Từ thực tế hoạt động của các Cty trên thị trường BHNT Việt Nam những năm qua, cùng với các chính sách ưu đãi của Chính phủ trong việc phát triển thị trường BHNT, các chuyên gia trong lĩnh vực BH dự báo trong giai đoạn từ nay đến 2010, thị trường BHNT Việt Nam sẽ có những bước phát triển ngoạn mục, hết sức sôi động, đặc biệt thị phần của một số DN hiện nay sẽ có những thay đổi lớn.
Khi đề cập tới cơ hội phát triển thị trường BHNT, không thểkhông kể đến cột mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của thị trường, đó là việc Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Việc ký kết Hiệp định này là bước khởi đầu quan trọng của Việt Nam trong quá trình chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Theo đó, trng vòng 6 năm kể từ khi hiệp định được ký kết, thị trường BHNT Việt Nam sẽ gần như được mở cửa hoàn toàn với việc tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng giữa các Cty BH nước ngoài cũng như trong nước.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xúc tiến- khuếch trương tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o tai nạn
Quyền lợi bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn
Cty TNHH BH ACE và Cty TNHH BH Prévoir- Những thành viên mới
Cty BHNT ACE life Việt Nam là Cty 100% vốn nước ngoài do Cty ACE INA, có trụ sở tại Tp Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ bỏ 20 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp. ACE INA là bộ phận lớn nhất của tập đoàn ACE Group of Companies, tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực BH và tái BH.
Từ năm 1996, ACE đã đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội và tháng 3/2005, mở văn phòng đại diện thứ hai tại Tp. Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho việc thành lập và đưa Cty vào hoạt động tháng 9/2005.
Cty TNHH BH Prévoir là Cty LD 100% vốn nước ngoài với sự tham gia góp vốn của Tập đoàn Prévoir- Vie Groupe Prévoir với 70% vốn, Proparco góp 20% và Scor Vie góp 10%.
Prévoir Việt Nam được phép triển khai các nghiệp vụ BH sinh kỳ, tử kỳ, BH hỗn hợp; Kinh doanh tái BHNT; Đầu tư vốn nhàn rỗi ở Việt Nam thông qua mua trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu, trái phiếu DN; Kinh doanh bất động sản; Góp vốn vào các DN khác; Cho vay theo Luật tổ chức tín dụng.
Điểm khác biệt lớn nhất trong hoạt động của Cty này là không sử dụng kênh phân phối BH là các đại lý truyền thống mà qua mạng lưới bưu điện (tiết kiệm bưu điện). Với khác biệt này, các sản phẩm của Cty sẽ đơn giản hơn, quá trình thẩm định nhanh chóng hơn và bộ máy hoạt động cũng gọn nhẹ hơn (khoảng 70 người).
Ngày 13/9/2005, Prévoir Việt Nam đã chính thức ký kết hợp đồng phân phối độc quyền các sản phẩm BHNT bưu chính với Tổng Cty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
New York Life cũng dự kiến sẽ có kế hoạch chi tiết về hoạt động atị thị trường Việt Nam với khoản đầu tư khoảng 10 triệu USD ngay sau khi có giấy phép.
New York Life đã mở văn phòng đại diện tại Việt Nam vào năm 2000. Trong 2 năm 2003 và 2004, tập đoàn này đã có những chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng tham gia vào thị trường Việt Nam, nhưng hiện vẫn chưa nhận được giấy phép.
Thực trạng hoạt động của thị trường
Nhìn lại thị trường sau 10 năm phát triển.
