MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I
VAI TRÒ CỦA MẶT HÀNG GIẦY DÉP TRONG
CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I. XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1
1. Khái niệm xuất khẩu 1
2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4
II. VAI TRÒ CỦA MẶT HÀNG GIÀY DÉP TRONG CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 7
1. Khả năng sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam . 8
2. Nhu cầu thị trường thế giới 11
3. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu giầy dép đối với nền kinh tế 13
Chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG GIẦY DÉP TRÊN THẾ GIỚI 15
1. Tình hình sản xuất giầy dép trên thế giới 16
1.1 Tình hình sản xuất giầy dép của Trung Quốc 17
1.2 Tình hình sản xuất giầy dép của Italia 18
1.3 Tình hình sản xuất giầy dép của Ấn Độ 19
1.4 Tình hình sản xuất giầy dép của Braxin 20
1.5 Tình hình sản xuất giầy dép của Inđônêxia 20
1.6 Tình hình sản xuất giầy dép của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc 21
2. Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép trên thế giới. 22
2.1 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Mỹ 22
2.2 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở EU 23
2.3 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Nhật Bản 24
3. Xu hướng phát triển của thị trường giầy dép thế giới 25
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM 26
1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu 27
1.1 Kim ngạch 27
1.2 Cơ cấu xuất khẩu .29
1.3 Đánh giá tăng trưởng kim ngạch và biến đổi cơ cấu xuất khẩu 30
2. Thị trường xuất khẩu 32
2.1 Thị trường EU. 32
2.2 Thị trường Mỹ .34
2.3 Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. 36
2.4 Thị trường Đông Âu, SNG và các thị trường khác. 37
3. Hiệu quả xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 38
4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 41
4.1 Những lợi thế 41
4.2 Những tồn tại yếu kém 47
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG GIẦY DÉP VIỆT NAM
I . MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU GIẦY DÉP 56
1. Mục tiêu, định hướng của toàn nền kinh tế 56
2. Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
trong giai đoạn 2000-2010 57
2.1 Định hướng về thị trường. 58
2.2 Định hướng về sản phẩm 61
2.3 Mục tiêu phát triển tới năm 2000-2010. 61
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GIÀY DÉP VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2010 62
1. Tác động từ phía Nhà nước 62
1.1 Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào ngành 62
1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, ổn định môi trường
pháp lý. 67
1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động mở rộng thị trường
nhập khẩu 69
1.4 Hỗ trợ sản xuất trong nước 73
2. Đối với bản thân doanh nghiệp 74
2.1 Giải pháp trong việc cung cấp nguyên, phụ liệu. 74
2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu 76
2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu 77
2.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 79
2.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 68
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
93 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh.
thị trường SNG, Đông Âu và các thị trường khác
Trước năm 1992, Liên Xô cũ và Đông Âu là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ngành giầy dép Việt Nam. Tuy nhiên, sau một số năm bị thu hẹp, thị trường này hiện nay đã dần dần hồi phục và có triển vọng mở rộng mặc dù hiện nay chỉ chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn, dưới 2,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng.
Như vậy, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào các thị trường có những nét chính như sau:
xuất khẩu giầy dép của Việt Nam hiện nay tập trung chủ yếu vào 3 thị trường là EU, Mỹ, Nhật Bản, chiếm khoảng 90% giá trị hàng giầy dép Việt Nam xuất khẩu.
Số lượng giầy dép Việt Nam xuất khẩu sang EU chiếm trên 70% tổng lượng giầy dép xuất khẩu, cho thấy sự mất cân đối trong cơ cấu xuất khẩu theo thị trường. Sự phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường lớn rất dễ dẫn đến rủi ro khi có những biến động trên thị trường này, điều đó đòi hỏi ngành giầy dép Việt Nam phải nhanh chóng củng cố các thị trường cũ, mở rộng các thị trường mới, xây dựng cho được một mạng lưới thị trường ổn định.
Nhìn chung sức cạnh tranh của các sản phẩm giầy dép Việt Nam còn thấp trong khi các nước khác có thị trường và bạn hàng ổn định, đang trở nên ngày càng có lợi thế hơn do giá nhân công và giá xuất khẩu giảm do tỷ giá USD thay đổi. Thực tế cho thấy tình hình khó khăn còn tiếp diễn, trừ phi Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng hàm lượng nội địa trong sản phẩm để giảm giá thành sản phẩm.
