Cảng Khuyến Lương trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển pha sông. Cảng Khuyến lương là một doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Giao thông vận tải, được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ - TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ giao thông vận tải. Cảng có trụ sở làm việc chính tại xã Trần Phú - huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Diện tích mặt bằng xây dựng Cảng 11ha. Vào thời điểm 1985 Bộ giao thông vận tải có quyết định dừng khai thác bến phà Khuyến Lương, chuyển khu đất bờ nam bến phà vào mặt bằng xây dựng Cảng Khuyến Lương bao gồm khu cầu tàu, bãi chứa hàng, khu kho và nhà làm việc cơ sở lán trại được xây dựng từ những năm chiến tranh chống Mỹ của đơn vị đảm bảo cho giao thông 208, được chuyển giao cho Cảng Khuyến Lương quản lý khai thác. Lực lượng cán bộ công nhân viên một thời oanh liệt dũng cảm kiên cường bám trụ bến phà dưới mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, để luôn đảm bảo cho giao thông thông suốt trong thời chiến tranh phá hoại, được chuyển về Cảng là lực lượng chính tham gia vào lao động bốc xếp giai đoạn đầu mới thành lập.
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương tại Cảng Khuyến Lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i căn cứ vào chất lượng sản phẩm làm ra, do vậy cần thực hiện tốt công tác thống kê kiểm tra nghiệm thu sản phẩm. Tiền lương của người công nhân phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quy định và đơn giá, vì thế để đảm bảo tính chính xác, công bằng trong công việc trả lương cần phải tổ chức tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm thường xuyên.
Bốn là, cần làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho công nhân để họ nhận thức rõ trách nhiệm khi làm việc lương theo sản phẩm tránh tình trạng chỉ chú ý đến số lượng sản phẩm lợi ích vật chất mà bỏ qua việc sử dụng tốt nguyên vật liệu máy móc thiết bị và giữ vững chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên để có thể trả lương theo sản phẩm một cách chính xác đem lại hiệu quả kinh tế cao phải có các điều kiện sau.
* Điều kiện 1: Lựa chọn và xây dựng các mức lao động có căn cứ, khoa học, có hai loại mức.
+ Mức 1: Mức sản lượng đó là số lượng sản phẩm cần làm ra trong một đơn vị thời gian.
+ Mức 2: Mức thời gian đó là lượng thời gian được quy định để sản xuất ra một sản phẩm.
+ Điều kiện 2: Tổ chức phục vụ tốt nơi làm việc tạo điều kiện cho người công nhân làm việc được thuận lợi, tạo ra nhiều sản phẩm và rút ngắn được thời gian định mức.
* Điều kiện 3: Thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm để xác định được chất lượng, số lượng sản phẩm làm căn cứ trả lương đúng đắn cho người công nhân.
* Điều kiện 4 : Tuyên truyền giáo dục cho người lao động có tinh thần trách nhiệm trong sản xuất, tránh tình trạng người công nhân chạy theo số lượng sản phẩm mà không chú ý đến chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu và sử dụng đúng công suất của máy móc.
2. Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cơ bản đang được áp dụng trong các khu vực sản xuâts vật chất hiện nay. Việc tính lương theo sản phẩm cho người lao động được căn cứ vào đơn giá, số lượng chất lượng sản phẩm của người công nhân làm ra để trả lương cho họ.
Công thức: Lsp = ĐG x Mtt
Trong đó:
Lsp: Lương trả theo sản phẩm
ĐG: Đơn giá tiền lương một sản phẩm
Mtt: Số lượng sản phẩm thực tế ra trong kỳ tính lương
So với hình thức trả lương theo thời gian thì hình thức trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn hẳn số lượng và chất lượng sản phẩm, gắn liền lương với kết quả của sản xuất của mỗi người do vậy kích thích người lao động nâng cao chất lượng khuyến khích họ học tập về văn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ để nâng cao trình độ hành nghề của mình từ đó cải tiến kỹ thuật, sử dụng tốt máy móc thiết bị, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, trả lương theo sản phẩm g iúp cho người cán bộ quản lý công nhân dễ dàng hơn, góp phần thúc đẩy công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ lao động có tác phong làm việc tốt.
