Mục lục
Trang
Mục lục 1
Phần I. Vai trò của ngành công nghiệp dệt - may việt nam đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
I ) Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1. Xu thế chuyển dịch sản xuất hàng Dệt May trên thế giới
2. Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đối với quá trình CNH – HĐH
2.1) Đặc điểm của ngành công nghiệp Dệt May :
2.2) Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH
II. Sự cần thiết phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam
Phần II. Thực trạng của ngành công nghiệp Dệt - may Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000
I ) Thực trạng về tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của ngành Dệt - May
1. Tình hình sản xuất giai đoạn 1995-2001
2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của ngành Dệt - May
2.1 Tình hình tiêu thụ sản phẩm trong nước
2.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài
2.3 Thị trường Châu Âu (EU):
2.4 Thị trường Nhật Bản:
2.5 Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ:
2.6 Thị trường ASEAN:
II ) Thực trạng về các nguồn lực sản xuất của ngành công nghiệp Dệt May
1. Về năng lực sản xuất các sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam.
2. Về lao động và công tác đào tạo lao động của ngành công nghiệp Dệt May
2.1 Lao động của ngành Dệt May Việt Nam
2.2 Công tác đào tạo lao động quản lý ngành Dệt May
3. Về thiết bị công nghệ của ngành Dệt May Việt Nam
3.1 Thiết bị, công nghệ kéo sợi
3.2 Thiết bị, công nghệ dệt thoi
3.3 Thiết bị, công nghệ dệt kim
3.4 Thiết bị, công nghệ in nhuộm:
3.5 Thiết bị, công nghệ may:
4. Về nguyên liệu sản xuất ngành Dệt May
4.1 Nguyên liệu cho ngành Dệt:
4.2 Nguyên liệu cho ngành May:
III. thực trạng về đầu tư của ngành Dệt May
1. Về nguồn vốn đầu tư cho ngành công nghiệp Dệt May
1.1) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.2) Nguồn vốn đầu tư trong nước:
IV. Đánh giá tổng quan về ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam 1. Những kết quả đã được của Ngành
2. Những hạn chế và nguyên nhân của Ngành
2.1) Những hạn chế chủ yếu của Ngành:
2.2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế.
Phần III
Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO
A/ Quan điểm và mục tiêu tổng quát phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
1. Quan điểm phát triển:
2. Mục tiêu phát triển:
2.1) Mục tiêu tổng quát:
2.2 Các chỉ tiêu cụ thể:
B/ Một số vấn đề đặt ra cho ngành công nghiệp Dệt May Việt nam trong quá trình hội nhập vào WTO.
1. Sự ra đời và mục tiêu của WTO
2) Lộ trình cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng Dệt May của Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO
2.1 Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
2.2 ) Hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam với EU giai đoạn 2000 - 2005:
2.3) Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
3. Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO
3.1 Những cơ hội của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO
3.2 Những thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập
4. Yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO.
4.1 Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hội nhập vào WTO với những cơ hội và thách thức
4.2 Những yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May
C/ một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
I. Giải pháp đối với ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010
1. Giải pháp về tài chính và vốn
2. Giải pháp về đầu tư
3. Giải pháp về thị trường.
3.1 ) đối với thị trường xuất khẩu
3.2 )Đối với thị trường trong nước
4. Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực
5. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
II. một số cơ chế, chính sách hỗ trợ để phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
1. Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt
2. Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp Dệt May tập trung
3. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu Dệt May
4. Chính sách hỗ trợ cây bông vải
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 Roto
1.600 Roto
(TQ)
9.456
(Italia)
13. Dệt Hoà Thọ
18.928
8.928
Cộng
677.124
+3520 Roto
84.600
+1600 Roto
25.856
10.200
Nguồn : Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
Bảng trên cho ta thấy, hiện nay toàn ngành có 677.124 cọc sợi và 3520 roto. Trong đó:
Thiết bị mới hoàn toàn là 84600 cọc sợi và 1600 roto.
Thiết bị được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu là 56500 cọc sợi.
Thiết bị bổ sung nâng cấp là 10200 cọc sợi.
