MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 0
CHƯƠNG I 3
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI 3
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 3
1.2. MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI 4
1.3. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 9
1.3.1. Chức năng. 9
1.3.2. Nhiệm vụ. 9
1.3.3. Đặc điểm. 9
1.4. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CHUỖI HỆ THỐNG BÁN LẺ HAPRO MART. 10
1.4.1. Nhiệm vụ phát triển hạ tầng thương mại của Tổng công ty thương mại Hà nội 11
1.4.2. Mục tiêu của chuỗi hệ thống Hapro Mart. 11
1.4.3. Hoạt động kinh doanh chính. 11
1.4.4. Tình hình thực hiện. 11
1.5. KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH CHUỖI SIÊU THỊ. 12
1.5.1. Khái niệm siêu thị. 12
1.5.2. Đặc trưng của siêu thị. 13
1.5.3. Vai trò của siêu thị trong hệ thống phân phối hiện đại. 15
1.5.4. Chuỗi siêu thị. 17
CHƯƠNG II 18
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CHUỖI HỆ THỐNG BÁN LẺ HAPRO MART CỦACÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 18
2.1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CHUỖI HỆ THỐNG BÁN LẺ HAPRO MART CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 18
2.1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Siêu thị Hà Nội. 18
2.1.1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh chung của Công ty Siêu thị Hà Nội. 18
2.1.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của chuỗi Hapro Mart. 20
2.1.2. Chương trình khuyến mại, quảng cáo, khuyếch trương. 23
2.1.3. Phân tích khả năng cạnh tranh của chuỗi hệ thống bán lẻ Hapro Mart của Công ty Siêu thị Hà Nội. 26
2.1.3.1. Môi trường chung. 26
2.1.3.2. Phân tích môi trường ngành. 33
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CHUỖI HỆ THỐNG BÁN LẺ HAPRO MART CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 36
2.2.1. Đánh giá những điểm mạnh và nguyên nhân. 36
2.2.2 Đánh giá những điểm yếu và nguyên nhân. 38
CHƯƠNG 3 41
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CHUỖI HỆ THỐNG BÁN LẺ HAPRO MART CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 41
3.1. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI. 41
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA CÔNG TY SIÊU THỊ HÀ NỘI. 42
3.2.1. Xây dựng các chính sách mặt hàng và nguồn hàng. 43
3.2.2. Xây dựng các chương trình khuyến mại thu hút khách hàng. 44
3.2.3.Công tác tổ chức cán bộ. 45
3.2.4. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp. 46
3.2.5. Vấn đề phát triển thương hiệu. 48
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC. 49
3.3.1. Xây dựng chiến lược và định hướng phát triển thị trường nội địa và hệ thống phân phối bán lẻ. 49
3.3.2. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng thương mại. 51
3.3.3. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ tài chính. 51
3.3.4. Chính sách hỗ trợ về nguồn nhân lực. 52
KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2092 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh chuỗi hệ thống bán lẻ Hapro Mart trên địa bàn Thủ đô của Công ty Siêu thị Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chọn ưu tiên hơn chợ do sự văn minh, hiện đại trong mua sắm và mua hàng hóa nhất là thực phẩm ở đây họ có cảm giác yên tâm hơn đặc biệt là sau 2 đại dịch cúm gia cầm và dịch tả thì vấn đề xuất xứ hàng hoá, vệ sinh an toàn được người tiêu dùng hết sức chú ý.
Tổng kết doanh thu theo nhòm hàng thì 2 siêu thị Thanh Xuân và D2 Giảng Võ là 2 đơn vị có số lượng hàng hoá tiêu thụ mạnh nhất. Thanh Xuân đứng đầu về 3 nhóm hàng: nhóm hàng Thực phẩm tươi, nhóm hàng Tạp phẩm và hàng gia dụng và nhóm hàng Hoá mỹ phẩm và chất tẩy rửa. Siêu thị D2 Giảng Võ đứng đầu ở 2 nhóm hàng: nhóm hàng Thực phẩm khô và nhóm hàng May mặc.