Mặc dù mới có tuổi đời 10 năm nhưng thị trường BHNT Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng tự hào trên nhiều mặt, tạo nên những nét đặc trưng riêng cho thị trường này. Cụ thể:
Thị trường có những lúc tăng trưởng đột biến với tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu phí và số hợp đồng; Nhưng hiện nay đã dần đi vào ổn định. Nếu như năm 1996, Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT tại một số tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1.200 hợp đồng và doanh thu phí chưa đến 1 tỷ đồng thì đến năm thì đến năm 2000 doanh thu phí BHNT toàn thị trường đã đạt gần 1.300 tỷ đồng và gần 1 triệu hợp đồng có hiệu lực. Đặc biệt năm 2001 là năm đáng ghi nhớ của thị trường BHNT Việt Nam với doanh thu phí đạt 2.786 tỷ đồng (tương đương 0,55% GDP), đã vượt lên so với tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường.
Biểu 1: Doanh thu phí BHNT toàn thị trường qua các năm (tỷ đồng):
(Nguồn: Bảo Việt)
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tốc độ tăng doanh thu phí (So với năm trước)
142,36%
162,6%
115,63%
67,19%
39,61%
22,22%
2,64%
So với năm 2000, tốc độ tăng doanh thu phí năm 2001 đạt 115,6%, trong đó tốc độ tăng doanh thu phí của HĐ mới đạt đến 89%. Nếu tính từ năm 1999 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 49,56%/ năm.
Tuy nhiên thị trường đã có dấu hiệu chững lại. Qua biểu đồ trên, chúng ta thấy rằng, sau một thời gian bùng nổ, thị trường BHNT đã bắt đầu quay trở về với quỹ đạo cùng với dịch vụ BH phi nhân thọ. Năm 2005, doanh thu phí toàn thị trường đạt 8.158 tỷ đồng, với số hợp đồng có hiệu lực đến cuối năm 2005 đạt khoảng 3.2 triệu (tương đương 4% dân số). So với năm 2004, tốc độ tăng doanh thu phí năm 2005 chỉ đạt ở mức 2,64%.
Nhưng phải nhận thấy rằng thị trường vẫn có sự tăng trưởng ổn định, phản ánh sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường BHNT Việt Nam. Thêm vào đó, chất lượng khai thác cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua số tiền BH trung bình/ hợp đồng, số phí BH bình quân/ HĐ ngày càng cao, công tác đánh giá rủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khoẻ, tài chính, mục đích tham gia, quyền lợi có thể được BH), tỷ lệ huỷ HĐ của toàn thị trường dưới 6%/năm (thấp hơn rất nhiều so với các thị trường khác).
Thiết lập được mạng lưới kinh doanh phủ khắp cả nước, mô hình tổ chức và quản lý ngày càng hoàn thiện. Thời gian qua, các doanh nghiệp BHNT, điển hình là Bảo Việt Nhân thọ đã xây dựng được mạng lưới cung cấp dịch vụ khắp cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu BHNT của mọi tầng lớp nhân dân. Mô hình tổ chức và quản lý của các doanh nghiệp cũng ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, điển hình là việc chuyên môn hoá việc khai thác và thu phí. Việc đào tạo cán bộ, đại lý ngày càng được chú trọng và được xác định là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng dịch vụ cung cấp và thành công của doanh nghiệp.
Sản phẩm đa dạng, dịch vụ phong phú. Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có 3 sản phẩm được đưa vào thị trường là BHNT Hỗn hợp thời hạn 5 năm, thời hạn 10 năm và An sinh giáo dục. Đến nay trên thị trường đã có sự hiện diện của tất cả các chủng loại BHNT truyền thống như Hỗn hợp, Sinh kỳ, Tử kỳ, Trọn đời, các sản phẩm BHNT cách tân, các sản phẩm bảo hiểm hưu trí (niên kim nhân thọ) đồng thời nhiều sản phẩm bổ trợ cũng đã có mặt.
Ngoài BHNT, các DN còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ khác cho KH tham gia như tư vấn du học, cho KH vay tiền theo HĐ, thẻ giảm giá, phiếu mua hàng... Với những nỗ lực của các DN, chất lượng dịch vụ BHNT ngày càng được nâng cao hơn, các sản phẩm BHNT đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng, phong phú và toàn diện của người dân về BHNT.