Nhìn chung, thiết bị của Ngành còn rất lạc hậu, tỷ lệ số cọc sợi mới hoàn toàn thấp chỉ chiếm 12,5% tổng số cọc sợi của toàn ngành, số cọc sợi được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu cũng chỉ chiếm hơn 8,3%, thiết bị nâng cấp không đáng kể chỉ có 1,5%, tức là số thiết bị được coi là hiện đại chỉ có khoảng 22,3% tổng số cọc sợi. Hiện đã có một số doanh nghiệp như Dệt Thành Công, Dệt Nha Trang, Dệt Phong Phú đã mua sắm thiết bị kéo sợi tiên tiến là các roto nhưng con số này còn ít ỏi so với quy mô thiết bị toàn ngành chỉ có 3520 roto, mà chủ yếu là của Trung Quốc (chiếm 91%).
a.2) Công nghệ:
Tính đến cuối thập kỷ 80, công nghệ kéo sợi của Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu, máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, một số thuộc thế hệ I, một số thuộc thế hệ II. Trình độ tự động thấp, sản phẩm đạt chất lượng thấp so với chất lượng trung bình của thế giới, hầu hết đạt mức đường75% của hệ thống Uster thế giới. Công nghệ kéo sợi chải thô chiếm phần lớn, sản xuất ra các loại vải có chi số thấp, sợi chải kỹ sản xuất đáp ứng được 3% nhu cầu trong nước.
Khi bước vào nền kinh tế thị trường, một số dy mới đã được nhập như dy công nghệ chải bông liên hợp tự động cao sử dụng máy ghép tự động khống chế chất lượng. Nhờ đó mà đã có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, đạt mức đường 25% của hệ thống Uster thế giới. Nhưng nhìn chung số công nghệ cao còn quá ít, đa số công nghệ kéo sợi của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn còn đang trong tình trạng rất lạc hậu.
Thiết bị, công nghệ dệt thoi
Về thiết bị, trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp đã bỏ vốn đầu tư mua sắm thiết bị góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm; hàng ngàn máy dệt không thoi có thoi khổ rộng được nhập về, nhiều bộ mắc hồ mới hiện đại thay cho các thiết bị cũ, đến nay trong toàn ngành, máy dệt mới chiếm 25%, số lượng máy có khả năng nâng cấp chiếm 45%.
Về công nghệ, đã chuyển biến mạnh dưới tác động của cơ chế thị trường, một số công nghệ hiện đại đã được nhập như :
Công nghệ dệt sợi bông 100% : Có tiến độ trong dệt vải bảo hộ lao động, vải cào bông, xuất khẩu (Tiệp, Tây Âu) và phục vụ nội địa. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt khăn bông có tăng trưởng mạnh mẽ hàng chục nghìn tấn cho Nhật, Đài Loan.
Công nghệ dệt vải tổng hợp : Nhờ thiết bị se, hấp giảm trọng lượng nên đã sản xuất ra được nhiều sản phẩm giả tơ, giả len cao cấp được khách hàng ưa chuộng.
Công nghệ dệt vải pha : Được phát triển mạnh mẽ, sử dụng tới 50% công suất kéo sợi của toàn ngành. Công nghệ sản xuất đã tương đối đồng bộ giữa kéo sợi, dệt vải, hoàn tất tạo được nhiều sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Công nghệ tơ tằm và len : Đã mở ra khả năng mở rộng qua sản xuất thăm dò ở một số doanh nghiệp. Công nghệ kéo sợi tại công ty len Hải Phòng và dệt len tại Dệt lụa Nam Định có nhiều triển vọng phát triển qua mặt hàng xuất khẩu phục vụ sĩ quan quân đội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tơ tằm còn gặp nhiều khó khăn do sức cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài. Do vậy, khả năng phát triển công nghệ tơ tằm còn nhiều nghi vấn trong tương lai.
Công nghệ dệt vải Denim : Đã có ở công ty liên doanh IUMBO-Sài Gòn, Phong Phú.