3. Hiệu quả xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
Ngành giầy dép Việt Nam tuy là ngành kinh tế sinh sau đẻ muộn nhưng nó đã và sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nước ta.
Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế thì hiệu quả xuất khẩu giầy dép chưa cao mà nguyên nhân chủ yếu là do ta chưa chủ động được nguyên phụ liệu. Bên cạnh đó, do sản xuất chủ yếu là gia công hàng xuất khẩu cho các nước trung gian xuất khẩu mà ta thường bị ép giá, làm cho giá trị thu về sẽ nhỏ hơn thực tế nếu ta xuất khẩu trực tiếp.
Có thể xem xét qua hai sản phẩm giầy da và giầy thể thao, đây là hai mặt hàng có giá trị cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép (Bảng II.10).
Có thể thấy tiền công sản xuất chiếm khoảng 18% giá thành sản phẩm song chỉ chiếm khoảng 11-12% trong giá trị sản phẩm xuất khẩu, mà đây mới thực sự là khoản thu chính của các doanh nghiệp do chúng ta thực hiện gia công tới 70-80% sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, phí gia công của Việt Nam hiện đang ở mức thấp nhất khu vực do các doanh nghiệp cạnh tranh lẫn nhau, liên tục hạ tiền công của công nhân. Trung bình, một lao động trong ngành giầy dép nhận 0,3 USD/giờ, so với 14 USD của Italia, 9 USD của Tây Ban Nha, 5 USD của Đài Loan. Phí gia công giầy thể thao của ngành là 0,7 USD/đôi, ở miền Nam có cao hơn, khoảng 1,2-1,5 USD/đôi, còn giầy vải là 0,4-0,6 USD/đôi. Theo số liệu tổng kết của Hiệp hội Da giầy Việt Nam, sau khi trừ hết chi phí, thực sự ngành giầy dép chỉ thu về khoảng 20 triệu USD mỗi năm.
Bảng II.10: cơ cấu giá trị một số sản phẩm giầy dép
Đơn vị: USD
nội dung
Cho 1000 đôi giầy da
Cho 1000 đôi giầy thể thao
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Nguyên liệu chính
2800
29,4
1500
44,8
Phụ liệu
1050
11,1
300
8,9
Khấu hao nhà xưởng,
máy móc thiết bị
300
3,1
350
10,5
Lương
1600
17
650
19,4
Chi quản lý, bao bì và
chi phí khác
3750
39,4
550
16,4
Giá thành
9500
3350
Giá xuất khẩu (FOB HP)
15000
5000
Nguồn: Tổng Công ty Da giầy Việt Nam
Trong năm 1997-1999, giá trị tổng sản lượng của ngành tuy có tăng song đều không hoàn thành kế hoạch, đặc biệt năm 1998 chỉ tăng 0,24% so với năm 1997. Tuy nhiên chỉ tiêu doanh thu trong năm 1998, 1999 có tăng so với năm trước và so với kế hoạch. Xét về mặt hiệu quả thì sản lượng không đạt chỉ tiêu do vào năm 1998, lượng đơn hàng bị cắt giảm nhiều, đặc biệt giầy thể thao giảm 30% so với năm 1997, dép các loại giảm 20%, chất lượng da thấp, lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng làm cho tiêu thụ và thanh toán bị chậm trễ; nhưng xuất khẩu tăng do ngành tăng số sản phẩm tự sản xuất, tăng giá trị sản phẩm và do tác động của tỷ giá tăng.
Những chỉ tiêu như vậy thể hiện việc xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam không đem lại nhiều hiệu quả về mặt kinh tế, nhưng xét về mặt xã hội, xuất khẩu giầy dép cũng có những đóng góp đáng kể, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của kinh tế-xã hội nước ta.