Bước đầu đa dạng hoá kênh phân phối. Để đưa sản phẩm BHNT ra thị trường, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đều sử dụng kênh phân phối truyền thống- đội ngũ đại lý chuyên nghiệp. Đây là lực lượng bán hàng chủ chốt, đem lại phần lớn hợp đồng. Ngoài đội ngũ đại lý chuyên nghiệp, các doanh nghiệp còn sử dụng đại lý bán chuyên nghiệp và cộng tác viên. Gần đây, các doanh nghiệp BHNT đã bắt đầu hợp tác với ngân hàng trong khai thác và thu phí bảo hiểm, điển hình là hợp tác giữa Bảo Việt và Ngân hàng Công thương, Ngân hàng á Châu (ACB), giữa AIA và Ngân hàng Hongkong & Thượng Hải (HSBC), Prudential với ACB. Đến nay, sự hợp tác này đã thu được những kết quả nhất định. Sự hợp tác bước đầu giữa ngân hàng và BHNT cũng cho thấy dấu hiệu của sự thâm nhập lẫn nhau giữa hai ngành đồng thời cũng là tín hiệu báo hiệu sự hình thành ngân hàng bảo hiểm (bancas-surance) ở Việt Nam trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp BHNT cũng đã có ý tưởng về sử dụng kênh phân phối qua mạng internet, với việc giới thiệu sản phẩm qua mạng.
Góp phần tạo lập cuộc sống ổn định, thịnh vượng, nâng cao nhận thức về BHNT. Qua việc giải quyết đầy đủ và kịp thời quyền lợi của KH, các doanh nghiệp BHNT đã giúp KH chẳng may gặp rủi ro nhanh chóng khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống đồng thời cũng giúp cho KH thực hiện tiết kiệm dài hạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra, tạo lập một cuộc sống đầy đủ về tài chính, hạnh phúc, thịnh vượng. Đây cũng chính là một trong những lý do cơ bản giúp dân chúng ngày càng hiểu rõ hơn về vai trò, ý nghĩa của BHNT, từng bước hình thành tập quán tham gia BHNT ở Việt Nam và cũng là một trong những lý do cơ bản đem lại sự thành công của thị trường thời gian qua. Đồng thời, với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ trợ tài chính khi không còn khả năng lao động (qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta có thể nhận định một cách logic rằng, BHNT đã, đang và sẽ góp phần tích cực xoá bỏ bao cấp, giảm nhẹ các khoản trợ cấp của Nhà nước, của xã hội đối với các cá nhân gặp rủi ro đồng thời thực hiện xã hội hoá các đảm bảo xã hội. Thêm vào đó, các doanh nghiệp BHNT cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, tài trợ các chương trình văn hoá thể thao, tư vấn y tế, hỗ trợ đào tạo, an toàn giao thông và các hoạt động xã hội khác, góp phần xây dựng một xã hội an bình, thịnh vượng, nâng cao uy tín và hình ảnh của ngành BHNT.
Tạo công ăn việc làm cho nhiều người. Thời gian qua, ngành BHNT đã thu hút, tạo công ăn việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động dưới hình thức đại lý chuyên nghiệp, đại lý bán chuyên nghiệp và cộng tác viên. Đến cuối năm 2001, tổng số đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trường đã tới con số 40.000 người (trong đó, Bảo Việt có trên 12.000 người). Với những đặc trưng nổi bật: hoàn toàn độc lập, tự chủ về thời gian, đòi hỏi tính tự giác cao, hưởng thù lao theo kết quả hoạt động, tự hạch toán độc lập. Không yêu cầu quá cao về bằng cấp, nghề đại lý (tư vấn) BHNT đã thực sự trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp, được xã hội thừa nhận và là nghề có thu nhập khá cao ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, BHNT cũng đã tạo ra chỗ làm việc cho hàng nghìn người là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra còn tạo việc làm cho các ngành khác có liên quan như ngân hàng, in ấn, quảng cáo...