Dưới đây là các chế độ tiền lương của hình thức trả lương theo sản phẩm.
Thứ nhất là, chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Chế độ này được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiế sản xuất trong điều kiện quá trình lao động củahọ mang tính độc lập tương đối.
Có thể định mức và kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt từng người.
Công thức tính đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm.
ĐG = hoặc ĐG = L. T
Trong đó:
ĐG : Đơn giá tiền lương một sản phẩm
L : Lương theo cấp bậc công việc
Q : Mức sản lượng
T : Mức thời gian
Tiền lương của công nhân được là: L = ĐG x Qtt Qtt: là mức sản lượng thực tế hay năng suất thựuc tế của người công nhân.
Ưu điểm: Mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân và kết quả lao động phản ánh đúng đắn công sức của họ bỏ ra để được hưởng đồng lương thực tế, do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao trình độ tay nghề để nâng cao năng suất lao động nhằm tăng thu nhập cho họ. Chế độ tiền lương này dễ hiểu, công nhân dễ dàng tính toán tiền lương của mình sau khi lao động.
Tuy nhiên bên cạnh đó chế độ này còn hạn chế là tinh thần tập thể chưa cao, công nhân ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, công việc chung của tập thể bị sao nhãng.
Thứ hai là, chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể áp dụng cho những công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện.
Công thức tính đơn giá:
ĐG = **********
Trong đó:
ĐG : Đơn giá tính theo sản phẩm tập thể.
ồLi : Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc
Q : Mức sản lượng
T : Mức thời gian
Ưu điển: Của chế độ này là khuyến khích công nhân trong tổ, nâng cao trách nhiệm tập thể, quan tâm chung đến kết quả cuối cùng của tổ, đơn giản dễ hiểu, dễ áp dụng.
Nhược điểm là: Sản phẩm của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, do vậy dễ gây ra tình trạng đùn đẩy công việc, không hăng hái sản xuất, không nâng cao năng suất lao động cá nhân. Mặt khác do phân phối tiền lương chưa tính đến tình hình sức khoẻ, thái độ lao động, nên chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối, theo số lượng và chất lượng lao động.
Thứ ba là, chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao đôngj của công nhân chính hưởng theo sản phẩm.
Công thức tính đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm.
ĐG =
Trong đó:
ĐG: Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp.
L: Lương cấp bậc của công nhân phụ
Q: Mức sản lượng của công nhân chính
Tiền lương của công nhân phụ có thể tính bằng cách lấy phần trăm hoàn thành mức sản lượng của công nhân chính nhân với mức lương cấp bậc của công nhân phụ.
Ưu điểm: Do tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào mức năng suất lao động của các công nhân chính mà anh ta phục vụ, do đó đòi hỏi công nhân phụ phải có trách nhiệm và tìm cách phục vụ tốt cho người công nhân chính hoàn thành công việc.
Nhược điểm: Tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào sản lượng của công nhân chính, nếu phụ thuộc vào thái độ làm việc, trình độ lành nghề của công nhân chính, cho nên chưa đánh giá chính xác công việc của công nhân phụ.
Thứ tư là, chế độ trả lương khoán.
Chỉ áp dụng cho những công việc nếu làm riêng từng chi tiết, từng bộ phận công việc hoặc theo thời gian thì không có lợi về mặt kinh tế và thời gian không đảm bảo, đồng thời công việc đòi hỏi một khối lượng tập thể nhiều loại công việc khác nhau yêu cầu hoàn thành theo đúng thời hạn. Chế độ lương này áp dụng chủ yếu trong xây dựng cơ bản và cho một số công việc trong nông nghiệp chế độ trả lương này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc tập thể.
Ưu điểm: Người công nhân biết trước được số tiền lương nhận được và khối lượng công việc của mình do đó chủ động tiến hành làm việc hoàn thành công việc được giao.
