những thành tựu như ngày nay, mặc dù với quân số rất ít nhưng đây cũng là đội ngũ có trình độ về chuyên môn và nghiệp vụ. Với yêu cầu khắt khe về tính chất nghiệp vụ ngoại thương thì nghiệp vụ và ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11195.DOC