Thiết bị, công nghệ dệt kim
Từ sau năm 1986, thiết bị dệt kim được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đều thuộc thế hệ mới, trong đó có nhiều loại được trang bị máy vi tính nên đã đạt được năng suất cao, chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng. Tuy được đầu tư thiết bị mới, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng do : kiến thức về thị trường xuất khẩu, kiến thức về đầu tư, về mặt hàng còn rất hạn chế ở những năm đầu của thời kỳ mở cửa ; thiếu chuyên gia và công nhân lành nghề, thiếu các nhà kinh doanh và quản trị giỏi ; khả năng vốn đầu tư không có, hầu hết là đều phải đi vay nên hạn chế trong việc phát triển. Hơn nữa, chất lượng sợi sản xuất trong nội địa thấp, không đủ tiêu chuẩn để làm ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Nhiều chuyên gia nước ngoài đã khẳng định chất lượng nguyên liệu chiếm tới 70% yếu tố tạo ra sản phẩm có giá trị cao, còn thiết bị chiếm 30%. Chính hạn chế về nguồn cung cấp nguyên liệu, đặc biệt là sợi Cotton chải kỹ chất lượng cao nên phần lớn các doanh nghiệp đầu tư mới trong giai đoạn này đều lựa chọn phương án sản phẩm dệt kim từ sợi PE/Co - do ổn định được kích thước vải trên máy văng định hình. Còn vải dệt kim từ sợi Cotton hiện phần lớn phải nhập sợi để làm hàng xuất khẩu hoặc chỉ sản xuất từ sợi Cotton nội địa với số lượng hạn chế và xuất với giá trị thấp.
Thiết bị, công nghệ in nhuộm:
Trong những năm vừa qua, ngành đã nhập được một số thiết bị hiện đại của thế giới như máy nhuộm sợi Bobin Hisaki, máy Jet, máy làm bóng dệt kim tròn Dornier, máy in hoa cấy bông, máy in nhuộm hoa lưới quay, máy hồ văng định hình, máy Sanfort, comfit, cào bông, chải tuyết… làm các mặt hàng từ PE/Co, Petex, có khả năng sản xuất các áo Jacket, áo sơ mi. Song theo đánh giá của Bộ Công nghiệp và Tổng công ty Dệt May Việt Nam, thiết bị công nghệ in nhuộm đã rất lạc hậu. Hiện nay, thiết bị in nhuộm có khoảng 35% còn mới, 30% có thể cải tạo nâng cấp được, 35% phải loại bỏ dần từ nay đến năm 2010. In nhuộm được coi là khâu yếu nhất trong hệ thống dệt của ngành Dệt May làm cho sản phẩm dệt không đáp ứng được nhu cầu vải cho may xuất khẩu (hiện chỉ đáp ứng được 10 - 15%) nhu cầu của ngành may. Do đó, hiệu quả của toàn ngành Dệt May giảm, không tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa ngành Dệt và ngành May trong quá trình phát triển.
Thiết bị, công nghệ may:
Thiết bị, công nghệ may được đánh giá là hiện đại nhất trong ngành công nghiệp Dệt May.
e.1) Về thiết bị:
Từ đầu thập kỷ 90, ngành May không ngừng đầu tư đổi mới thiết bị, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hiện tại thiết bị, công nghệ ngành May ở từng khâu sản xuất như sau:
Công đoạn cắt: Vẫn trải vải thủ công, chưa có máy trải vải; sử dụng máy cắt đầu bàn, thiết bị cắt vòng, các máy cắt đẩy tay tiên tiến có lực cắt khoẻ, tốc độ cao; các máy ép dính liên tục của Đức, Nhật có năng suất cao cũng đã được sử dụng.
Công đoạn may: Các máy may phần lớn là máy hiện đại có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Máy may chủ yếu là máy JUKI của Nhật. Các máy chuyên dùng (máy may 2 kim, máy vắt, cuốn ống, thùa bằng…) cũng đã được trang bị.
Xu hướng chung ngày càng nhiều máy chuyên dùng được sử dụng để nâng cao năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất mọi mặt hàng:
đ Dây chuyền may sơ mi của công ty may 10: Có tự động may cổ, may secmăng, máy tự động là thân áo.