Tạo kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Với chức năng gom nhặt và tập trung những khoản tiền nhỏ, nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư, BHNT đã hình thành một quỹ đầu tư lớn, cung cấp vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, góp phần phát triển kinh tế- xã hội. So với ngành ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy mới có thâm niên hoạt động còn rất ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân phối vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Với số tài sản quản lý được tích luỹ (dưới hình thức dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp BHNT thực hiện những khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu Kho bạc nhà nước, gửi tiết kiệm ngân hàng... Lấy năm 2001 làm ví dụ, như đã nêu trên, tổng số phí BHNT toàn thị trường đạt 2.786 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP và như vậy tính đến thời điểm này, tổng số vốn mà các doanh nghiệp BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế lên tới trên 4.000 tỷ đồng (chủ yếu từ quỹ dự phòng được tích tụ qua các năm). Năm 1999, Bảo Việt thành lập Cty Chứng khoán Bảo Việt- Cty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề để trở thành tập đoàn bảo hiểm- tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay thị trường đầu tư của Việt Nam mới trong giai đoạn hình thành, còn thiếu các công cụ đầu tư, nhất là các công cụ đầu tư dài hạn, do vậy hạn chế rất lớn hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp BHNT.
Thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường
Theo Vụ Bảo Hiểm- Bộ Tài chính, trong năm 2005, thị trường BH Việt Nam tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với tốc độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu ngành BH 2005 ước đạt 15.678 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,03% GDP. Trong đó doanh thu phí BH ước đạt 13.558 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư ước đạt 2.120 tỷ đồng
Về thị trường BHNT, năm 2005, các DN BHNT đã khai thác mới 820.000 HĐBH, tăng 26.000 HĐ và bằng 103,27% so với năm 2004. Tuy nhiên, tổng số tiền BH của các HĐ khai thác mới chỉ đạt 20.626 tỷ đồng, giảm 1.253 tỷ đồng và bằng 94,27% so với năm 2004. Bình quân số tiền BH của HĐ khai thác mới trong năm 2005 cũng giảm 2,4 triệu đồng tương ứng 8,7% so với năm 2004.
Hiện Bảo Việt Nhân thọ đã đánh mất vị thế dẫn đầu thị trường. Trong năm 2005, Cty Prudential tiếp tục áp đảo thị trường cả ở doanh thu phí BH khai thác mới cũng như thị phần phí BH các hợp đồng có hiệu lực trong năm.
Cụ thể, trong tổng số 1.348 tỷ đồng doanh thu phí của các HĐBH khai thác mới trong năm 2005, Prudential chiếm tỷ trọng áp đảo với 46,22%, kế đến là Bảo Việt Nhân thọ chiếm 27,38%, AIA chiếm 9,92%, Manulife chiếm 8,28% và Bảo Minh CMG chiếm 8,20%.
Về thị phần phí BH các HĐBH có hiệu lực của các DN năm 2005, Prudential cũng dẫn đầu với 41,08%, Bảo Việt chiếm 38,01%, Manulife với 10,87%, AIA có 6,48% và Bảo Minh CMG giữ 3,55%.
Cũng phải nói thêm rằng, trong năm 2004, Prudential cũng đã chiếm trên 40% thị phần của thị trường BHNT và dẫn đầu trên các phương diện từ doanh thu phí BH, thị phần, KH... trong số các Cty BHNT có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Năm 2005 cũng là năm Bảo Việt Nhân thọ tiếp tục gặt hái được những thành công mới. Tổng doanh thu kinh doanh ước đạt 3.850 tỷ đồng, tăng trưởng 4,28%; Trong đó, doanh thu phí BH là 3.050 tỷ đồng, tăng trưởng 0,4% (so với 2004) và bằng 95% so với kế hoạch năm 2005; Doanh thu từ hoạt động đầu tư là 795 tỷ đồng, tăng trưởng 21,5%; Với khoảng 1,7 triệu hợp đồng đang còn hiệu lực.
