Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam

 

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNVVN VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP 2

I. Khái niệm, tiêu thức phân loại, ưu thế của DNVVN 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Đặc điểm của DNVVN 4

1.3.Ưu thế và vai trò của DNVVN 5

II. Lý luận chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 6

2.1. Khái niệm về hội nhập 6

2.2. Tính tất yếu của hội nhập 8

2.3. Những thành công bước đầu 9

2.4. Trở ngại trên đường đua hội nhập 10

III. Kinh nghiệm một số nước trong việc phát triển DNVVN 12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 17

I. Quá trình phát triển của DNVVN 17

1.1. Các DNVVN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp 17

1.2. Về các DNVVN trong khu vực nông thôn. 19

II. Những hạn chế và vướng mắc trong chính sách phát triển DNVVN 21

2.1. Những vướng mắc và cản trở trong việc thành lập và đăng ký kinh doanh 21

2.2. Những vướng mắc và hạn chế trong quá trình phát triển các DNVVN 24

3.Về tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô tới hoạt động của các DNVVN 31

3.1.Chính sách thương mại .30

3.2.Chính sách công nghiệp . 31

3.3. Chính sách tài chính tiền tệ. 32

3.4. Chính sách đầu tư : 33

3.5. Chính sách công nghệ đào tạo : 34

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 35

1. Thực hiện có hiệu quả luật doanh nghiệp 35

2.Ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sơ dữ liệu tập trung thông tin các doanh nghiệp và công ty đã đang ký và công khai những thông tin đó ra cho dân chúng. 37

3. Tiếp tục mở rộng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế cho các DNVVN 38

4. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế 41

5.Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính ,vốn và tín dụng. 43

6. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai 45

7. Về chính sách công nghệ 46

8. Tăng cường quản lý nhà nước đối với việc phát triển DNVVN 47

VIII. Thị trường hoá các khoản nợ 49

KẾT LUẬN 51

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 52

 

 