Bảng II.11: kết quả thực hiện Một số chỉ tiêu của ngành giầy dép
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
Giá trị
%KH
Giá trị
%KH
Giá trị
%KH
Giá trị tổng sản phẩm
669,51
97
671,12
92
760
87
Tổng doanh thu
1069,44
98
1128,26
102,46
1268
101,7
Lợi nhuận
158,74
100,6
242,39
103,1
264,8
102,5
Nguồn: Hiệp hội Da giầy Việt Nam
Sau khủng hoảng kinh tế chính trị của Liên Xô và Đông Âu, ngành Da giầy Việt Nam rơi vào tình trạng hết sức khó khăn, hàng vạn người mất việc làm, tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế vốn đã rất khó khăn. Tuy nhiên, nhờ có những chuyển biến đáng ghi nhận của nền kinh tế cũng như của ngành, ngành Da giầy dần được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đóng góp lớn cho kinh tế- xã hội nước ta. Với định hướng đúng đắn phát triển sản xuất hướng vào xuất khẩu, cùng với điều kiện thế giới thuận lợi trong xu thế chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, ngành giầy dép xuất khẩu đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, thu hút hàng vạn lao động nhàn rỗi trong xã hội. Trong vòng 9 năm lực lượng lao động của ngành đã tăng gấp 10 lần, từ khoảng 3 vạn lao động trong năm 1992 tăng lên 22 vạn năm 1997, 27 vạn năm 1999 và đến năm 2000, toàn ngành đã thu hút 30 vạn lao động làm hàng xuất khẩu, tốc độ tăng trung bình 33,4%. Đây là một thành tích đáng khích lệ của ngành vì tỷ lệ thất nghiệp hàng năm của nước ta ngày càng tăng, hiện nay có khoảng 11% số người trong độ tuổi lao động không có việc làm. Mặc dù hình thức chủ yếu vẫn là gia công xuất khẩu, tuy chưa đạt hiệu quả cao về kinh tế nhưng xét về mặt xã hội, đây vẫn là phương thức có ý nghĩa trong điều kiện hiện tại. Khi mà nước ta vẫn chưa có đủ tiềm lực để xuất khẩu trực tiếp thì vẫn phải dựa vào việc làm hàng gia công để tạo ra công ăn việc làm, góp phần ổn định và nâng cao đời sống cho hàng vạn người lao động và gia đình họ.
Bên cạnh hiệu quả rõ rệt đó, ngành giầy dép với giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cũng đã góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán của đất nước. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép tăng trung bình 50,8%/năm trong giai đoạn 1992-1999, chiếm 12,1% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1999 với giá trị 1392 triệu USD và dự kiến sẽ đạt 1650 triệu USD trong năm 2000. Với những cố gắng của toàn ngành, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội mà Đảng và Chính phủ đã đề ra, ngành Da giầy Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc dân.
4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam
4.1 Những lợi thế của ngành giầy dép Việt Nam
Bước sang thập kỷ 90, sau một thời gian dài đặc biệt khó khăn trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của sự biến động của Liên Xô và các nước Đông Âu, ngành sản xuất giầy dép của Việt Nam đã bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển mới. Hiện nay ngành được coi là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển công nghiệp tổng hợp của nưóc ta. Dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, có thể thấy rõ Việt Nam có nhiều lợi thế để có thể tận dụng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành hàng này.
Về sản xuất
Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp sản xuất giầy dép.
Ngành có lực lượng lao động dồi dào, khoảng 30 vạn người, có tay nghề, đáp ứng được yêu cầu bước đầu khi sử dụng công nghệ, trang thiết bị mới; đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật dần dần trưởng thành. Mặc dù khủng hoảng tài chính làm cho giá nhân công ở một số nước trong khu vực giảm tương đối so với Việt Nam nhưng giá nhân công vẫn là một trong những lợi thế của ngành trong việc thu hút vốn đầu tư. Thêm vào đó, người Việt Nam vốn thông minh, tiếp thu nhanh, ham học hỏi, cần cù và chịu khó tạo ra một lực lượng lao động có tay nghề trong sản xuất nói chung và trong ngành giầy dép nói riêng.
Về nguồn nguyên liệu, ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam cũng có một số lợi thế như ưu thế về nguyên liệu đầu vào gồm da sống, chất thuộc tanin thực vật và oxyde chormo có thể thay thế dần da thuộc nhập khẩu để phục vụ sản xuất giầy dép.