Nhược điểm: là phải tính toán đơn giá hết sức tỉ mỉ để xây dựng đơn giá trả cho công nhân khoán.
Thứ năm là chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng. Thực chất của chế độ trả lương này cũng giống như chế độ trả lương khoán nhưng kết hợp thêm các hình thức tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ này phần tiền lương được tính theo đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về mặt số lượng, thời gian công việc tất nhiên là chất lượng sản phẩm phải đảm bảo.
Ưu điểm: Chế độ trả lương này khuyến khích người lao động hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Nhược điểm: Việc xác định tỷ lệ thưởng tương đối phức tạp và đôi khi người công nhân quan tâm nhiều đến thời gian hoàn thành vượt mức ở chỉ tiêu nên ít chú trọng đến chất lượng công việc.
Lương có thưởng được tính:
Lth =
Trong đó:
L: Tiền lương theo sản phẩm với đơn giá cố định
m: % tiền thưởng theo 1% hoàn thành mức chỉ tiêu thưởng.
h: % hoàn thành mức chỉ tiêu thưởng.
Thứ sáu là, chế độ trả lương theo sản phẩm luỹ tiến chế độ này áp dụng ở một số bộ phận yếu trong sản xuất bởi khi giải quyết được khâu này sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch. ở công ty, nguồn tiền trả thêm được dựa trên tiền tiết kiệm, chi phí sản xuất gián tiếp.
Trong chế độ trả lương này người ta dùng hai loại đơn giá: đơn giá cố định và đơn giá luỹ tiến. Đơn giá cố định dùng để tính cho các sản phẩm nằm trong mức quy định còn những sản phẩm vượt mức sẽ được trả theo đơn giá luỹ tiến cao hơn giá cố định, đơn giá luỹ tiến dựa vào đơn giá cố định và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá được tính theo công thức sau:
K = x 100
Trong đó:
K: Tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý
Dcđ: Tỷ trọng chi phí sản xuất gián tiếp cố định trong giá thành sản phẩm.
Tc: Tỷ trọng tiền công nhân sản xuất trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành mức sản lượng 100%.
Công thức tính tổng tiền lương của công nhân là:
ồL = P. Q1 + P.K (Q1 - Q0)
Trong đó:
ồL: Tổng tiền lương
Q1: Sản lượng thực tế
Q0: Sản lượng đạt mức khởi điểm
P: Đơn giá cố định
L: Tỷ lê đơn giá sản phẩm được nâng cao.
Vì tiền lương được tính theo sản phẩm luỹ tiến phải trả đơn giá cao hơn cho những sản phẩm vượt mức nên tốc độ tăng của tiền lương có khả năng lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động nên người ta chỉ dùng một phần số tiền tiết kiệm được về chi phí sản xuất gián tiếp cố định (thường là 50%) để tăng đơn giá, phần còn lại để hạ giá thành.
Khi áp dụng chế độ tiền lương này, người ta thường xây dựng bảng biểu để quy định mức độ vượt mức sản lượng và tỷ lệ tăng đơn giá sau một thời gian khi khâu yêu cầu sản xuất được xoá bỏ, sản xuất ổn định cân bằng thì nên chuyển sang chế độ tiền lương sản phẩm bình thường.
IV. Sự cần thiết phải hoàn thiện hình thức tổ chức quản lý trả lương theo sản phẩm.
1. Tác dụng của lương sản phẩm.
Việc trả lương theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động của mỗi người, do vậy nó kích thích người lao động hăng say làm việc, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động hạn chế những hành động tiêu cực trong sản xuất, thiếu trách nhiệm làm bừa bãi làm ẩu. Nó cũng thúc đẩy cán bộ quản lý xí nghiệp phải cải tiến công tác đề cao trách nhiệm sản xuất và tổ chức lao động, quản lý đạt năng suất, chất lượng và có hiệu quả cao. Từ đó thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt. Mặt khác làm tốt công tác tiền lương nói chung và công tác trả lương sản phẩm nói riêng không những có lợi cho người lao động mà còn đối với toàn xã hội. Đó chính là sự tin tưởng gắn bó của người lao động vào doanh nghiệp.