doc54 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về cả số tương đối lẫn tuyệt đối so với các loại khác. Với doanh nghiệp hộ gia đình, vốn bình quân là 921 USD, với các DN tư nhân là 2. 513 USD (Báo cáo của bộ lao động và thương binh xã hội. NXB khoa học và kỹ thuật HN- 1998. ) Theo số liệu điều tra cho thấy vốn của các DNVVN trong nông nghiệp miền Nam cao hơn miền Bắc. Mức thấp về vốn ban đầu không phản ánh những nhu cầu về vốn thấp và khác nhau, nhưng đó là kết quả của việc thiếu hỗ trợ về tín dụng. Trên 80% số DN được bộ lao động và thương binh xã hội khảo sát cho thấy chủ yếu họ dựa vào vốn tự có và vốn vay không lãi của bạn bè, họ hàng khi lập doanh nghiệp. Với doanh nghiệp hộ gia đình, con số này là 87% và với DNTN là 75%. Vốn tự có và vốn vay không trả lãi của chung các DNVVN khu vực nông thôn chiếm 90% vốn ban đầu. Nguồn vốn vay ngoài chủ yếu là vay tư nhân có trả lãi, khoảng 5.6% doanh nghiệp hộ gia đình và 19.4%DNTN huy động vốn bằng phương pháp này. Tuy nhiên mức đóng góp bình quân của loại nguồn vốn này trong tổng vốn ban đầu của một DNVVN khu vực nông thôn hầu như hoàn toàn dựa vào khả năng quy mô của các nguồn vốn tự có, có thể đầu tư mà không trông mong gì vào khoản dự kiến thu hồi hoặc mục tiêu yêu cầu vốn. Đối với nền kinh tế nói chung điều đó gây hậu quả nghiêm trọng, hơn nữa làm tăng chứ không giảm khác biệt về thu nhập và phân phối ở trong vùng cũng như trong từng hộ gia đình và toàn bộ cộng đồng ở nông thôn. Trình độ lao động và lương của khu vực này tương đối thấp, 26.5%số lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 6 phổ thông trở lên, chỉ có 16. 6% lao động có trình độ lớp 10.Theo bộ lao động và thương binh xã hội điều tra thì có 8.1% số doanh nghiệp thuê lao động trả lương và trung bình số lao động làm thuê chỉ chiếm 6.1% tổmg lực lượng lao động.DNTN ở nông thôn cũng như vậy phụ thuộc phần lớn vào lao động hộ gia đình, chiếm 43.6% tổng lực lượng lao động. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là trong địa phương. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp nông thôn với khách hàng ít mật thiết hơn so với hệ thống các DNVVN trong nền kinh tế nói chung, họ ít sản xuất theo đơn đặt hàng và không có các hợp đồng phụ. Mặt khác khu vực này lại không có mối quan hệ với khu vực doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chỉ cung cấp dưới 10% đầu vào cho doanh nghiệp khu vực nông thôn và mua sản phẩm với tỷ lệ ít hơn 10%. Trong sự phát triển của mình khó khăn về thị trường là một trong những vấn đề được đề cập nhiều nhất bên cạnh khó khăn về vốn. Điều này được thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất: Do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng các DNVVN ngành nghề nông thôn bị cạnh tranh mạnh mẽ. Vốn ít, công nghệ kém làm họ không thể cạnh tranh hữu hiệu. Thứ hai: Sự chia cắt kinh tế qua nhiều thị trường địa phương làm hạn chế doanh nghiệp mở rộng ra các thị trường bên ngoài khu vực của mình. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả khi sản xuất ra sản phẩm vượt quá nhu cầu thị trường, địa phương. Tóm lại: Nhiều nguyên nhân chúng ta phải đặc biệt chú ý tới DNVVN ở nông thôn. Các doanh nghiệp này đóng vai trò cực kỳ quan trọng như một phương tiện đa dạng hoá thị trường kinh tế và lao động nông thôn, là giải pháp tốt để giải quyết tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp, góp phần giảm bớt sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị về thu nhập và mức sốngHơn nữa, sự phát triển năng động và sự đa dạng hoá kinh tế nông thôn là giải pháp hữu hiệu nhất để ngăn cản dòng người từ nông thôn ra thành thị, giảm mật độ tăng dân số cho