Về hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận trước thuế của Bảo Việt Nhân thọ ước đạt 43,8 tỷ đồng, tăng 17,5 tỷ đồng so với năm 2004. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư ước đạt 105,8 tỷ đồng, bằng 279,1% so với năm 2004. Bảo Việt nhân thọ cũng đã chú trọng đến công tác dịch vụ khách hàng, chi trả tiền đáo hạn cho trên 133.000 hợp đồng với giá trị gần 1000 tỷ đồng, giải quyết quyền lợi BH do bị rủi ro cho hàng trăm nghìn trường hợp (tử vong, phẫu thuật, thương tật) với số tiền trên 1,3 tỷ đồng.
Bên cạnh đó để nâng cao năng lực cạnh tranh, các Cty BHNT không ngừng đưa ra sản phẩm mới (như Bảo Việt đã cho ra đời 2 sản phẩm BHNT mới: An sinh lập nghiệp và An sinh thành tài), đồng thời liên kết với các nhân hàng để tạo kênh phân phối sản phẩm rộng khắp như Manulife hợp tác với Ngân hàng Đông á; Prudential với Vietcombank, á Châu , Bảo Việt Nhân thọ với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank)... Người mua bảo hiểm bây giờ có thể đóng phí bảo hiểm qua máy ATM hay trích từ tài khoản ngân hàng.
Đánh giá về thị trường BHNT Việt Nam
Cơ hội
Từ thực tế hoạt động của các Cty trên thị trường BHNT Việt Nam những năm qua, cùng với các chính sách ưu đãi của Chính phủ trong việc phát triển thị trường BHNT, các chuyên gia trong lĩnh vực BH dự báo trong giai đoạn từ nay đến 2010, thị trường BHNT Việt Nam sẽ có những bước phát triển ngoạn mục, hết sức sôi động, đặc biệt thị phần của một số DN hiện nay sẽ có những thay đổi lớn.
Khi đề cập tới cơ hội phát triển thị trường BHNT, không thểkhông kể đến cột mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của thị trường, đó là việc Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Việc ký kết Hiệp định này là bước khởi đầu quan trọng của Việt Nam trong quá trình chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Theo đó, trng vòng 6 năm kể từ khi hiệp định được ký kết, thị trường BHNT Việt Nam sẽ gần như được mở cửa hoàn toàn với việc tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng giữa các Cty BH nước ngoài cũng như trong nước.
Việc mở cửa hơn nữa thị trường BH nội địa được ghi nhận như những động thái chuẩn bị cần thiết trước khi Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc gia nhập WTO. Trên thực tế, Bộ Tài chính đã và đang tiến hành cấp giấy phép thành lập các Cty BH 100% vốn nước ngoài, cụ thể với những cái tên mới gia nhập thị trường như ACE, Prévoir. Ngoài ra, dự kiến còn có thêm Tập đoàn BH Singapore Great Eastern và New York Life thay vì rút lại đơn xin cấp phép hoạt động cũng quyết địn bám trụ lại thị trường chờ cơ hội; Cùng nhiều các Cty khác trên thế giới cũng đang tích cực xúc tiến việc đặt văn phòng đại diện, tìm hiểu thị trường, chuẩn bị cho việc xin giấy phép hoạt động tại thị trường BHNT Việt Nam. Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch Đầu tư, việc mở cửa hơn nữa lĩnh vực BH cho các Cty nước ngoài sẽ diễn ra với tốc độ nhạnh, nhất là các Cty Mỹ do Việt Nam phải hoàn tất đàm phán song phương gia nhập WTO với Mỹ và các nước còn tại; Mà mọtt trong những điều khoản mà Mỹ đưa ra là mở cửa lĩnh vực dịch vụ BH, ngân hàng, tài chính cho các Cty của họ.