đDây chuyền may quần: Dây chuyền đứng thao tác, nhiều bộ phận may theo chương trình tự động.
Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng hệ thống là hơi, tối thiểu cũng dùng bàn là treo phun nước để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
e.2) Về công nghệ:
Công nghệ may cũng có sự chuyển biến kịp thời đồng bộ với thiết bị để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công nghệ may ở các xí nghiệp gồm 4 giai đoạn:
Kho nguyên phụ liệu: Nguyên phụ liệu của từng mã hàng kèm theo bảng màu và số lượng được các xí nghiệp phát về từng phân xưởng.
Khâu cắt: Cắt trên giác đồ mẫu giấy, có nhiều ghim kẹm, có giấy lót dưới bàn vỉ đảm bảo chính xác, đánh số bằng giấy theo từng cây vải hoặc giác mẫu bằng hệ thống máy vi tính.
Khâu may: Công nhân tay nghề cao, các đường mí đều sử dụng cữ, gá. Các dây chuyền may bố trí vừa và nhỏ khoảng 25 - 26 máy may, sử dụng 34 - 38 lao động, có khả năng cơ động nhanh mỗi khi có thay đổi mã hàng chỉ cần tối đa 2 ngày là có thể ổn định sản xuất. Nhân viên kiểm tra được bố trí vào các dây chuyền may chấn chỉnh sai hỏng ngay từ đầu, tránh được sai hỏng hàng loạt.
Khâu hoàn tất: Rất được coi trọng vì đây là khâu tốn thêm chất lượng sản phẩm, phần lớn dùng hệ thống là hơi, đóng túi nilon cho vào thùng caton.
Công nghệ mới ứng dụng tin học đã được một số công ty đưa vào áp dụng trong một số khâu của quá trình sản xuất như phần thiết kế được làm trên máy vi tính và được nháy mẫu ra nhiều cỡ khác nhau.
Về nguyên liệu sản xuất ngành Dệt May
Trong sản xuất, nguyên liệu ngành Dệt May đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và hiệu quả sản xuất toàn ngành Dệt May. Nguyên liệu chính và được sử dụng nhiều nhất của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Nguyên liệu cho ngành Dệt:
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số nguyên liệu chính như bông xơ và tơ tằm nhưng với số lượng nhỏ, chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu của Ngành. Phần lớn nguyên liệu phải nhập ngoại, riêng xơ sợi tổng hợp và thuốc nhuộm phải nhập gần như 100%, bông xơ phải nhập đến 90%, còn các hoá chất khác cũng phải nhập tới 80%.
Bảng 5 : Tình hình nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu cho ngành Dệt (1996 -2000)
Nguyên liệu
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
Bông xơ
Nghìn tấn
37,4
73,9
67,9
77,4
83,9
Sợi tổng hợp
Nghìn tấn
74,3
76,6
129,9
159,9
176,4
Nguồn : Tổng cục hải quan
Trên 80% giá trị thành phẩm ngành Dệt nằm ở giá trị nguyên liệu, giá trị gia tăng chỉ chiếm từ 20 - 30%. Trong khi đó ngành Dệt Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguyên liệu cho mình. Đây chính là nguyên nhân làm cho ngành Dệt của Việt Nam chưa phát triển.
Nguyên liệu cho ngành May:
Sản phẩm đầu ra của ngành Dệt chính là nguyên liệu cho ngành May. Do sự yếu kém của ngành Dệt trong nước, chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành May, trên 85% lượng vải cung cấp cho May xuất khẩu là phải nhập khẩu. Hàng năm, ngành May phải nhập khẩu một lượng nguyên phụ liệu rất lớn : Năm 1997 là 18,6 triệu USD; năm 1998 là 16,5 triệu USD; năm 1999 là 10,5 triệu USD và năm 2000 là 8,7 triệu USD. Thế nên mặc dù giá trị xuất khẩu của ngành May đã tăng lên đáng kể qua các năm nhưng hiệu quả thực tế thu được lại không đáng là bao.