Với xu thế chung của sự chuyển dịch sản xuất trong công nghiệp giầy dép trên thế giới, Việt Nam đã và đang trở thành một điểm thu hút đầu tư từ các nước phát triển tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất và xuất khẩu. Cùng với xu thế đó, Chính phủ Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và trong ngành giầy dép nói riêng. Luật Đầu tư nước ngoài ra đời vào năm 1987 và được sửa đổi bổ sung 4 lần. Ngày 1/7/2000, Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi đã bắt đầu có hiệu lực. Trong Nghị định 24/2000/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Chính phủ đã quy định rõ những lĩnh vực, những địa bàn khuyến khích đầu tư với các ưu đãi cho các dự án nằm trong diện khuyến khích đầu tư. Chẳng hạn, với mức thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay là 25% thì thuế suất ưu đãi 15% sẽ được áp dụng cho các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư, thuộc địa bàn khuyến khích đầu tư, thuộc Khu chế xuất hoặc thuộc Khu công nghiệp và xuất khẩu trên 50% sản phẩm, trong số các dự án thuộc danh mục khuyến khích đầu tư có các dự án sản xuất, chế biến và xuất khẩu trên 50% sản phẩm, các dự án sản xuất, chế biến và xuất khẩu trên 30% sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên vật liệu nội địa (có giá trị trên 30% chi phí sản xuất), và các dự án sử sụng nhiều lao động, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên sẵn có, các dự án sản xuất nguyên liệu cao cấp để sản xuất giầy dép, quần áo xuất khẩu. Còn thuế suất 10% sẽ được áp dụng cho các dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích đầu tư. Đó là các dự án có được hai điều kiện khuyến khích đầu tư, các dự án thuộc địa bàn khuyến khích đầu tư (miền núi, vùng sâu, vùng xa), đầu tư vào khu vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các dự án đầu tư vào khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Như vậy hầu hết các dự án đầu tư vào ngành giầy dép đều thuộc diện được khuyến khích vì sản phẩm chủ yếu là để xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động nên thủ tục xin và cấp giấy phép đầu tư được đơn giản hoá, thời gian chuẩn bị được rút ngắn, thực hiện cơ chế “một cửa”. Cũng nhờ đầu tư nước ngoài, năng lực sản xuất của ngành ngày càng dược nâng cao về cả số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của những thị trường nhập khẩu khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ,...Đây là một thuận lợi lớn cho sự phát triển trong thời kỳ tới của hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời năm 1994 và được sửa đổi vào năm 1998 với tinh thần chủ đạo là khuyến khích đầu tư toàn diện, đồng bộ thông qua việc quy định cụ thể các ngành nghề, các khu vực khuyến khích đầu tư. Điều đó cũng góp phần nâng cao năng lực sản xuất giầy dép của khu vực trong nước hướng tới xuất khẩu. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mạnh dạn đầu tư và đổi mới trang thiết bị phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã mở rộng đối tượng được hưởng điều kiện ưu đãi, tạo một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế, xoá bỏ những phân biệt giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam.
Trong những năm qua, thực hiện chiến lươc phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu là chính, hệ thống các chính sách thuế có những sửa đổi quan trọng, tác động tích cực tới các hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép.
Thông tư 106/1998/TT-BTC cho phép kéo dài thời gian nộp thuế nhập khẩu đối với những trường hợp sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, trước đây là 90 ngày, nay là 270 ngày hoặc hơn tuỳ theo chu kỳ sản xuất từng loại sản phẩm, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp. Thông tư số 83/1998/TT-BTC quy định về hoàn thuế doanh thu nguyên vật liệu và bán thành phẩm để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, được áp dụng cho ngành da giầy, cho phép các doanh nghiệp sản xuất giầy dép được hoàn thuế doanh thu khi mua nguyên vật liệu của các cơ sở khác để sản xuất hàng xuất khẩu, giảm thuế suất thuế xuất khẩu, không thu thuế lợi tức bổ sung đối với những doanh nghiệp có ít nhất 50% sản phẩm được xuất khẩu hoặc 50% doanh thu là từ xuất khẩu.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có những lợi thế tác động quan trọng đến sự phát triển sản xuất của ngành giầy dép như điều kiện chính trị ổn định, công cuộc đổi mới đang được mở rộng, môi trường đầu tư thuận lợi, thị trường trong nước và ngoài nước đang ngày càng mở rộng do tác động của các chính sách thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của Đảng và Chính phủ cũng như những nỗ lực hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Về xuất khẩu:
Ưu thế lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu giầy dép là được hưởng những ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường EU, thị trường chủ yếu của giầy dép Việt Nam. Đây là một thị trường tiêu thụ giầy dép lớn trên thế giới và là thị trường tiêu thụ lớn nhất của giầy dép Việt Nam, chiếm tới gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Đạt được điều đó là do EU đã tạo những điều kiện rất thuận lợi cho giầy dép Việt Nam thâm nhập vào thị trường này. Tháng 12/1992, Chính phủ Việt Nam đã ký Hiệp định buôn bán giầy dép với EU. Cũng như toàn bộ các sản phẩm sơ chế và sản phẩm công nghiệp có xuất xứ từ các nước đang phát triển, hàng giầy dép nhập khẩu vào EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Từ năm 1997, EU bắt đầu thực hiện quy chế GSP mới, theo đó quy định chia sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm theo mức độ nhạy cảm trong đó giầy dép thuộc nhóm nhạy cảm chịu thuế bằng 70% mức thuế phổ thông. Điều kiện quan trọng nhất để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập vào thị trường này là 60% giá trị của sản phẩm có nguồn gốc từ nguyên liệu trong nước và yêu cầu phía Việt Nam phải xuất trình bộ chứng từ chứng nhận xuất xứ form A. Như vậy hàng giầy dép của Việt Nam xuất khẩu vào EU được hưởng thuế suất ưu đãi giảm khoảng 30% so với thuế tối huệ quốc. Bên cạnh đó, EU còn có chính sách ưu đãi đối với hàng giầy dép Việt Nam là không bị định ngạch khi xuất khẩu vào thị trường này. Đây là hai lợi thế cơ bản của hàng giầy dép Việt Nam có từ thị trường này bên cạnh những lợi thế sẵn có trong thương mại quốc tế. Điều này ảnh hưởng lớn đến sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam. Tuy nhiên EU cũng có thể thu hồi GSP nếu xảy ra tình trạng buôn bán không sòng phẳng, không công bằng, phân biệt đối xử và cưỡng bức lao động...
Đó là những quy định mang tính ưu đãi hơn so với các nước trong khu vực về thuế quan và số lượng. Với những ưu thế này, hàng giầy dép Việt Nam đang dần tạo lập được vị trí trên thị trường EU trong sự cạnh tranh với các nước khác, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu giầy dép lớn thứ hai vào EU, chỉ sau Trung Quốc và vượt lên trên Indonesia.
Ngoài thị trường chủ yếu là EU, giầy dép của Việt Nam cũng đã có những vị trí nhất định trên các thị trường khác như Mỹ, Đông á. Trên thị trường Mỹ, mặc dù chưa có những ưu đãi về thuế quan từ phía Mỹ như những nước khác, kim ngạch giầy dép xuất khẩu sang Mỹ của Việt Nam liên tục tăng. Điều này chứng tỏ giầy dép Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường được xem là khó tính này.
Nhà nước ta cũng hết sức tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu giầy dép, thể hiện qua các văn bản pháp luật được ban hành và cải cách trong thời gian qua.
Nhằm hướng mạnh vào xuất khẩu, tháng 4/1998, Bộ Kế hoạch-Đầu tư đã quy định cụ thể 14 loại sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu được 80% mới được cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, trong đó sản phẩm giầy dép. Điều này đã nâng cao năng lực xuất khẩu cho ngành.
Luật Thương mại có hiệu lực từ 1/1/1998 và Nghị định 57/1998/NĐ-CP dã tạo khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, đại lý mua bán hàng hoá theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời Bộ Thương mại cũng đã ban hành Thông tư số 18/1998/ TT-BTM ngày 28/8/1998 hướng dẫn cụ thể về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá. Theo tinh thần của Thông tư này, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được thực hiện xuất nhập khẩu, nhận gia công hàng hoá cho nước ngoài theo ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận kinh doanh, các thủ tục hành chính được đơn giản hoá. Quy chế này mở rộng khả năng kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp với thị trường nước ngoài. Điều này tạo điều kiện thu hút vốn, lao động cho sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành quy chế thưởng xuất khẩu nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mở thị trường mới, sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng mới có chất lượng cao, sử dụng nhiều vật tư nội địa, thu hút được nhiều lao động. Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép có cơ hội được hưởng sự khuyến khích này nếu xuất khẩu lần đầu tiên được tiêu thụ ở thị trường mới với mức 200.000 USD/năm trở lên hoặc nếu sản phẩm sử dụng 60% nguyên liệu nội địa. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp giầy dép tích cực sử dụng nguyên liệu nội địa và mở rộng thị trường xuất khẩu.