Việc trả lương theo sản phẩm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng. Sản phẩm lao động nó gắn thu nhập với kết quả lao động của mỗi người, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Do đó kích thích công nhân ra sức nâng cao nănag suất lao động.
Mục đích của việc trả lương theo sản phẩm là nhằm phân phối hợp lý tiền lương trong lao động, thực hiện đúng nguyên tắc hưởng theo lao động. Việc trả lương theo sản phẩm còn khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong sản xuất tăng năng suất lao động góp phần đưa doanh nghiệp đi lên và đứng vững trong cơ chế thị trường.
Lương sản phẩm cũng phản ánh khách quan về tiêu hao sức lao động giữa người thành thạo nghề nghiệp cùng một cấp bậc nhưng khác nhau về kỹ năng sản xuất, kỹ thuật, cách làm việc, sức khoẻ... Do đó khuyến khích người thợ quan tâm đến công việc của mình hơn, tìm tòi học hỏi để tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao kỹ thuật, sử dụng hợp lý triệt để công suất máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích cho cá nhân và doanh nghiệp.
Việc trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng thúc đẩy việc cải tiến tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, củng cố kỹ thuật lao động, hình thành phong cách lao động công nghiệp, phát huy tinh thần tập thể của người lao động vì bất cứ hiện tượng nào ảnh hưởng đến quy trình kỹ thuật làm đình trệ sản xuất là đều ảnh hưởng đến kết quả lao động, làm cho sản lượng tụt xuống, thu thập của người lao động giảm xuống, vì thế khi có hiện tượng này nó không những không đòi hỏi người thợ khắc phục thiếu sót thật nhanh chóng mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có hướng đi đúng và tìm cách giải quyết. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của người công nhân trong doanh nghiệp.
2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý trả lương.
Hiện nay chúng ta đang áp dụng hai hình thức tư tưởng là trả lương theo thời gian và lương theo sản phẩm. Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian lao động và trình độ tay nghề của người lao động để quy định mà không quan tâm đến số lượng sản phẩm thực tế làm ra như vậy việc trả lương theo thời gian chỉ phản ánh được một số lượng thời gian lao động của người công nhân, chưa phản ánh về mặt chất lượng lao động của người công nhân.
Qua đó chúng ta thấy rằng trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn trả lương theo thời gian ở chỗ nó căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, lương của người công nhân nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm mình làm ra nhiều hay ít, tốt hay xuất. Vì vậy đây là hình thức trả lương công bằng nhất, hợp lý nhất, thực tế nhất cần áp dụng nhất đối với những nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm, trong ngành công nghiệp.
Để chuyển sang cơ chế thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể hoàn thành các hình thức, chế độ trả lương vì nó chính là nội dung của tự chủ sản xuất. Mặt khác nó có tác dụng tích cực, đến các mặt của quá trình tổ chức, quản lý sản xuất, đẩy nhanh quá trình tự chủ của xí nghiệp. Do đó, hình thức trả lương theo sản phẩm thể hiện tính khoa học cao so với hình thức trả lương theo thơì gian và là hình thức thích hợp nhất để thực hiện phân phối theo lao động, mức thu nhập của mỗi người trong đơn vị phụ thuộc vào năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của mình và của toàn doanh nghiệp, không hạn chế mức thu nhập tối đa.
Hình thức trả lương theo sản phẩm là một công cụ của hệ thống đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tuy nhiên nó vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực tế cho thấy việc xác định đơn giá tiền lương trong hình thức trả lương theo sản phẩm là rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế kỹ thuật như hệ thống các định mức lao động, định mức vật tư và sự biến động của giá cả máy móc thiết bị, tỷ lệ lạm phát...
