Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt động vận chuyển hàng nông,lâm,thuỷ sản ở Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ GIAO NHẬN KHO VẬN CÁC SẢN PHẨM NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN. 3

1.1.Tổng quan về hoạt động giao nhận kho vận và quản lý giao nhận các mặt hàng nông nghiệp 3

1.1.1.Giao nhận kho vận và công tác giao nhận kho vận 3

1.1.2.Sản phẩm nông nghiệp mang những đặc điểm riêng biệt 4

1.2. Đặc điểm của cung cầu sản phẩm nông sản và những ảnh hưởng của nó 4

1.2.1.Những đặc điểm cơ bản cung nông sản 4

1.2.1.1. Cung nông sản 4

1.2.1.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến cung nông sản 5

1.2.2.Những đặc điểm cơ bản cầu nông sản 6

1.2.2.1.Cầu nông sản 6

1.2.2.2Các yếu tố ảnh hưởng 6

1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả nông sản phẩm nông nghiệp 7

1.3.1.Mức sản lượng 7

1.3.2.Chi phí sản xuất 7

1.3.3.Yếu tố tâm lý 8

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG VẬN CHUYỂN HÀNG NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN Ở CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG NGHỆ AN 9

2.1 Giới thiệu về công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An 9

(Trực thuộc Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại thương-Bộ Thương Mại) 9

2.1.1.Trụ sở giao dịch VIETRANS Nghệ An 9

2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển 9

2.1.3. Tổ chức nhân sự trong công ty 10

2.1.4.C ác ngành nghề kinh doanh 10

2.1.5. Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận 11

2.1.6. Hệ thống cơ sở vật chất 13

2.2. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An 14

2.2.1. Báo cáo tổng kết một số năm hoạt động của Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An 14

2.2.1.1.Đặc điểm tình hình kinh doanh năm 2005-2006 14

2.2.1.2.Những Công việc chi nhánh đã làm được trong năm 2006 15

2.2.1.3.Tổng kết công tác kinh doanh năm 2007 và phương hướng,nhiệm vụ cho năm 2008 18

2.2.1.4.Những công việc chi nhánh đã làm được trong năm 2007 19

2.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty 20

2.4. Năng lực tài và chính công nghệ 22

2.5.Những ảnh hư ởng của vùng nguy ên liệu cung ứng(các sản phẩm nông nghiệp của vùng) đến tình hình kinh doanh,cung ứng nguồn hàng v ận chuy ển của công ty. 22

2.6. Chính sách của Nhà nước về Thuế, các khoản phải nộp đối với công ty 35

2.7. Hệ thống sản phẩm và dịch vụ và trình tự giao nhập hàng xuất nhập khẩu. 38

 

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG VẬN CHUYỂN HÀNG NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN Ở CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG NGHỆ AN 46

3.1. Phương hướng mục tiêu 46

3.2. Hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ trong quá trình vận chuy ển hàng nông sản xuất khẩu 46

3.2.1 Một là, phát triển và mở rộng nguồn hàng vận chuyển nông sản xuất khẩu đi đôi với lựa chọn các mặt hàng chủ lực. 46

3.2.2.Hai là, nâng cao sức cạnh tranh của quá trình vận chuyển hàng hoá 48

3.3.Đổi mới trang thiết bị vận chuyển hàng hoá của công ty nâng cao chất lượng vận chuyển và đa dạng hóa phương thức vận chuyển các mặt hàng nông-lâm thuỷ sản 49

3.4. Đào tạo đội ngũ cán bộ của công ty 49

3.5.Liên kết chặt chẽ giữa người cung ứng sản phẩm nông nghiệp với Công ty Vietrans Nghệ An và với các đối tác nhận hàng cung ứng trong giao nhận kho vận 50