4.2 Những tồn tại yếu kém
Sự tăng trưởng với tốc độ cao của ngành giầy dép Việt Nam trong những năm qua là một thực tế không phủ nhận được, song xét về tổng thể thì ngành còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển sản xuất và xuất khẩu.
4.2.1 Về nguyên phụ liệu
Hiện nay, công nghiệp thuộc da của Việt Nam còn rất yếu kém không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất giầy dép về số lượng và chất lượng. Thực tế, da thuộc các loại có thể sản xuất được nhưng năng lực và thiết bị ngành thuộc da Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu do nguồn da sống chưa đạt yêu cầu về chất lượng và không đáp ứng đủ về số lượng. Các nhà máy thuộc da trong nước chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu và chưa đáp ứng đưọc 10% nhu cầu về da trong nước. Không tự chủ về nguyên liệu cho nên sản xuất giầy dép của chúng ta phần lớn phải nhập nguyên liệu hoặc phụ thuộc vào sự chỉ định của đối tác nước ngoài. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của xuất khẩu vì tỉ lệ nhập khẩu chiếm tương đối lớn trong giá trị hàng xuất khẩu.
Bảng II.12 : tỉ lệ giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu so với giá trị xuất khẩu
1996
1997
1998
Giá trị NPL nhập (triệu USD)
286,65
385,9
468,78
Giá trị xuất khẩu (triệu USD)
533,8
964,54
1000,82
Tỷ lệ giá trị NPL/giá trị xuất khẩu (%)
53,7
40
46,8
Nguồn: Tổng Công ty Da-giầy Việt Nam
Không chỉ nhập khẩu da nguyên liệu do ngành da trong nước không đủ khả năng cung cấp, phần lớn các phụ liệu khác của ngành sản xuất giầy dép cũng phải nhập khẩu. Một mặt do sản xuất phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được, mặt khác do bên gia công yêu cầu phải sử dụng nguyên phụ liệu của họ cung cấp. Vì vậy các doanh nghiệp thường rơi vào thế bị động do nguồn cung cấp nguyên liệu chậm trễ, thiếu đồng bộ và thậm chí còn không đảm bảo về quy cách phẩm chất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp Việt Nam.
4.2.2 Hàng giầy dép Việt Nam hiện nay xuất khẩu vẫn chủ yếu là gia công cho nước ngoài
Các doanh nghiệp đều biết gia công cho nước ngoài thì hiệu quả rất thấp do giá trị tăng thêm tạo ra trên các sản phẩm chỉ gồm sức lao động của công nhân và hoạt động của bộ máy quản lý, lại thường bị thua thiệt nhưng khoảng 90% doanh nghiệp vẫn tiếp tục gia công cho nước ngoài. Hiện nay khoảng 70-80% khối lượng sản phẩm giầy dép xuất khẩu Việt Nam đều phải qua trung gian hoặc gia công cho nước ngoài. Một mặt, theo yêu cầu của nhà đặt gia công, doanh nghiệp Việt Nam phải sử dụng nguyên liệu do họ cung cấp vì vậy các doanh nghiệp thường rơi vào thế bị động do nguyên liệu chậm trễ, thiếu đồng bộ hoặc không đảm bảo quy cách phẩm chất. Mặt khác, theo hình thức gia công thì bên đặt gia công là người khai thác thị trường thế giới còn phía các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam, bên nhận gia công, người sản xuất thực sự, thì không được thị trường biết đến. Điều đó làm cho sản phẩm giầy dép của Việt Nam không những không tạo được cho mình chỗ đứng mà còn không nắm bắt được thông tin, yếu tố của thị trường như nhu cầu, giá cả, tâm lý của người tiêu dùng, sự biến đổi sở thích...Vì thế nó làm hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Hầu hết các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam vẫn phải gia công cho nước ngoài do nhiều nguyên nhân.
Trước hết, do phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, không có đơn đặt hàng do chưa có vị trí trên thị trường nên phải gia công cho nước ngoài.
Mặc dù biết các hợp đồng gia công xuất khẩu chỉ đem lại lợi nhuận thấp nhưng để đảm bảo có công ăn việc làm cho người lao động và thông qua đó học hỏi tìm cách tiếp cận thị trường, tạo lập dần cơ sở vật chất kĩ thuật cho mình nên các doanh nghiệp giầy dép trong nước vẫn phải dựa vào đó để tồn tại.