khu vực đô thị. Thực tế hiện nay ở Việt Nam các DN ngành nghề nông thôn nhìn chung gặp nhiều hạn chế và chưa có được sự quan tâm đúng mức của nhà nước song lại phải gánh vác vai trò quan trọng trên. II. Những hạn chế và vướng mắc trong chính sách phát triển DNVVN Theo bà Phạm Chi Lan- Phó chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì trên thế giới ngay cả ở những nước tiên tiến nhất, nơi có những tập đoàn khổng lồ đang hoạt động thì đa số cũng là DNVVN. Chẳng hạn 70% doanh nghiệp ở Mỹ là DNVVN. Còn ở Đức, Nhật thì tỷ lệ này là lên tới 75-80%. Như vậy các nước dù phát triển cao đến mấy thì họ vẫn coi DNVVN là xương sống của nền kinh tế. Nhận thức rõ ràng rằng loại hình doanh ngiệp này có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nhưng chỉ một số nước phát triển là chú trọng đầu tư còn các nước đang phát triển chưa quan tâm đúng mức mà nước ta là một trong số đó. 2.1. Những vướng mắc và cản trở trong việc thành lập và đăng ký kinh doanh Theo thống kê chưa đầy đủ của bộ kế hoạch và đầu tư mới chỉ tính đến ngày 30-4-1999 cả nước có trên 200 loại giấy phép hành nghề. Lệ phí giấy theo quy định bình quân khoảng 300-500 ngàn đồng nhưng thực tế người xin phép đầu tư phải chi thêm cho cơ quan giấy phép trực tiếp hoặc qua khâu trung gian, chi cao nhất gần 8 lần so với mức trên giấy tờ, mức cao nhất lên đến 9.5 triệu đồng. Thời hạn cấp giấy phép nhiều khi kéo dài từ 2-4 năm. Nguyên nhân cơ bản do sự chuyên quyền tuỳ tiện của UBND trong việc ra quyết định thành lập và không ít những yêu cầu mơ hồ, không rõ ràng trong thủ tục thành lập. Chính sự không rõ ràng này làm cho việc ra quyết định không dựa trên một cơ sở hay hướng dẫn cụ thể nào nên người có trách nhiệm ở cấp dưới thường xuyên xin chỉ đạo từ cấp trên, khi đó cấp trên lại phải tiến hành bàn bạc trao đổi và thống nhất ý kiến với nhau khi ra quyết định. Nên việc duy nhất mà nhà đầu tư có thể làm là ngồi chờ hồi âm của các cơ quan có thẩm quyền. Bảng Các thủ tục cần thiết khi xin giấy phép thành lập doanh nghiệp STT Giấy tờ chứng nhận, yêu cầu khác Các cơ quan 1 Đơn xin thành lập Nộp cho văn phòng UBND tỉnh, thành phố 2 Phương án kinh doanh nt 3 Dự thảo điều lệ nt 4 Giấy xác nhận hộ khẩu thường trú Do UBND phường, xã nơi nhà đầu tư thường trú cấp 5 Giấy chứng nhận không phạm tội Do UBND phường, xã nơi nhà đầu tư thường trú cấp 6 Giấy chứng nhận không mất trí Do bệnh viện, bệnh xá địa phương cấp 7 Giấy xác nhận về trụ sở giao dịch Do UBND phường, xã nơi sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh cấp 8 Giấy xác nhận tiền gửi ngân hàng của vốn bằng tiền mặt Do ngân hàng cấp 9 Giấy xác nhận giá trị tài sản, hiện vật góp vốn Do cơ quan công chứng cấp 10 Giấy chứng nhận công ty đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ đối với ngành nghề kinh doanh và việc phê chuẩn phương án kinh doanh Do các phòng ban chuyên môn có liên quan đến lĩnh vực mà công ty dự định tiến hành của UBND tỉnh, thành phố cấp Trước ngày 1-8-1998, thủ tục thành lập doanh nghiệp được tiến hành theo hướng dẫn của Nghị định 222/HĐBT ngày 23/7/1991. Theo đó, ngoài đơn nhà đầu tư phải làm đủ từ 8 đến 10 loại chứng nhận khác nhau trong mỗi giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh. Như vậy, để thành lập một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xin ít nhất 20 loại giấy tờ và con dấu khác nhau. Đối với mỗi loại giấy chứng nhận, ít nhất họ phải đến cơ quan nhà nước hai lần, một lần để “xin” và một lần để “cho”. Thường thì họ phải đi lại nhiều lần để bổ sung các giấy tờ hay thông tin theo yêu cầu của người có thẩm quyền. Mà ở mỗi tỉnh thì nơi tổ chức nhận đơn và xét cấp giấy chứng nhận kinh doanh