Trong các doanh nghiệp, đa số các hệ thống định mức đã lạc hậu hoặc thiếu chính xác, mặt khác một số chức năng có thể có những khâu những đoạn có thể xây dựng định mức đế tiến hành trả lương theo sản phẩm nhưng xí nghiệp vẫn trả lương theo thời gian. Có thể do chủ quan hoặc khách quan mà đơn giá tiền lương tính cao hơn thực tế, người lao động nhận tiền lương cao hơn sức lao động bỏ ra lại có doanh nghiệp tính đơn giá thấp hơn thực tế gây thiệt thòi cho người lao động.
Như vậy đơn giá tiền lương không chính xác sẽ gây ra mất công bằng trong lao động.
Mặt khác, công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc, công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm cũng chưa được các doanh nghiệp chú ý lắm. Bên cạnh đó do công nhân có xu hướng chạy theo khối lượng sản phẩm mà không chú ý đến chất lượng cũng là một vấn đề cần khắc phục, và tình trạng lãng phí nguyên vật liệu, sử dụng máy móc thiết bị không hợp lý cũng phải bàn đến.
3. Phương hướng hoàn thiện trả lương theo sản phẩm.
Từ những thực tế còn tồn tại ở trên để khắc phục những mặt còn hạn chế đó và phát huy những ưu điểm của hình thức trả lương theo sản phẩm khi áp dụng các doanh nghiệp còn chú ý các vấn đề sau:
Một là, xây dựng hệ thống định mức có căn cứ khoa học với từng loại sản phẩm, từng khâu sản xuất của từng doanh nghiệp.
Hai là, tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sản xuất.
Ba là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị cho người lao động để họ nhận biết rõ trách nhiệm khi họ làm việc theo cơ chế thị trường trả lương theo sản phẩm.
Bốn là, thực hiện phân công lao động hợp lý, bố trí người lao động phù hợp giữa bậc thợ và bậc công việc để tạo điều kiện cho việc trả lương đúng với chất lượng lao động.
Năm là, thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm.
Sáu là, khi có sự thay đổi về định mức lao động, chế độ tiền lương, điều kiện sản xuất, điều kiện lao động, chất lượng sản phẩm, kết cấu sản phẩm thì phải xác định lại đơn giá tiền lương.
Tóm lại: Trong các chế độ trả lương đều bộc lộ những ưu, nhược điểm nhất định nhưng xét khái quát tổng thể thì hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tiên tiến hơn, phù hợp hơn trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Do vậy hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm là cần thiết trong các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm và nhất là trong ngành công nghiệp, vận chuyển, khai thác. Bằng hình thức trả lương theo sản phẩm sẽ quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động và nó có nhiều tác dụng tích cực trong các đơn vị cơ sở kích thích người lao động tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần II.
Thực trạng về công tác quản lý tiền lương ở Cảng khuyến lương.
I. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tiền lương.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Cảng Khuyến Lương.
Cảng Khuyến Lương trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển pha sông. Cảng Khuyến lương là một doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Giao thông vận tải, được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ - TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ giao thông vận tải. Cảng có trụ sở làm việc chính tại xã Trần Phú - huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Diện tích mặt bằng xây dựng Cảng 11ha. Vào thời điểm 1985 Bộ giao thông vận tải có quyết định dừng khai thác bến phà Khuyến Lương, chuyển khu đất bờ nam bến phà vào mặt bằng xây dựng Cảng Khuyến Lương bao gồm khu cầu tàu, bãi chứa hàng, khu kho và nhà làm việc cơ sở lán trại được xây dựng từ những năm chiến tranh chống Mỹ của đơn vị đảm bảo cho giao thông 208, được chuyển giao cho Cảng Khuyến Lương quản lý khai thác. Lực lượng cán bộ công nhân viên một thời oanh liệt dũng cảm kiên cường bám trụ bến phà dưới mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, để luôn đảm bảo cho giao thông thông suốt trong thời chiến tranh phá hoại, được chuyển về Cảng là lực lượng chính tham gia vào lao động bốc xếp giai đoạn đầu mới thành lập.