Mong muốn thoát khỏi cảnh làm thuê phụ thuộc vào nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là mong muốn chủ quan, vừa là đòi hỏi khách quan của ngành May Việt Nam.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Dệt và các doanh nghiệp May đều muốn hợp tác với nhau vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên, có một trở ngại lớn cho sự hợp tác này đó là chất lượng và giá cả của các sản phẩm Dệt trong nước hiện đang làm cho các doanh nghiệp May lo ngại. Để tháo gỡ khó khăn này, không chỉ là một vấn đề để giải quyết mà đó là cả một quá trình phối hợp đầu tư giữa các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam dưới sự quản lý của các cấp, các ngành.
thực trạng về đầu tư của ngành dệt may
Về nguồn vốn đầu tư cho ngành công nghiệp Dệt May
1.1) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tính đến thời điểm hiện nay thì ngành công nghiệp Dệt May có 211 dự án đầu tư nước ngoài đang có hiệu lực, với tổng số vốn đầu tư là 1,961 tỷ USD, trong đó 44 dự án giải thể và 2 dự án tạm ngưng, còn lại 165 dự án đang hoạt động với tổng số vốn thực hiện là 778,783 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn cấp phép. Cụ thể như sau:
1.1.1) Thực trạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Dệt:
Tổng số dự án đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt là 101 dự án được cấp phép với số vốn đầu tư là 1.692 triệu USD, có 18 dự án giải thể trước thời hạn (chiếm 18% số dự án) với vốn đầu tư là 159,37 triệu USD (chiếm 8,5 % vốn đăng ký), 83 dự án đang hoạt động với vốn đầu tư là 1.533 triệu USD. Trong đó:
58 dự án sản xuất sợi, dệt thoi, dệt kim.
14 dự án dệt len, thảm.
8 dự án sản xuất sợi PP, vải nilon, thảm.
2 dự án nhuộm.
1 dự án gia công hồ.
Về việc thực hiện đầu tư: Có 58 dự án (chiếm 80% tổng số dự án) đã góp vốn 605,77 triệu USD (bằng 40% vốn đăng ký) và đi vào hoạt động. Trong đó:
41 dự án (chiếm 58% tổng số dự án) đã sản xuất có doanh thu 751,77 triệu USD, trong đó giá trị xuất khẩu là 499,30 triệu USD (chiếm 67% tổng doanh thu).
17 dự án đang xây dựng cơ bản.
14 dự án đang làm thủ tục hành chính.
Về hình thức đầu tư: Các dự án chủ yếu được đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Trong đó:
1 dự án nhuộm hoạt động theo hình thức hợp tác kinh doanh và 1 dự án gia công hồ sợi.
73 dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài với vốn đầu tư đăng ký là 1.458 triệu USD (chiếm 94% tổng số vốn đầu tư), đã đưa vào hoạt động 597 triệu USD.
26 dự án liên doanh với vốn đầu tư là 179 triệu USD, đã đưa vào hoạt động 54,47 triệu USD, tạo ra doanh thu 198,16 triệu USD (giá trị xuất khẩu là 109,65 triệu USD bằng 55% tổng doanh thu).
2 dự án hợp doanh với vốn đầu tư là 1 triệu USD.
Về đối tác đầu tư: Hiện có 11 nước đang đầu tư vào ngành Dệt Việt Nam, chủ yếu là các nước Châu á, trong đó 3 nước có vốn đầu tư lớn nhất là:
Đài Loan 28 dự án với vốn đầu tư là 768,72 triệu USD (chiếm 50% tổng vốn hoạt động).
Hàn Quốc, 29 dự án với vốn đầu tư là 681,75 triệu USD (chiếm 44% tổng số vốn hoạt động).
HongKong, 6 dự án với vốn đầu tư là 41,781 triệu USD (chiếm 2,7% tổng số vốn hoạt động).