lại không giống nhau. Ngày 1/8/1998 Thông tư liên bộ số 05/1998/TTLB-KH-ĐT-TB của Bộ kế hoạch- đầu tư và Bộ tư pháp quy định thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh doanh nghiệp và công ty, chính thức có hiệu lực. Đây là cố gắng lớn nhằm nới lỏng tối đa các thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh trong phạm vi điều chỉnh của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân theo hướng: - Sở Kế hoạch và đầu tư được bổ nhiệm làm cơ quan đầu mối duy nhất điều phối thâu tóm toàn bộ quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh. - Giảm bớt các giấy tờ và thủ tục liên đới. - Các thủ tục và thời gian đối với việc xin thành lập doanh nghiệp đã phù hợp hơn. Các quy định mới đã xác định một trình tự rõ ràng và một thời gian hợp lý cho việc thành lập một công ty hay doanh nghiệp tư nhân. - Nghiêm cấm các UBND ban hành các văn bản hướng dẫn thêm về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Đây là một cố gắng lớn được mọi người ủng hộ nhằm duy trì áp dụng một thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản hợp lý và thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Những chuyển biến mới mẻ trên đã làm giảm bớt đáng kể những gánh nặng cho nhà đầu tư và các viên chức nhà nước, đẩy nhanh quá trình thành lập doanh nghiệp. Song vẫn còn một số hạn chế: - Các thủ tục thành lập được thực hiện ở cấp quá cao với quyền hạn lớn. Chẳng hạn các UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ xét duyệt thành lập các công ty và doanh nghiệp tư nhân. Song ở hầu hết các nước, nhiệm vụ này được giao cho nhân viên chuyên trách theo những thủ tục thông thường đã được quy định, tiến hành xem xét đơn và bảo đảm rằng các thông tin cần thiết đã được cung cấp đủ trong đó và sau đó tiến hành đăng ký thành lập cho công ty, trừ một số ít trường hợp cần có sự cho phép đặc biệt. Đương nhiên, các UBND cần phải giám sát sự thi hành đối với các văn phòng đăng ký kinh doanh chuyên ngành như đối với tất cả các cơ quan trực thuộc. Nếu giảm được lề thói cũ thì quá trình thành lập doanh nghiệp sẽ được đẩy nhanh một cách đáng kể. - Giấy xác nhận trụ sở giao dịch chính. Hầu hết các nước trên thế giới không yêu cầu xác nhận vấn đề này mà điạ chỉ giao dịch chỉ là một nội dung của đơn đăng ký kinh doanh và có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với hành vi cố tình cung cấp sai sự thật cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Đồng thời nếu có sự thay đổi địa chỉ giao dịch thì phải báo ngay cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Nguyên nhân cơ bản là do cơ quan thẩm quyền khó có khả năng kiểm soát được mà xét cho cùng việc kiểm tra tính trung thực của lời khai về trụ sở là các bạn hàng. Ngoài ra đây là thủ tục làm tăng chi phí và kéo dài thời gian cần thiết cho việc thành lập doanh nghiệp. - Yêu cầu về số lượng sáng lập viên tối thiểu. Ví dụ: thực tế hiện nay các công ty tư nhân chỉ là một chủ, còn các cổ đông là danh nghĩa. Vì vậy yêu cầu số cổ đông tối thiểu là 2 hay 7 chỉ hoàn toàn là một thủ tục trong quá trình thành lập mang tính hình thức, không có ý nghĩa gì. Ngoài ra một số luật quan trọng nhưng chưa được ban hành như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền. Có luật ra đời chưa được bao lâu đã phải sửa đổi không dưới một lần như luật đầu tư nước ngoài, việc kiểm tra thi hành luật chưa tốt, không ít văn bản chồng chéo mâu thuẫn thậm chí triệt tiêu nhau, không phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế 2.2. Những vướng mắc và hạn chế trong quá trình phát triển các DNVVN Vốn, tín dụng: Đây không chỉ là khó khăn của DNVVN của nước ta mà còn ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam á Nước Khó khăn về tài chính Khó khăn về nguyên vật liệu Khó khăn về lao động Khó khăn về maketing thị trường Khó khăn về khả năng cạnh tranh Tổng số doanh nghiệp được khảo sát Philipin 92 (57, 9%) 68 (42, 8%) 21 (73, 2%) 14 (8, 8%) 42 (26, 4%) 159 (100%) Thái Lan 118 (58, 9%) 63 (28, 8%) 23 (10, 5%) 137 (62, 6%) - 219 (100%) Indonexia 78 (50, 3%) 36 (23, 2%) 26 (16, 8%) 63 (40, 6%) 97 (62, 6%) 155 (100%) Nước Thiếu lao động có tay nghề Khó khăn về tương lai nghề nghiệp Khó khăn về tiền lương tăng lên Khó khăn do thái độ lao động Khó khăn do năng suất lao động thấp Khó khăn khác Tổng số doanh nghiệp đưa ra khảo sát Malaixia 24 (31,6%) 21 (26,6%) 21 (27,6%) 8 (10,5%) 18 (23,7%) 18 (3,4%) 76 (100%) Thái Lan 14 (69,9%) 7 (11,5%) 4 (6,3%) 4 (6,3%) - - 70 (100%) Indinexia 14 (20%) 20 (28,6%) 15 (21,4%) 19 (21,7%) 15 (21,4%) 17 (24,3%) 70 (100%) (Nguồn: Báo cáo về các DNVVN ở các nước đang phát triển, IDE, Tokyo 1996) Báo KH-CNMT tháng 2-1999). Để đáp ứng nhu cầu vốn của mình, các DNVVN vay từ các tổ chức phi tài chính, thông thường từ bạn bè, người thân với lãi suất vay không chính thức gấp từ 3 đến 4 lần lãi suất ngân hàng. Một phần do họ khó có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác những khoản vay bảo đảm hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân của những khó khăn trên là do: - Thủ tục cho loại vay này rất phức tạp, chi phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này quá tốn kém đối với DNVVN. Bản thân ngân hàng cũng không muốn cho vay vì ngại quản lý. - Những quy chế về ký quỹ và các dự án đầu tư quá cứng nhắc làm cho nhiều DNVVN không thể đáp ứng được khi muốn vay tín dụng từ các tổ chức tài chính. Trong khi các DNNN lại được miễn việc ký quỹ. - Các phương thức định giá tài sản ký quỹ không rõ ràng và các quan chức của ngân hàng ra quyết định trong vấn đề này quá chuyên quyền độc đoán. - Các DNVVN không thể nhận được sự hỗ trợ về việc thẩm định dự án, nghiên cứu khả thi dự án, chuẩn bị kế hoạch hoạt động hoặc hỗ trợ các nguồn tín dụng. * Đất đai: Đất đai cho các hoạt động của DNVVN còn thiếu và doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc họ không thể đạt được kết quả trong những hợp đồng thuê đất làm trụ sở nhà máy. Cụ thể: + Các thủ tục để được cấp quyền sử dụng đất không rõ ràng và thường không công nhận đối với các DNVVN. Đặc biệt trong trường hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhượng và cầm cố, quyền sử dụng đất để ký quỹ vẫn chưa được chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư năm 1997, người ta đã tìm ra chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân. + Do có nhiều khó khăn trong việc không có đất để sản xuất dẫn đến việc đất ở cũng được đem ra sử dụng cho mục đích sản xuất và kinh doanh. + Cũng do những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, nên còn tồn tại một thị trường đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và phi hợp pháp. * Công nghệ Theo đánh giá thì phần lớn công nghệ mà các DNVVN sử dụng là công nghệ lạc hậu, vấn đề chuyển giao công nghệ còn quá ít. Thống kê của nhóm sản xuất và phân phối (M&D) thuộc diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (nhóm tư vấn liên ngành về cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam ) cho thấy từ năm 1990 đến năm 2002 chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam được chấp thuận mà phần lớn lại là các công ty con nhập khẩu từ các công ty mẹ ở nước ngoài, quyền sở hữu thuộc về các công ty mẹ đó. Nguyên nhân: a) Vốn đầu tư của DNVVN rất thấp so với DNNN, khó có thể vay được một khoản vốn trung và dài hạn cần thiết để đầu tư nâng cấp