Bên cạnh đó, từ kết quả thực tiễn những năm qua, các chuyên gia đã đánh giá cao những đóng góp của các DN có vốn đầu tư nước ngoài như Prudential, AIA, Manulife, Bảo Minh- CMG đối với sự phát triển của thị trường BHNT trong nước hiện tại cũng như trong tương lai. Sự tham gia của các DNBH nước ngoài đã và sẽ nâng cao lòng tin của nhà đầu tư quốc tế về khả năng đáp ứng những nhu cầu về BH, giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn về cam kết mở cửa và tin tưởng vào môi trường đầu tư lành mạnh ở Việt Nam.
Đối với DNBH trong nước như Bảo Việt, cơ chế tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực vốn và vai trò của Nhà nước trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển thị trường BH đến năm 2010 cũng thực hiện đúng chủ trương mở cửa thị trường. Theo đó, Chính phủ chủ trương khuyến khích DNBH tăng vốn điều lệ nhưng không hoàn toàn là từ nguồn vốn trợ giúp từ ngân sách đối với DNBH Nhà nước, mà phải chủ yếu là từ các nguồn vốn DN tự bổ sung như từ quỹ dự phòng, lợi nhuận để lại hoặc từ việc phát hành thêm cổ phiếu khi DN tham gia niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
Như vậy, một thị trường BHNT sôi động trong thời gian tới không chỉ tạo ra cơ hội cho các DN trong khai thác thị trường mà còn đặt ra cho các DN này những thách thức mới để tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, thị trường BHNT hiện vẫn còn tồn tại những bất cập cũng như những cản trở gây khó khăn chung cho việc kinh doanh của các Cty.
Việc chỉ số giá tiêu dùng tăng cao trong năm 2005 cùng với sự biến động liên tục của giá vàng đã tác động dẫn đến quyết định sử dụng các khoản tiết kiệm để mua BHNT dài hạn của người dân. Không cần phải tính toán nhiều, người tiêu dùng cũng nhận thấy lãi suất tiền gửi của ngân hàng trước mắt cao hơn những khoản lãi mà các HĐ BHNT có thể mang lại cho họ. Bên cạnh đó, trên thị trường tài chính cũng xuất hiện những sản phẩm mới có sức hấp dẫn hơn sản phẩm BHNT.
Tuy nhiên, yếu tố chính đang ảnh hưởng mạnh đến bảo hiểm nhân thọ lại xuất phát từ nhận thức của người dân về dịch vụ tài chính này. “Người mua BHNT hiện giờ khôn hơn. Những người trước đây dành một khoản tiền lớn trong thu nhập để đóng BH bắt đầu nhận ra rằng BH không làm cho đồng tiền của họ sinh sôi nhanh hơn các hình thức đầu tư khác” - người phụ trách các đại lý của một Cty BHNT nước ngoài cho biết - “Người Việt Nam thường ít nghĩ đến rủi ro, đền bù khi mua BH mà chủ yếu tính toán đầu tư, bỏ qua khía cạnh bảo vệ. Tính như thế thì rõ ràng BH không có nhiều ưu thế vượt trội so với các kênh đầu tư khác”.
Bên cạnh đó, điều mà không ít Cty BH thừa nhận là sau một thời gian triển khai phát triển BHNT theo bề rộng thì nay đã đến giai đoạn họ phải tiến hành quản lý thu phí định kỳ và chăm lo phục vụ khách hàng về bề sâu. Nhưng mạng lưới chăm lo khách hàng của một số Cty còn hạn chế, chất lượng phục vụ không được như mong muốn, nên nhiều khách hàng phản ứng về dịch vụ. Sự phản ứng này ít nhiều ảnh hưởng chung đến toàn thị trường BHNT. Trong khi nhận thức của người dân về BHNT ngày càng được nâng lên theo thời gian, yêu cầu của họ về dịch vụ ngày càng cao, thì chất lượng dịch vụ giảm sút đã không đáp ứng đòi hỏi của người mua BH. Một số đại lý BH chạy theo lợi nhuận, tư vấn những điều khoản không đúng với HĐ, hứa hẹn quá nhiều, khi có sự cố xảy ra, Cty BH chỉ bồi thường theo HĐ đã ký. Chính từ đây, niềm tin của KH bị bào mòn.