1.1.2) Thực trạng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành May:
Bảng 8 : Dự án đầu tư nước ngoài vào ngành May (1990 - 2001)
Chỉ tiêu
Tổng
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1. Dự án cấp phép
171
6
9
13
18
19
19
19
14
5
9
26
14
2. Dự án rút phép
31
0
1
0
4
4
6
5
4
3
1
2
1
3. Dự án hiệu lực
140
6
8
13
14
15
13
14
10
2
8
24
13
4. Dự án 100% NN
118
1
3
6
11
12
15
15
13
3
8
21
10
5. Dự án liên doanh
48
5
4
7
7
7
3
4
1
0
1
5
4
6. Dự án hợp doanh
5
0
2
0
0
0
1
0
0
2
0
0
0
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Ngành May có 171 dự án được cấp phép, vốn đầu tư là 372 triệu USD, 31 dự án bị giải thể (4,4% số dự án), còn lại 140 dự án với vốn đầu tư là 273triệu USD (80% tổng số vốn). Trong đó:
88 dự án sản xuất hàng may mặc.
9 dự án thêu.
18 dự án sản xuất đồ lót.
25 dự án sản xuất phụ liệu may.
Trong 140 dự án đang có hiệu lực có 76 dự án (chiếm 82% dự án hoạt động) đã triển khai thực hiện góp vốn giải ngân được 173,01 triệu USD (chiếm 65 % vốn đăng ký), trong đó 61 dự án đã sản xuất có doanh thu là 438,74 triệu USD (giá trị xuất khẩu là 384,58 triệu USD bằng 90% doanh thu); 15 dự án đang xây dựng cơ bản; còn lại 20 dự án đang làm thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị xây dựng cơ bản.
Về hình thức đầu tư: Các dự án được đầu tư chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. Theo hình thức 100% vốn nước ngoài có 118 dự án với vốn đầu tư là 273 triệu USD (chiếm 76% số dự án và 80% tổng số vốn đầu tư); theo hình thức liên doanh có 48 dự án với vốn đầu tư là 91 triệu USD; theo hình thức hợp doanh có 5 dự án với vốn đầu tư là 7 triệu USD.
Về đối tác đầu tư: Hiện có 16 nước đầu tư vào ngành công nghiệp Dệt MayViệt Nam , chủ yếu vẫn là các nước Châu á. Trong đó 3 nước có vốn đầu tư lớn nhất là:
Đài Loan, 28 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư là 75,14 triệu USD (chiếm 30% tổng số dự án, 32% tổng số vốn đầu tư).
Nhật Bản, 18 dự án với vốn đầu tư là 39,87 triệu USD (chiếm 19% tổng số dự án, 17% tổng vốn đầu tư).
HongKong, 15 dự án với vốn đầu tư là 24,39 triệu USD (chiếm 15,6% số dự án, 10,5% tổng vốn đầu tư).
Qua số liệu và phân tích ở trên cho ta thấy, trong những năm gần đây xu hướng đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt May nước ta vào ngành May nhiều hơn là ngành Dệt. Số dự án ngành Dệt năm 2000 là 9 dự án, năm 2001 là 3 dự án thị trong ngành May năm 2000 là 26 dự án và năm 2001 là 14 dự án. Tuy nhiên, vốn đầu tư cho ngành May đòi hỏi không nhiều cho nên tổng số vốn đầu tư cho ngành Dệt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư cho toàn ngành. Tính đến nay, trong tổng số 101 dự án đăng ký thực hiện, mới chỉ có 18 dự án rút giấy phép. Còn đối với ngành may, số dự án đăng ký là 171 thì có 31 dự án rút giấy phép. Tổng số vốn thực hiện trong toàn ngành là 830,89 triệu USD, trong đó Dệt có 597 triệu USD chiếm 71,85%, còn lại May 233,89 triệu USD chiếm 28,15%.
Đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam chủ yếu là theo hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vì với hình thức này, chủ đầu tư chủ động được trong sản xuất cũng như trong tiêu thụ sản phẩm. Điều này đã gây khó khăn cho ngành công nghiệp Dệt May vì sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực (bắt đầu từ năm 1997) thì bản thân các nước trong khu vực cũng đang bị thiếu vốn, do đó nguồn vốn FDI giảm đi rõ rệt trong các năm 1998,1999 và nhiều dự án bị rút vốn đầu tư, việc huy động vốn đầu tư mới lại rất khó khăn. Tuy nhiên, đến năm 2000 thì vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt May đã có sự tăng trở lại rất mạnh do việc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài mà cụ thể là việc ban hành Nghị định 24/NĐ/CP ngày 31/12/2000 quy định chi tiết việc thi hành luật nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, có sự phục hồi rất nhanh của nền kinh tế các nước trong khu vực. Ngành Dệt May nước ta đứng trước nhiều cơ hội lớn trong việc làm ăn buôn bán với các bạn hàng lớn như Nhật Bản, EU và Mỹ. Nguồn vốn này càng tăng mạnh hơn khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã được thông qua.
1.2) Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Nguồn vốn đầu tư trong nước thường được huy động thông qua các hình thức sau:
Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình.
Bảng 10 : Nguồn vốn đầu tư trong nước vào ngành Dệt May
Đơn vị tính : Tỷ đồng
1991 – 1998
1999
2000
2001
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
400
275,6
171,2
127
Khấu hao cơ bản và vốn tự bổ sung
581,5
76,7
125
262
Vốn vay từ Ngân hàng thương mại
1768,8
458,9
1166
950
Vốn ngân sách
6
8,6
24,1
Vốn ODA
170
180
229
81
Nguồn : Tổng công ty Dệt May Việt Nam
Qua bảng số liệu ta thấy nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt May. Nguồn vốn này thường là vốn vay ngắn hạn với lãi suất cao. Mặc dù vậy, nguồn vốn này vẫn bị đánh giá là quá nhỏ so với tiềm năng của nó. Hiện nay, các doanh nghiệp đang rất cần vốn để đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Cơ hội đầu tư đang mở rộng, nhiều ngân hàng sẵn sàng cho các doanh nghiệp vay vốn nếu họ có phương án đầu tư tốt. Phạm vi các doanh nghiệp vay vốn không chỉ bó hẹp ở các ngân hàng thương mại trong nước mà cả ở các ngân hàng thương mại nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này.
Đối với nguồn khấu hao và vốn tự bổ sung đang có chiều hướng tăng. Các doanh nghiệp đã dần thích nghi với môi trường cạnh tranh, đã bắt đầu làm ăn có hiệu quả, có tích luỹ, tỷ lệ tái đầu tư trong mỗi doanh nghiệp ngày càng tăng. Tuy nhiên, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn lắm trong tổng vốn đầu tư. Cụ thể năm 2000 là 8% và năm 2001 là khoảng 18,4%.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có xu hướng giảm từ 257,6 tỷ đồng năm 1999 xuống còn 171,2 tỷ đồng năm 2000 và 127 tỷ đồng năm 2001. Tuy nhiên, theo như dự báo nguồn vốn này sẽ tăng mạnh trở lại vào năm 2002 vào khoảng 2698 tỷ đồng do Nhà nước sẽ hỗ trợ tín dụng rất mạnh cho các dự án đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp mới cùng với những dự án đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu.
Vốn ngân sách chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư cho Dệt May. Lượng vốn này chủ yếu là hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường... Do vậy, các doanh nghiệp phải tự cố gắng, không nên trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn này.
Vốn ODA thường không ổn định qua các năm. Nguồn vốn này chủ yếu là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ giáo dục đào tạo và cải thiện môi trường làm việc chung trong ngành.
Đối với nguồn vốn từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lượng vốn đầu tư ngày càng tăng góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh ngay trong nước. Một số doanh nghiệp tư nhân đã khẳng định được chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế như gấm Thái Tuấn đã rất năng động trong việc tổ chức sản xuất, tìm đầu ra cho sản phẩm và góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của Ngành.
đánh giá tổng quan về ngành công nghiệp dệt may việt nam
Những kết quả đã được của Ngành
Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của đất nước và tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả hơn trong những năm tới. Trong những năm qua, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp Dệt May trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp không ngừng tăng lên. Nếu trong năm 1985 giá trị sản xuất toàn ngành chỉ chiếm 5,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp thì năm 2000 đã chiếm tới 7,86% (tính theo giá cố định 1994).