công nghệ. b) Việc nhập khẩu máy móc thiết bị có thuế suất cao trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được miễn trừ . c) Khó tiếp cận được với thị trường công nghệ vì thiếu thông tin về thị trường này. d) Họ khó tiếp cận được những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh. e) Một số nguyên tắc thủ tục hiện hành còn cứng nhắc làm cho việc chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào Việt Nam khó và tốn kém khiến cho đối tác ngần ngại chuyển giao. Ví dụ: Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 về CGCN. Theo nghị định này quy định giá CGCN không vượt quá 5% “giá bán tịnh” của sản phẩm công nghệ đó. Mà giá bán tịnh định nghĩa là “tổng giá bán sản phẩm trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế triết khấu thương mại, chi phí vận chuyển cả bằng đường biển, bảo hiểm, quảng cáo, đóng gói. Chi phí đầy đủ cho việc mua bán các sản phẩm, bộ phận chi tiết từ mọi nguồn cung cấp”. Theo định nghĩa này chi phí chuyển nhượng công nghệ là rất nhỏ. Trong khi quy định về CGCN cho cả nhãn hiệu hàng hoá, kể cả nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới thì nghị định 45/CP lại không phân biệt giữa việc bán đứt (chuyển giao) với hình thức sử dụng có giới hạn (li-xăng) khiến cho mọi trường hợp chủ sở hữu công nghệ đều mất quyền sở hữu về tay bên nhận sau 7 năm. Một khó khăn nữa cho việc CGCNlà chi phí sử dụng các giao dịch quốc tế như internet, điện thoại, điện tín ở Việt Nam còn cao hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực: Gấp 3.5 lần Singapo, 2 lần Thượng Hải, 2.5 lần Băng Cốc. Với những doanh nghiệp nhập khẩu những máy móc thiết bị đã qua sử dụng thì có những quy định hiện hành rập khuôn, cản trở rất nhiều cho doanh nghiệp . * Sức cạnh tranh và tiếp cận thị trường thế giới Các DNVVN rất khó tiếp cận được với cả thị trường trong nước và quốc tế do sức cạnh tranh thấp. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã đưa ra 8 nhân tố chính hình thành nên tính cạnh tranh của nền kinh tế của mỗi quốc gia đó là: Độ mở cửa, chính phủ, tài chính, kết cấu hạ tầng, công nghệ, quản trị, lao động, thể chế.Dựa vào 8 chỉ tiêu này, WEF đã đánh giá năng lực cạnh tranh của một số nền kinh tế quốc gia trên thế giới. Qua đó WEF đã đưa ra kết luận về khả năng cạnh tranh của Việt Nam. NĂM 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Khả năng cạnh tranh 49/53 39/53 48/53 49/59 62/80 65/80 Như vậy khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam tuy có tăng nhưng không đáng kể. Nguyên nhân là do khả năng tiếp cận thị trường còn yếu các doanh nhân Việt Nam chưa có mạng lưới khách hàng, chưa có kinh nghiệm thiết lập mạng lưới kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết của chủ DNVVN về thị trường nước ngoài và xu thế của nó về các nghiệp vụ ngoại thương, các quy định quốc tế của các nước khác và của cả nước ta liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu đáo. Hội nhập kinh tế quốc tế đang đến dần nhưng theo phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì có 16% tổng doanh nghiệp chưa biết gì về hội nhập, 24% chưa đủ thông tin về lịch trình giảm thuế AFTA, APEC; 34% không biết thông tin về hội nhập WTO, 50%không biết nội dung chính của hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Một thực tế là hiện nay nhiều chủ doanh nghiệp (đặc biệt là ở địa phương) sản xuất những mặt hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Vấn đề chi phí vận tải cảng, biển cao cũng là một yếu tố làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hệ thống cảng biển Việt Nam quá nhỏ chưa đồng bộ, năng lực bốc xếp cũng như tiếp cận tàu trọng tải lớn thấp không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển trong nước và quốc tế. Dọc chiều dài bờ biển nước ta có 91 cảng biển công suất khoảng 1triệu tấn/năm. Hiện nay duy nhất có cụm cảng Thị Vải-Vũng Tàu là có công suất 50. 