Năm 1986 Bộ giao thông vận tải phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật xây dựng Cảng giai đoạn I. Sau 3 năm xây dựng, giai đoạn I kết thúc các hạng mục đã đưa vào khai thác gồm:
- Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 10m được sử dụng để xếp dỡ hàng cho tầu pha sông biển loại 1000 tấn trọng tải.
- Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 7m chuyên dùng xếp dỡ hàng cho xà lan, tàu sông tự hành.
- Một bến nghiêng chuyên dùng để xếp dỡ, kích kéo hàng nặng, hàng siêu trường siêu trọng.
- Hai kho chứa hàng kiên cố có tổng diện tích là 1.720m2.
- Ba cần trục bánh lốp có sức nâng 12T, 16T, 25T.
- Gần 30.000m2 bãi chứa hàng.
Đến ngày 27/4/1992, Cảng được Bộ quyết định bổ sung thêm nhiệm vụ cho Cảng trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hợp được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ/TCCB - LĐ. Ngoài những nhiệm vụ được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thương thuyền và các dịch vụ sản xuất kinh doanh dịch vụ khác.
Đến ngày 3/9/1997 để phù hợp với tình hình đất nước, Cảng được chuyển giao cho tổng công ty hàng hải Việt Nam mà trước đó là Bộ GTVT theo quyết định số 428/TCTL của Tổng công ty và cho tới nay.
Qua thời gian dài thành lập và trưởng thành, Cảng đã có bề dày kinh nghiệm kinh doanh, tổ chức quản lý, lãnh đạo và đã có nhiều thành tích đóng góp xây dựng đất nước. Cảng Khuyến Lương đã nhận được bằng khen của Bộ GTVT và một số phần thưởng khác của các cơ quan cấp trên, đó là sự đánh giá đúng mức cho những nỗ lực vượt khó khăn của Cảng trong cơ chế thị trường.
2. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tar lương theo sản phẩm.
2.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng.
Trong cơ chế thị trường, mặc dù là một đơn vị doanh nghiệp nhà nước, do nhà nước cấp vốn với số vốn rất ít ỏi và nằm dưới sự quản lý của Tổng công ty hàng hải Việt Nam nhưng Cảng Khuyến Lương là một đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh độc lập, tự hạch toán độc lập làm sao hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước và đảm bảo kinh doanh dịch vụ có lãi đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên.
Trong những năm hoạt động kinh doanh dịch vụ vừa qua Cảng đã gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nguồn hàng và thiết bị đâù tư. Nhưng nhờ sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên của Cảng nên Cảng đã vượt qua và đạt được những kết quả nhất định.
Năm 1999, Cảng hoạt động trong tình hình có một số thuận lợi nhất định, trong đó là nổi lên sản lượng bốc xếp, tấn thông qua tại Cảng vẫn đang và có đà phát triển, đặc biệt việc khai thác và tiêu thụ cát đen được đẩy mạnh, tổ chức đưa người và thiết bị vươn xa ra ngoài khu vực Cảng để khai thác thêm nguồn hàng bốc xếp, doanh thu của Cảng năm 1999 đã đạt hơn 13 tỷ đồng so với năm 1998 là tỷ đồng sau đây là kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng trong mấy năm gần đây (biểu 1)
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cảng.
- Theo QĐ 2030/TCTB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT.
+ Cảng là đơn vị kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hoá, đảm bảo an toàn lao động và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch được giao đáp ứng kịp thời yêu cầu vận chuyển hàng xuất nhập khẩu và hàng nội địa.
+ Giao nhận và bảo quản hàng hoá trong quá trình xếp dỡ vận chuyển và lưu kho bãi chống mất mát hư hỏng và thất lạc.
+ Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất của Cảng, nâng cao năng suất lao động, giải phóng nhanh các phương tiện vận tải và kho bãi Cảng.
+ Quản lý đại tu sửa chữa cầu bến, luồng lạch phao kê trong phạm vi vận tải và bốc xếp dỡ, thông tin liên lạc và phương tiện khác của Cảng theo đúng qui định và kỹ thuật đảm bảo hoạt động thường xuyên có hiệu quả.