Thêm vào đó, nhiều biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn tồn tại : hạ phí BH, mở rộng phạm vi BH quá mức và đặc biệt là khuyến mại trong BH. Thị trường mới đạt tốc độ tăng trưởng, yếu tố hiệu quả và bền vững chưa cao, tập quán tham gia BHNT của người dân mới bắt đầu hình thành, phần đông dân cư vẫn chưa hiểu rõ về BHNT, báo chí đôi khi đưa ra những thông tin sai lệch; khung pháp lý chưa hoàn thiện, trình độ cán bộ, đại lý làm BHNT còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp BHNT vẫn tiếp tục cạnh tranh rất gay gắt, đôi khi không lành mạnh như nói xấu doanh nghiệp khác, lôi kéo đại lý, KH của nhau, sử dụng các cơ quan, chính quyền địa phương để can thiệp vào công tác khai thác BH
Ngoài ra, một vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây là các vụ trục lợi BH có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất và mức độ. Theo thống kê của 4 doanh nghiệp BHNT có vốn đầu tư nước ngoài, trong tổng số 11.001 yêu cầu trả tiền bảo hiểm mà các công ty nhận được, số vụ đã xác định có dấu hiệu trục lợi và từ chối bồi thường chiếm tỷ lệ 2- 3%. Đã xuất hiện các hình thức trục lợi BH như khai báo sai sự thật, tự gây thương tích cho bản thân mình, dựng tai nạn giao thông giả hay giả mạo hồ sơ y tế để đòi bồi thường bảo hiểm... Các doanh nghiệp BHNT cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề khai thác, xác minh, đánh giá rủi ro cũng như giải quyết quyền loại BH để ngăn chặn hiệu quả hiện tượng này.
Mặc dù trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã không ngừng hoàn thiện về khung pháp lý về kinh doanh BH, song nhìn chung các quy định về trục lợi BH còn bất cập và chưa theo kịp với thực tế. Các chế tài còn chưa đủ sức răn đe đối với những kẻ giáp ranh phạm tội. Sự thiếu phối hợp chặt chẽ, hợp tác có hiệu quả giữa các cơ quan chức năng, cơ quan bảo vệ pháp luật... trong việc điều tra, truy tố, xét xử trước pháp luật các hành vi trục lợi là một nguyên nhân chủ quan khiến cho hành vi trục lợi BH vẫn đang tiếp diiễn. Một thực té đáng lo ngại là cho đến nay, mặc dù đã có không ít vụ trục lợi đã được phát hiện, song chưa có một tổ chức hay cá nhân nào thực hiện hành vi trục lợi phải chịu bất kỳ một chế tài xử phạt hành chính hay hình sự nào
Mặt khác, những phiên toà xử tranh chấp giữa khách hàng với công ty bảo hiểm được các phương tiện truyền thông đăng tải trong thời gian qua cũng cho thấy tính phức tạp của bảo hiểm. Một số người tiêu dùng đã nhận ra tính phức tạp đó và họ đã không ngần ngại cho rằng tốt nhất là không mua bảo hiểm nhân thọ. Phản ứng như vậy của họ không thực sự có lợi cho ngành bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, một số vấn đề khác như tình trạng tai nạn giao thông vẫn còn nhức nhối, thiên tai bão lụt xảy ra gây thiệt hại lớn, giá cả có biến động cũng là những vấn đề mà các Công ty Bảo hiểm phải tính đến.