000DWT song phí cảng biển lại khá cao so với các nước cùng khu vực. Những hạn chế đó nhiều khi làm mất đi những cơ hội gây ra những rủi ro không đáng có. Ngay cả những rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại. Số lượng chủ DNVVN có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh nhân nước ngoài không nhiều. Vấn đề bản quyền và quyền sở hữu trí tuệ khác chưa được thực hiện một cách nghiêm túc do đó hàng giả hàng nhái còn phổ biến mà hiện tại chúng ta chưa có luật cạnh tranh để điều tiết sự độc quyền mà các DNVVN đôi khi lại ở những thế yếu do độc quyền của một số doanh nghiệp lớn mà không bị cản trở bởi sự cạnh tranh. * Thông tin. Thông tin về các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng là rất rải rác gây những khó khăn trong quản lý việc phân bổ tín dụng và trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Việc tiếp nhận thông tin về các văn bản pháp luật thị trường tiến bộ công nghệ còn hạn chế do: - Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp chưa được công khai hoá giống như các nước khác trong khu vực - Khi đã hoàn tất việc đăng ký thành lập doanh nghiệp, không hề có yêu cầu báo cáo định kỳ cho các cơ quan chức năng. Vì vậy một công ty có thể đã ngừng hoạt động nhưng giấy phép kinh doanh vẫn còn giá trị trong một thời gian dài - Việc chưa công khai hoá, tin học hoá những sổ đăng ký kinh doanh bao gồm những thông tin cơ bản về tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký thuộc mọi thành phần kinh tế gây khó khăn cho các doanh nghiệp trên thương trường muốn biết thông tin về các đối tác. - Yêu cầu nắm được thông tin cơ bản chưa trở thành một phần thiết yếu trong hệ thống quản lý các doanh nghiệp * Tình hình công nợ Hiện nay nhiều DNVVN bán hàng trả chậm rất nhiều và khó thu hồi vốn.Tình trạng nợ nần, dây dưa khó đòi chiếm dụng vốn lẫn nhau lan rộng dây truyền giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các đại lý tiểu thương đang là một căn bệnh trầm kha ngày càng nghiêm trọng. Các DNVVN ngày nay đang đứng trước mối lo âu: Cần mở rộng hệ thống phân phối, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhưng nợ phải thu ngày càng cao và nợ khó đòi ngày càng lớn. Theo một cuộc khảo sát về tình hình tài chính của 300 doanh nghiệp ngoài quốc doanh của cục thuế thành phố HCM đã phát hiện nhiều con số ảo, có 250 doanh nghiệp báo cáo tình trạng tài chính có vốn điều lệ âm, thậm chí có doanh nghiệp trong số này âm hơn 30 lần mà vẫn hoạt động. Cũng theo cục thuế TP. CM qua đợt đăng ký lại các doanh nghiệp thì có đến 1170 doanh nghiệp không đến đăng ký thuộc dạng chờ giải thể hay cố tình không kê khai,750 doanh nghiệp được cấp giấy phép nhưng không rõ trụ sở ở đâu, còn hoạt động hay không. (Thời báo kinh tế số 45 ngày 5/6/1999). Tóm lại có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thờ ơ của doanh nghiệp trước yêu cầu hội nhập. Về mặt tâm l‏‎í nhiều lãnh đạo doanh nghiệp bị rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do trình độ hạn chế, thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết nên lúng túng trong việc chọn hướng đi cho doanh nghiệp Trong khi vẫn biết rằng thời điểm hội nhập đang đến gầnTrong khi đó nhiều doanh nghiệp lại đứng trước những khó khăn khác nhau như thiếu vốn, mắc nợ,máy móc công nghệ sản xuất lạc hậu không đồng bộ, thếu thị trường..Mỗi doanh nghiệp đều có lí do để giải thích cho sự chậm chễ của mình trước yêu cầu hội nhập vào thị trường