Bảng 11 : Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp Dệt May trong công nghiệp Việt Nam (theo giá cố định 1994)
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Toàn bộ công nghiệp
100
100
100
100
100
100
Công nghiệp dệt
5,97
5,40
5,40
5,53
5,56
4,81
Công nghiệp may
2,85
2,88
3,22
3,09
3,01
3,05
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Ngành công nghiệp Dệt May là một trong những ngành góp phần quan trọng vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 12 : Tỷ trọng KNXK ngành Dệt May trong tổng KNXK của ngành công nghiệp (1996 – 2000)
1996
1997
1998
1999
2000
Công nghiệp Dệt May (%)
15,92
15,04
14,5
15,17
13,1
Nguồn : Tổng cục hải quan
Mặc dù tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu không tăng qua các năm nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Ngành liên tục tăng. Nếu trong năm 1985, tổng kim ngạch xuất khẩu của công nghiệp Dệt May là 850 triệu USD, đến năm 2000 đã lên tới 1.892 triệu USD, chiếm hơn 13% tổng kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May đứng thứ hai sau xuất khẩu dầu thô.
Bảng 13 : Kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May (1996 – 2000)
1996
1997
1998
1999
2000
Giá trị KNXK của Ngành
(Triệu USD)
1150
1350
1352
1747
1892
Nguồn: Tổng cục hải quan
Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động, qua đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và ổn định xã hội. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện tính ưu việt của ngành này khi kinh tế đang còn kém phát triển, khả năng đầu tư giải quyết việc làm còn hạn chế. Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích cực đến sự phát triển của một số ngành khác, chẳng hạn như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng, nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Những hạn chế và nguyên nhân của Ngành
a) Những hạn chế chủ yếu của Ngành:
Thứ nhất, tuy có yêu cầu phát triển mạnh, nhưng đến nay ngành Dệt May Việt Nam vẫn còn nhỏ bé so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Bảng dưới đây chứng minh cho điều này.
Bảng 14 : Ngành Dệt May Việt Nam so với các nước trong khu vực:
Số lượng sợi
(nghìn Tấn)
Số lượng vải
(Triệu m2)
Sản phẩm may
(Triệu SP)
KNXK (Tr.USD)
Trung Quốc
5.300
21.000
10.000
50.000
ấn Độ
2.100
23.000
12500
Thái Lan
1.000
4.200
2.500
6.500
Inđônêxia
1.800
4.400
3.000
8.000
Việt Nam
85
304
400
2.000
Nguồn: Tổng Công ty Dệt May Việt Nam 2000
Những số liệu trên cho thấy trong lĩnh vực Dệt May, Việt Nam chưa phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các nước khác, cả trên thị trường thế giới và trong thị trường nội địa.
ở thị trường trong nước: Năm 1999 ngành Dệt cả nước chưa huy động được hết 40% năng lực sản xuất, do đó dệt được gần 317 triệu mét vải các loại phục vụ cho tiêu dùng trong nước là chủ yếu. Ngành May phải nhập hơn 200 triệu mét vải và gần 10 triệu sản phẩm quần áo may sẵn từ nước ngoài để tiêu thụ tại thị trường trong nước. Vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập ngoại, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn hàng Trung Quốc.
ở thị trường xuất khẩu: Kim ngạch buôn bán hàng Dệt May trên thị trường thế giới hàng năm lên tới 300 - 350 tỷ USD (chiếm hơn 6% tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới) và có mức tăng trưởng khá cao (trên 6%/năm). Thị trường buôn bán sản phẩm Dệt May trên thế giới tập trung ở 3 trung tâm lớn là : Châu á, Tây Âu, Bắc Mỹ. Như vậy tiềm năng của thị trường xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam hiện nay rất lớn. ở thị trường có hạn ngạch như khối EU, trong thời gian qua Việt Nam được ưu đãi khá nhiều trong việc cấp hạn ngạch cho hàng Dệt May. Tuy nhiên, so với các nước ASEAN và Trung Quốc, khả năng cạnh tranh của hàng Dệt May Việt Nam ở các thị trường lớn v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100326.doc