3.6. Xây dựng hình ảnh và chiến lược của công ty 54

KẾT LUẬN 56

TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt động vận chuyển hàng nông,lâm,thuỷ sản ở Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa thực sự cụ thể hoá, mức độ phát huy hiệu lực còn rất hạn chế do không đủ các nguồn lực về tài chính, trình độ quản lý, thủ tục rườm rà, khó vận dụng: Nghị quyết 09 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm chưa có hướng dẫn và chính sách cụ thể; Quyết định 80 về khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng chưa cụ thể hoá các quy chế hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, xúc tiến thương mại, khuyến nông... và chế tài xử phạt các trường hợp vi phạm hợp đồng nên khi triển khai còn gặp nhiều lúng túng, hiệu lực chưa cao;... Quá trình xây dựng và thực thi chính sách chưa quan tâm đúng mức đến việc lấy ý kiến rộng rãi của các thành phần kinh tế khác nên các doanh nghiệp Nhà nước thường được hưởng lợi nhiều hơn, do đó chưa thực sự tạo được “sân chơi bình đẳng” trong môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế. Trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, các chính sách của Nhà nước dường như vẫn quan tâm nhiều đến việc thúc đẩy sản xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến quản lý tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm...; chưa tạo được động lực đột phá giải quyết được tình trạng manh mún trong sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, đáp ứng yêu cầu thị trường. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách tạo hành lang pháp lý cho HTX chuyển đổi, xây dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tuy nhiên, trong Luật HTX vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về cơ chế, chính sách tài chính cho các HTX, các văn bản cụ thể hóa thực hiện Luật HTX làm chậm, một số nội dung hướng dẫn thực hiện không đồng bộ và chưa phù hợp với thực tế. Có những quy định cần thiết đến nay vẫn chưa được hướng dẫn thi hành (như chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển HTX). Thêm vào đó, năng lực của cán bộ HTX chưa cao, hoạt động của đa số HTX còn thụ động... nên đã phần nào hạn chế hình thức tổ chức này phát huy hiệu quả; tác động của các chủ trương, chính sách còn chậm đến các cơ sở, nhiều chính sách đã được ban hành nhưng đến nay các HTX nông nghiệp vẫn chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó. Chính sách về đất đai vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục, điều chỉnh để khuyến khích hơn nữa người nông dân tích tụ đất, lập trang trại sản xuất hàng hoá với số lượng lớn, quy cách đồng đều, chất lượng cao... đáp ứng yêu cầu thị trường. Chưa có chế tài để gắn kết giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm sử dụng đất của người dân nên sản xuất hàng hoá chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Các chính sách về kinh tế trang trại còn chưa được cụ thể hoá, khó áp dụng trong thực tiễn. Do đó, sự phát triển của kinh tế trang trại còn mang tính tự phát, hiệu quả hoạt động còn chưa cao. Để loại hình kinh tế đặc thù này phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của nó, cần phải xây dựng một kế hoạch phát triển lâu dài dựa trên thế mạnh của từng vùng. Việc thực hiện các chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn của vùng còn chậm, thiếu đồng bộ. Tuy diện tích rau, quả và hoa, cây cảnh có tăng nhưng tại khu vực sản xuất nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến thì năng suất, chất lượng rau quả còn thấp, không đủ cho các nhà máy. Những nơi dân tự trồng thì rải rác, phân tán, diện tích manh mún, chủng loại không ổn định, chất lượng không đồng đều. Việc thực hiện chủ trương đa dạng hoá nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm chưa được nhiều. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn ngân sách Nhà nước thiếu sự cân đối giữa các ngành hàng, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế (TD: đầu tư phát triển thuỷ lợi chủ yếu tập trung cho cây lúa, phần lớn diện tích cây ăn quả chưa có công trình thuỷ lợi). Sự chuyển biến trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư còn chậm, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn tín dụng đầu tư Nhà nước dành cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với yêu cầu, theo đánh giá chung mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu vay vốn của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình. Đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân, HTX và hộ nông dân tiếp cận nguồn vốn này còn rất ít. Tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn tín dụng ngân hàng khoảng 70%, lại gặp nhiều vướng mắc trong các quy định về thế chấp, thu hồi nợ. Việc cho vay ưu đãi được thực hiện qua nhiều đầu mối (Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách xã hội) với mức lãi suất khác nhau nên người nông dân khó nhận biết đầy đủ để tiếp cận nguồn vốn. Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất, chưa thực sự bám sát yêu cầu thị trường. Cơ chế quản lý KHCN chậm đổi mới, chưa có chính sách và biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước đầu tư cho KHCN; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu KHCN với hoạt động sản xuất, kinh doanh, hiệu quả ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh... Mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KHCN trong ngành nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu nên chưa tạo được những bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Việc tổ chức chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác nghiên cứu và khuyến nông; chưa thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Về Giống, mặc dù đã có những văn bản pháp quy đối với quản lý giống, việc thực thi vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý chất lượng giống còn yếu kém, số cán bộ quản lý ngành giống ở cấp tỉnh quá ít, cấp huyện hầu như không có. Do đó, hệ thống sản xuất, cung ứng giống cho dân chưa được giám sát chặt chẽ, đặc biệt việc quản lý giống lưu thông trên thị trường còn lỏng lẻo nên vẫn còn tình trạng sử dụng giống kém chấ Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế (thiếu tính chiến lược, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài; chi phí đầu tư cao; hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính rườm rà...) nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Do đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hết sức hạn chế và có xu hướng giảm sút trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh phát triển của nông nghiệp vùng nguyên liệu cung ứng. Hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất nhỏ so với hoạt động đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác. Ngoài một số dự án sản xuất giống, chế biến nông sản..., nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này triển khai chậm do khó khăn về thủ tục cấp đất, nguồn nguyên liệu... Hơn nữa, còn thiếu cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chủ động trực tiếp tham gia vào công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật. Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong những năm gần đây rất đáng lo ngại. Đặc biệt, trong sản xuất rau quả, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản không đúng quy định hoặc cấm lưu hành trên thị trường đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về VSATTP đến nay về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn VSATTP còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và và các tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về VSATTP còn yếu, phân tán, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành. Do đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, điều kiện tiêu chuẩn cho thu gom các mặt hàng vận chuyển trong và ngoài nước Việc thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản theo Quyết định 80 của Chính phủ vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước chưa tạo được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là vấn đề hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông. Các chính sách về tín dụng, vốn sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, giống mới, khoa học kỹ thuật…theo QĐ 80 chưa được các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, chưa khai thông. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh), Nhà nước chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ cho các bên tham gia hợp đồng. Các chương trình xúc tiến thương mại hiện nay vẫn chưa chú trọng vào phát triển thị trường phi truyền thống trong khi chính những thị trường này mới là những thị trường mà Nhà nước cần hỗ trợ xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường. Hiện nay các hoạt động đàm phán để ký kết các thoả thuận hoặc các hiệp định về thương mại rau quả của Việt Nam còn chậm và cần phải triển khai mở rộng cũng như đẩy nhanh tiến độ của các hoạt động nay thông qua đàm phán ký kết các FTA hoặc các hiệp định về buôn bán rau quả với một số thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ…Do chưa ký kết được thoả thuận song phương về buôn bán rau quả với một số thị trường, đặc biệt là với Trung Quốc nên rau quả của Việt Nam hiện nay rất kém cạnh tranh với rau quả của những nước đã có thoả thuận cắt giảm thuế quan như Thái Lan tại thị trường quốc tế. Đây là một trong những rào cản đối với rau quả của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc cũng thắt chặt hoạt động kiểm soát rau quả nhập khẩu sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tạo thêm khó khăn cho rau quả xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông tin về thị trường nên người sản xuất rất lúng túng trong việc quyết định đầu tư nên trồng cây gì? qui mô ra sao? để có hiệu quả. Thị trường chưa thực sự hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản xuất hướng theo nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử lý thông tin chậm về thời gian, mức độ, tin cậy không cao, trên thực tế chưa trở thành công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất. Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu rau quả còn rất hạn chế, thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển, còn bị xem nhẹ, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển ngành rau quả nói chung, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả nói riêng. Sự yếu kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất khẩu chủ lực và những mặt hàng rau quả xuất khẩu trọng điểm là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển sản xuất - lưu thông - xuất khẩu rau quả. Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị trường thực sự có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về thông tin thị trường tiêu thụ để có quyết định đầu tư sản xuất hợp lý. Tuy vậy, người sản xuất không thể tự giải quyết vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Nguyên nhân ,tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quy ết Xét về nguyên nhân khách quan, xuất phát điểm của nông nghiệp Việt Nam thấp trong khi nguồn lực của cả Nhà nước và nhân dân còn hết sức hạn hẹp. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ và một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có năng suất, chất lượng cao, đa dạng hoá sản phẩm và định hướng thị trường nên chưa thực sự quan tâm chỉ đạo và có cơ chế chính sách đủ mạnh để thực hiện. Việc đầu tư phát triển hệ thống thông tin giá cả, thị trường chưa theo kịp yêu cầu nên khả năng phân tích, dự báo còn nhiều yếu kém, chưa hướng dẫn cho nông dân nên sản xuất loại sản phẩm gì để có hiệu quả cao. Hạ tầng dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông sản còn thiếu nhiều, hệ thống chợ bán buôn hàng nông sản chưa được quy hoạch và đầu tư phát triển mạnh, thiếu các cảng chuyên dụng, chi phí bốc xếp, lưu kho cao...làm giảm hiệu quả tiêu thụ, chưa khuyến khích được người nông dân phát triển sản xuất. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập. Nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành những còn chậm trong việc hướng dẫn tổ chức thực hiện. Một số chính sách chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu và phát triển sản xuất. Việc tuyên truyền phổ biến các chính sách để nâng cao nhận thức của người nông dân, giúp họ định hướng sản xuất hợp lý ở nhiều nơi vẫn còn chậm và chưa thực sự quan tâm. Cơ cấu đầu tư chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu phát triển của cơ cấu kinh tế mới. Nhu cầu vốn cho đầu tư cho CSHT nông thôn rất lớn trong khi nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 6% tổng chi ngân sách và đáp ứng được khoảng 60 - 70% yêu cầu thực tế. Vốn của nông dân và các doanh nghiệp, HTX chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp nhưng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thường có quy mô vừa và nhỏ lại chỉ chiếm gần 10% tổng số doanh nghiệp cả nước, do đó tốc độ mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho đầu tư hạ tầng nông nghiệp nên nguồn vốn này chỉ mới chiếm khoảng 7% tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Một số quy định về đất đai vẫn còn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, chưa khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp, nông hộ mong muốn xây dựng được những vùng sản xuất nguyên liệu tập trung ổn định lâu dài nhưng lại gặp khó khăn về dồn đổi, chuyển nhượng đất nông nghiệp. Phát triển sản xuất nhiều loại cây trồng, trong đó có rau, hoa, quả còn phân tán và mang nặng tính tự phát. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhìn chung còn chậm so với yêu cầu, chưa thực sự tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người nông dân về tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhiều nơi nông dân vẫn tập trung vào sản xuất các loại cây truyền thống, ít chịu đổi mới. Năng lực, trình độ cũng như việc tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ cao chưa đáp ứng được nhu cầu. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu KH&CN còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả, thiếu các cán bộ có trình độ chuyên môn cao đã ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của công tác nghiên cứu. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa tạo ra bước đột phá để tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả nhằm phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Việc quản lý giống thiếu sự chặt chẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả kinh tế của nhiều loại rau, quả. Mạng lưới khuyến nông tuy đã hình thành đến tận cụm xã nhưng nhìn chung vẫn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của sản xuất. Khâu quản lý chất lượng hàng hoá còn nhiều bất cập gây tâm lý bất an của người tiêu dùng đối với các sản phẩm sản xuất trong nước. Công tác giáo dục, tuyên truyền về VSATTP trong cộng đồng chưa triệt để; thực trạng kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, chưa đủ điều kiện để áp dụng kỹ thuật cao trong sản xuất; hầu hết các địa phương chưa có một bộ máy hữu hiệu để quản lý vấn đề này;… Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và kiểm nghiệm về Vệ sinh an toàn thực vật và kiểm dịch thực vật còn hạn chế về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, trang thiết bị của một số cơ sở kiểm định thuốc BVTV còn nghèo nàn đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động kiểm nghiệm, đánh giá dư lượng thuốc BVTV đối với hàng nông sản. Trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế nên việc sử dụng phân bón, thuốc BVTV, thuốc bảo quản còn nhiều bất cập; nhiều nơi, nhất là các vùng ven đô thị đã xây dựng được các vùng rau, quả “an toàn” nhưng số lượng còn nhỏ bé, chưa thiết lập được mạng lưới kiểm soát, chứng nhận nên vẫn chưa khuyến khích phát triển sản xuất. Trong quản lý, sản xuất kinh doanh, nhiều hợp tác xã còn lệ thuộc rất lớn vào chính quyền địa phương. Việc chuyển đổi và thành lập mới HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả. Trình độ quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh và nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của nhiều cán bộ cơ sở còn hạn chế; nhiều hợp tác xã khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu vốn, không đủ sức cạnh tranh với tư nhân; cơ chế cho hợp tác xã vay vốn còn bất cập; thiếu cập nhật thông tin thị trường... nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Các chính sách mới thường chậm đến với hợp tác xã, kể cả văn bản dưới luật. Các HTX nông nghiệp còn quá nhiều hạn chế và yếu kém cả về tổ chức, quản lý và hoạt động. Quá trình đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ trong nông nghiệp, nông thôn chậm chuyển biến, thiếu tính đồng bộ. Chưa hình thành được hệ thống phân phối, kênh tiêu thụ phù hợp với nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiện đại và yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường. Phát triển Kinh tế trang trại còn thiếu nguồn vốn để xây dựng những kế hoạch đầu tư dài hơi nên nhiều trang trại hoạt động chưa hiệu quả, nhiều địa phương còn thiếu quy hoạch tổng thể và chưa xác định được mô hình trang trại phù hợp nên đã nảy sinh nhiều vấn đề như hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chưa đủ đáp ứng được nhu cầu cần thiết của các trang trại. Hơn nữa, do đầu ra còn hạn chế nên việc đầu tư chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa thực sự được các chủ trang trại quan tâm, dẫn đến nông sản của nhiều trang trại thiếu tính cạnh tranh so với những mặt hàng cùng loại được sản xuất với quy mô nhỏ. Phát triển kinh tế trang trại chưa thực sự đầu tư vào những sản phẩm mang tính lâu dài, những loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế; chưa đầu tư có chiều sâu và thiếu định hướng lâu dài về xây dựng những mô hình sản xuất hiện đại. Công tác tổ chức triển khai, phổ biến, tuyên truyền và vận động doanh nghiệp, người dân thực hiện Quyết định 80 còn yếu, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cấp tỉnh, chưa được triển khai mạnh đến cấp huyện và nhất là cấp xã. Nhiều địa phương chưa chú ý đúng mức đến vai trò và tầm quan trọng của hình thức tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Việc triển khai thực hiện còn nặng về hình thức, thiếu đi sâu vào nội dung, chưa chủ động sáng tạo ban hành những chính sách cụ thể của địa phương để hỗ trợ các bên tham gia hợp đồng. Do đó, bà con nông dân và ngay cả chính quyền tại một vài địa phương chưa hiểu biết đầy đủ về chính sách liên kết ''4 nhà'', còn nhiều lúng túng trong cả khâu sản xuất và tiêu thụ. Trong sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản, đặc biệt ngành hàng rau quả, vẫn chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa vùng nguyên liệu và cơ sở sản xuất, bảo quản, chế biến. Do đó, chưa tận dụng được hết công suất, hiệu quả của các nhà máy đồng thời tác động làm cho giá cả hàng hoá thiếu ổn định, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Kết cấu hạ tầng cho vùng nguyên liệu chưa thực sự được quan tâm đầu tư. Trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản các chính sách đã ban hành bước đầu đã tạo nên khung khổ pháp lý mang tính hệ thống, tạo môi trường hoạt động để kinh doanh xuất khẩu đi vào quỹ đạo của quản lý luật pháp và theo các qui luật của thị trường. Thành tựu về kinh doanh xuất khẩu nông sản thời gian qua là yếu tố quan trọng khẳng định hiệu quả của hệ thống chính sách và cơ chế đã ban hành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất - chế biến - lưu thông xuất khẩu rau, hoa, quả, Nhà nước, các Bộ, ngành có liên quan