chung. Trong tương lai, khi Việt Nam chấp nhận gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, ngoài việc Việt Nam có nghĩa vụ tuân theo những nguyên tắc hệ thống của WTO nói chung, việc trở thành thành viên của WTO sẽ buộc Việt Nam phải tự do hoácác điều kện thương mại.Trong bối cảnh đó dnv sẽ ứng phó ra sao? Điều gì xảy ra khi hàng hoá tròg nước chỉ đạt chất lượng trung bình hoặc thấp mà già bán lại cao trong khi hàng bên ngoài chất lượng lại đảm bảo mà giá lại phải chăng.Vài năm để chuẩn bị hội nhập chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi với rất nhiều khó khăn phía trước.Thời thế đã và đang đặt ra cho dnv những sự lựa chọn khắc nghiệt tồn tại hay không tồn tại trước bối cảnh hội nhập hiện nay. Vậy nhà nước ta đã và đang làm gì dể giúp đỡ thành phần kinh tế này. 3.Về tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô tới hoạt động của các DNVVN 3.1.Chính sách thương mại : Chủ động xây dựng quan hệ, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, xây dựng nề kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới đã và đang được Việt Nam áp dụng trong những năm qua. Các quy định về xuất nhập khẩu ngày càng nới lỏng, mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều khúc mắc gây cản trở tới quá trình này như : chỉ cho phép một số các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các đầu mối đối với một số mặt hàng, danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hay thay đổi, thuế xuất nhập khẩu cao Ngoài ra, những chính sách ưu tiên đặc thù nhằm hỗ trợ lâu dài cho hoạt động xuất nhập khẩu cho các DNVVN chưa có như : trợ giá xuất nhập khẩu, cấp tín dụng làm hàng xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ quốc tế. 3.2.Chính sách công nghiệp . Chính sách bảo hộ hiện nay đã làm biến dạng thị trường trong nước. Đặc biệt việc đánh thuế cao vào mặt hàng nhập khẩu đã làm cho một số các DNVVN phải nhập nguyên liệu với giá cao từ đó sản xuất ra các sản phẩm có giá thành cao không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra các DNVVN hoạt động trong các ngành công nghiệp, công nhân tạo ra sản phẩm cho xuất khẩu nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, chưa nhận được ưu đãi hợp lí‏‎ về các vấn đề như : đất, vay vốn tín dụng Bên cạnh đó DNVVN khu vực ngoài quốc doanh chịu sức ép của hàng nhập lậu và sự phân biệt đối sử so với các doanh nghiệp nhà nước . 3.3. Chính sách tài chính tiền tệ. a. Chính sách huy động vốn Việc huy động vốn trong nước được thực hiện khá mạnh mẽ trong những năm qua thông qua các công cụ như thuế, lãi suất, khuyến khích đầu tưNhờ đó sản xuất trong nước phát triển mạnh, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng nhanh. Trong 5 năm (1995-1999) vốn đầu tư của toàn xã hội đạt được 44.585,6 tỷ đồng. Trong đó khu vực tư nhân (chủ yếu là các DNVVN ) chiếm trung bình khoảng 23,54%, tức khoang 102,2 tỷ đồng. Riêng năm 1999 theo ước tính trong tổng số đầu tư toàn xã hội là 103.900 tỷ thì khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 21000 tỷ đồng (20,2%). Trở ngại của chín sách huy động vốn là chưa tạo được điều kiện thông thoáng trong huy động vốn cho các DNVVN. Mặc dù tính đến thời điểm hiện tại nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể vay vốn theo hình thức tín chấp. Nhưng trong thực tế hầu hết các DNVVN không thể vay theo hình thức này vì không có tổ chức đại diện đứng ra bảo lãnh. Còn vay theo hình thức thế chấp thì các DNVVN lại không có đủ tài sản thế chấp cho ngân hàng, trong khi đó lại chưa có một tổ chức tín dụng nào chuyên doanh cho các DNVVN ở n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0292.doc
Tài liệu liên quan