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành các qui định luật lệ về giao thông vận tải đối với các phương tiện hoạt động trong phạm vi của Cảng làm các thủ tục cần thiết cho phương tiện vận tải ra vào Cảng.
+ Tổ chức phòng cháy, chữa cháy, cấp cứu tai nạn phương tiện vận tải, xếp dỡ, tổ chức điều tra xử lý các vụ tai nạn gây tổn thất cho tài sản của nhà nước xảy ra trong phạm vi quản lý của Cảng.
- Theo quyết định bổ sung ngày 27/4/1992 số 673/TCCB - LĐ của Bộ GTVT.
+ Hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông được thành lập theo QĐ 2030 QĐ/TCCB - LĐ ngày 11/10/1985 ngoài những nhiệm vụ đã được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thường xuyên và các dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp khác.
+ Trong quá trình hoạt động Cảng có trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước, các qui định cụ thể của Bộ, các ngành đối với doanh nghiệp Nhà nước.
- Theo QĐ số 428/TCTL ngày 3/9/1997 của Tổng công ty hàng hải Việt Nam.
+ Quản lý xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng, trên cơ sở thực hiện kế hoạch đầu tư của Tổng công ty hàng hải Việt Nam.
+ Tổ chức bốc xếp, bảo quản hàng hoá, phục vụ các phương tiện đến và đi khỏi Cảng.
+ Tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải chuyển hàng hoá bằng đường thủy, đường bộ.
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cảng.
Về tổ chức bộ máy: quản lý của Cảng theo quyết định số 2030/QĐ TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT, bộ máy quản lý gồm 1 giám đốc, 3 phó giám đốc và các thành phần trực thuộc khác.
Qua nhiều năm hoạt động, bộ máy quản lý của Cảng càng tỏ ra cồng kềnh, thiếu năng động, bảo thủ, trì trệ đặc biệt sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường bộ máy quản lý của Cảng càng thể hiện những yếu kém.
Quý IV năm 1997, Tổng công ty hàng hải Việt Nam đã có quyết định số 428/TC - LĐ về việc tổ chức lại Cảng Khuyến Lương. Trong đó mô hình tổ chức bộ máy được xây dựng mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo được củng cố và thay đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.
Mô hình bộ máy quản lý mới đang phát triển hiệu quả trong hoạt động quản trị. Các đơn vị đã tập hợp được trí tuệ, sức lực, cùng chung sức tạo năng lực mới, khí thế mới, tinh thần mới, quản lý mới. Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Cảng trong 2 năm qua đạt hiệu quả cao.
Ngày 26/8/1999 Tổng giám đốc xí nghiệp LHVT biển pha sông đã phê duyệt mô hình bộ máy quản lý của Cảng theo sơ đồ sau (trang bên)
1. Giám đốc:
Theo uỷ quyền của Tổng giám đốc XNLHVT Biển pha sông, là người có quyền điều hành cao nhất trong Cảng, là người chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Tổng giám đốc XNLH về mọi hoạt động của Cảng.
2. Phó giám đốc sản xuất: phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực:
+ Phòng kế hoạch điều độ.
+ Đội kho hàng
+ Đội cơ giới.
3. Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách theo dõi và tham mựu cho giám đốc Cảng các khu vực.
+ Phòng kỹ thuật vật tư
+ Xưởng sửa chữa cơ khí
+ Bồi dưỡng nâng cao tay nghề của công nhân
+ An toàn lao động và an toàn thiết bị
4. Phó giám đốc xây dựng cơ bản.
Phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực.
+ Phòng bảo vệ đời sống
+ Đội xây dựng cơ bản
* Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ
- Phòng nhân chính: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau:
ã Lao động tiền lương
ã Tổ chức cán bộ
ã Các loại hình bảo hiểm (xã hội, tai nạn, thiết bị)
ã Bảo hộ lao động và an toàn lao động
- Phòng kế toán tài vụ: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau:
ã Thống kê tài c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28996.DOC