chưa tạo lập được cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự khuyến khích đối với người kinh doanh rau, hoa, quả nói chung, kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả nói riêng như chính sách đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học; đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch; chính sách khuyến khích về thuế; chính sách khuyến nông; chính sách bảo hiểm đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả... Đồng thời, chưa có các giải pháp đủ mạnh có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng của xuất khẩu rau, hoa, quả. Những chính sách đã ban hành chung trong lĩnh vực sản xuất - lưu thông xuất khẩu nông sản vẫn còn hạn chế ở nhiều khía cạnh, cần được bổ sung nhằm khuyến khích xuất khẩu rau, hoa, quả. Bên cạnh đó, trong cam kết WTO, Việt Nam phải bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO. Trước mắt, năm 2007 sẽ bỏ thưởng xuất khẩu đối với thành tích xuất khẩu và thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu. Để phát huy lợi thế so sánh h àng nông sản trên thị trường thế giới, để thúc đẩy xuất khẩu rau, hoa quả cần phải có cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích xuất khẩu, phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất và tham gia xuất khẩu rau, hoa, quả. Đồng thời, thực thi đồng bộ các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của kinh doanh rau, hoa, quả xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả phát triển. 2.6. Chính sách của Nhà nước về Thuế, các khoản phải nộp đối với công ty CNH-HĐH đất nước,nền kinh tế hội nhập mở cửa,các doanh nghiệp,công ty đều được cổ phần hoá,tự kinh doanh các mặt hàng theo đăng ký với cơ quan Nhà nước.Công ty giao nhận kho vận Ngoại thương Nghệ An cũng không nằm ngoài quy luật phát triển đó.,luôn đứng vững, đương đầu với những thách thức khó khăn.Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ, ưu đải đối với các khoản thuế và thuế thu nhập của công ty nhất là từ hoạt động giao nhận các sản phẩm từ nông nghiệp.Tuy nhiên các khoản thuế phải nộp còn khá cao, ảnh hưởng đến tổng thu nhập chung của công ty. Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, trong đó có sản xuất,vận chuyển,tiêu thụ các mặt hàng rau quả, đầu tư phát triển sản xuất. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực ngành nghề được ưu đãi đầu tư (như trồng cây ăn quả lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, chế biến bảo quản rau quả, ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống cây…) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Cơ sở sản xuất mới thành lập thuộc các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên đầu tư ở các tỉnh miền núi được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong thời hạn từ 7 đến 9 năm; nếu phát sinh lỗ, doanh nghiệp còn được chuyển lỗ trong vòng 5 năm. - Về Thuế VAT: Để khuyến khích tiêu thụ nông sản, các doanh nghiệp được miễn thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp trên khâu lưu thông theo Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày 06/9/2000 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thi hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ. - Về Thuế sử dụng bến bãi cho các sản phẩm từ nông nghiệp: Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 của Chính phủ đã quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 15/2003/QH11,ngày 17/6/2003 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất vào m ục đ ích kinh doanh bến bãi cho các sản phẩm từ nông nghiệp. Các hộ nghèo, hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp; người nông dân được Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp, xã viên hợp tác xã… nhận đất giao khoán ổn định để sản xuất nông nghiệp đều được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức; người nông dân được quyền đóng góp ruộng đất của mình để thành lập Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã. - Các chính sách tài chính khác của Nhà nước đối với các Doanh nghiệp: Với Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, người sản xuất và kinh doanh nông sản, trong đó có rau quả, được đảm bảo đủ nhu cầu vay vốn và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn ngân hàng (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, vay vốn bằng tín chấp, vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả)… Nhà nước luôn quan tâm ưu tiên cung cấp đầu tư cho các doanh nghiệp. Ngành Ngân hàng có nhiều cải tiến nhằm tạo thuận lợi về cho vay đối với người sản xuất và các doanh nghiệp, tăng hỗ trợ thông qua Ngân hàng chính sách xã hội để giúp người nghèo và các đối tượng chính sách đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. - Về Thuế thu nhập doanh nghiệp: Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, trong đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33332.doc
Tài liệu liên quan