Hoạt động xúc tiến- khuếch trương của Bảo việt nhân thọ trên thị trường
Tại thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp BHNT rất chú ý đến việc xây dựng, khuếch trương hình ảnh của mình. Bảo Việt luôn tự hào là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, có vốn lớn, kinh nghiệm hoạt động và uy tín lâu nhất, với mạng lưới phủ khắp cả nước, đã được cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001:2000; Prudential tự hào với kinh nghiệm trên 150 năm, tiềm năng tài chính vững mạnh, phạm vi hoạt động toàn cầu... Trong thời gian qua, các doanh nghiệp BHNT Việt Nam còn không ngừng mở rộng các dịch vụ cung cấp ngoài dịch vụ BHNT như BaoViet coupon (phiếu giảm giá), BaoViet Card (thẻ hưởng giá ưu đãi), Pru Card, tư vấn du học (Prudential), tư vấn sức khoẻ miễn phí (BaoMinh-CMG)... Đồng thời, các doanh nghiệp cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện (như các hoạt động nhường cơm xẻ áo, lá lành đùm lá rách, đền ơn đáp nghĩa...) và các hoạt động xã hội khác như tài trợ các chương trình thể thao văn hóa, cấp học bổng, hỗ trợ giáo dục, an toàn giao thông (như làm đường lánh nạn, tặng mũ bảo hiểm)... Sự hoạt động tích cực của các doanh nghiệp BHNT trong thời gian qua đã giúp công chúng hiểu rõ hơn về BHNT, ngày càng thêm tin tưởng và tham gia BHNT. Dưới đây là các hoạt động xúc tiến- khuếch trương của Bảo Việt Nhân thọ thời gian gần đây.
Về quảng cáo
Trong thời gian qua, tuy không thật sự nổi bật so với các ĐTCT về mảng công tác này, song Bảo Việt Nhân thọ cũng đã rất quan tâm tới quảng cáo, coi đây là một trong những công cụ quan trọng để quảng bá hình ảnh của Cty, giới thiệu sản phẩm BHNT tới người dân. Qua đó, Bảo Việt đã thực hiện nhiều chiến dịch quảng cáo tuyên truyền giới thiệu sản phẩm, hình ảnh Bảo Việt qua các bài viết trên các Báo như Tài Chính, Lao động, Hà Nội Mới, Tiền Phong..., qua các phóng sự, bài phỏng vấn trên Đài tiếng nói Việt Nam, các Đài tuyền hình trên toàn quốc.
Bên cạnh việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Bảo Việt Nhân thọ chú trọng tiến hành quảng cáo qua các pano, áp phích, biển tấm lớn được đặt tại các sân bay, đường quốc lộ, các khu công cộng đông dân cự và phương tiện giao thông qua lại. Đồng thời tận dụng mọi sự kiện hoạt động do Cty tài trợ để trưng bày, xây dựng hệ thống thông tin, băng rôn, biểu ngữ hướng sự nhận biết của người dân; Tích cự tham gia các chương trình lớn, các hội chợ, hội nghị, hội thảo để quảng bá hình ảnh, con người, sản phẩm của Cty; Kết hợp với việc sử dụng các tờ rơi, poster, các biển hiệu điện tử tại các đường phố trung tâm, các điểm giao thông công cộng...
Song song với việc thực hiện quảng cáo trên các phương tiện truyền thống, Internet cũng là một phương tiện hiện đại được Cty quan tâm. Hiện tại Cty đã có một chuyên trang riêng tại trang web của Tập đoàn, đón nhận sự quan tâm và các bài viết của thành viên Tổng Cty cũng như các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm cũng như sự phản hồi từ phía độc giả. Các thành viên quản trị web của Cty cũng thường xuyên đăng tải, cập nhật các thông tin và hình ảnh, các hoạt động của Cty trên trang web này, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin từ phía KH và đông đảo người dân.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới Tạp chí Bảo hiểm- do Tập đoàn tổ chức xuất bản. Đây là một tạp chí uy tín và chất lượng chuyên ngành Bảo hiểm được các cán bộ trực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32285.doc