Thứ ba, các hợp đồng gia công xuất khẩu có hệ số rủi ro thấp hơn so với các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp do có người bao tiêu sản phẩm; hơn nữa, các hợp đồng gia công xuất khẩu không đòi hỏi nhiều vốn trong khi các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép xuất khẩu đang trong tình trạng thiếu vốn.
Cuối cùng do các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam còn bị hạn chế về nguyên liệu, mẫu mốt, công nghệ sản xuất nên phải chấp nhận hình thức gia công như một biện pháp để tồn tại.
Có thể nói thị trường giầy dép xuất khẩu của Việt Nam hiện nay thực chất là thị trường của người đặt gia công. Nói như vậy là vì khách nước ngoài đặt gia công sau đó họ đóng nhãn của họ và tung ra thị trường thế giới và trên thị trường thế giới, người tiêu dùng cuối cùng chỉ biết họ (người đặt gia công) là người cung cấp sản phẩm vì có nhãn của họ trên sản phẩm còn người nhận gia công, người sản xuất thực sự, thì không được thị trường biết đến và do đó bị tách rời với người tiêu dùng, cuối cùng dẫn đến ngày càng phụ thuộc vào người đặt gia công.
4.2.3 Sản xuất giầy dép Việt Nam đang trong tình trạng thiếu vốn và công nghệ
Nằm trong tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép cũng rơi vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Các đơn vị phần lớn sử dụng những tài sản từ trước 1975 và của thời kỳ 1986-1990, trong quá trình hoạt động, các đơn vị gần như không thể cải tạo hay đổi mới trang thiết bị do không có vốn. Số lượng thiết bị lớn nhưng không đồng bộ, không thể tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn hoá. Theo kết quả tổng điều tra các cơ sở sản xuất kinh doanh năm 1995, bình quân một doanh nghiệp thuộc khu vực vốn trong nước chỉ có 5,2 tỷ đồng vốn và vốn bình quân một lao động là 9,2 triệu đồng. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn ngân sách chiếm một phần rất nhỏ, không đáng kể, chủ yếu phải đi vay các ngân hàng để đầu tư. Trước đây do các doanh nghiệp da giầy làm ăn không có hiệu quả, vay vốn nhưng không có khả năng hoàn trả nên ngân hàng cảm thấy không an tâm khi cho vay đầu tư. Nhiều doanh nghiệp đang ở giai đoạn chưa đạt tối đa về số lượng và chất lượng đã phải trả vốn đầu tư cả vốn lẫn lãi vì thời hạn cho vay đầu tư quá ngắn (3 năm). Vốn lưu động nhà nước cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh hạn hẹp so với nhu cầu phát triển của sản xuất kinh doanh (chỉ khoảng 15%- Nguồn: Tổng Công ty Da- giầy Việt Nam) và do đó các doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh. Nguồn ngân sách đầu tư có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành giầy dép, do không định hướng đúng nên đầu tư không có hiệu quả, gần đây có khuynh hướng tạm ngưng lại. Vì cơ cấu chi của ngân sách trong giai đoạn tới tập trung cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng và giáo dục nên việc đầu tư cho ngành cũng có những hạn chế nhất định. Còn đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù có ưu thế hơn về vốn, kỹ thuật nhưng hiện nay vẫn chưa phát huy hết năng lực của mình, sản xuất vẫn chưa đạt công suất tối đa và còn chịu nhiều nhân tố ảnh hưởng khác.
Từ năm 1991, bình quân một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô 10 triệu USD. Đây là lượng vốn rất nhỏ so với các doanh nghiệp cùng ngành ở nước ngoài. Do thiếu vốn mà đầu tư của ngành thường manh mún, không có điều kiện đầu tư theo chiều sâu, phải mua công nghệ lỗi thời. Công nghệ sản xuất giầy dép ở Việt Nam hiện nay đang đi sau các nước trong khu vực 5 năm và sau Hồng Kông, Đài Loan 10 năm. ảnh hưởng của chất lượng máy móc thiết bị, công nghệ làm chúng ta khó có thể thực hiện được các đơn hàng cao cấp.
4.2.4 Về thị trường xuất khẩu
Ngành giầy dép đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trên cả thị trường truyền thống và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7349.doc