2.1.2. Chương trình khuyến mại, quảng cáo, khuyếch trương.
Giá cả và phương thức phục vụ là 2 công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực siêu thị nói riêng và bán lẻ nói chung thường sử dụng để thu hút khách hàng.
Với một chất lượng hàng hoá không có gì là lợi thế hơn các siêu thị khác chỉ có sự phục vụ tận tình của các nhân viên bán hàng mới là điều thu hút khách hàng đến với chuỗi Hapro Mart, Công ty Siêu thị Hà Nội luôn quan tâm chú trọng đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng coi đây chính là hoạt động xây dựng thương hiệu qua quá trình bán hàng bởi nhân viên bán hàng là đội ngũ trong Công ty thường xuyên tiếp xúc với khách hàng và là người truyền đạt những mong muốn phục vụ khách hàng của Ban Giám đốc Công ty.
Toàn bộ đội ngũ bán hàng của chuỗi đều phải thực hiện nghiêm túc việc mặc đồng phục, đeo biển hiệu để thể hiện sự chuyên nghiệp trong công việc và mỗi khi khách hàng có những thắc mắc có thể nhanh chóng tìm đến họ để nghe những lời khuyên, giải thích hữu ích phục vụ cho quá trình mua sắm.
Công ty Siêu thị Hà Nội luôn xác định “ khách hàng là người bạn ân cần” do vậy ở mỗi ngành hàng nhân viên bán hàng được bố trí đứng tại mỗi khu vực quầy, kệ để tư vấn, hướng dẫn cho khách hàng trong quá trình mua sắm. Tất cả các nhân viên bán hàng trong chuỗi luôn có thái độ nhiệt tình, ân cần trong quá trình phục vụ khách hàng.
Là một doanh nghiệp thương mại lại hoạt động trong lĩnh vực siêu thị, với tính chất đặc thù nên thời gian và cường độ làm việc khá nhiều, nhưng Công ty luôn bảo đảm được giờ giấc sao cho các nhân viên bán hàng tại các siêu thị, cửa hàng tiện ích làm việc có hiệu quả nhất. Giờ làm việc của các nhân viên bán hàng được chia làm 2 ca: Sáng từ 7h30’ đến 14h30’. Chiều từ 14h00’ đến 21h30’ ( khoảng thời gian từ 14h00’ đến 14h30’ là thời gian giao ca). Nhân viên bán hàng phải bảo đảm đủ 26 ngày công mỗi tháng. Đối với việc nghỉ các ngày Lễ, Tết, chủ nhật phải nghỉ lần lượt và theo sự phân công của Tổ trưởng phụ trách bộ phận mình.
Trong mỗi cuộc họp giao ban thường kỳ vấn đề phục vụ khách hàng luôn được Ban Giám đốc Công ty quan tâm. Giám đốc các siêu thị, cửa hàng tiện ích phải có những báo cáo kịp thời về tình hình làm việc, thái độ phục vụ của các nhân viên bán hàng để Ban Giám đốc nắm rõ và có những biện pháp điều chỉnh kịp thời vì họ chính là bộ mặt của toàn Công ty.
Ý thức được tầm quan trọng đó, Công ty Siêu thị Hà Nội thường xuyên tổ chức những đợt tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các nhân viên bán hàng tại các siêu thị, cửa hàng tiện ích. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và hiệu quả kinh doanh của các siêu thị.
Với những kết quả đạt được như vậy, lượng khách hàng của chuỗi Hapro Mart của Công ty Siêu thị Hà Nội đã tăng lên một cách đáng kể. Không những thế, lượng khách hàng thường xuyên cũng tăng lên, đó là một thành tích đáng biểu dương của đỗi ngũ nhân viên bán hàng tại các siêu thị.
Trong quá trình kinh doanh, Công ty Siêu thị Hà Nội thường xuyên tổ chức những chương trình khuyến mãi nhân dịp Lễ, Tết và các ngày lễ lớn trong năm để khuyến khích việc tăng sức mua của khách hàng. Ví dụ như: ngày giỗ Tổ Hùng Vương, ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4 và ngày Quốc tế 1/5, ngày lễ tình yêu 14/2, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3,.... Ban Giám đốc Công ty thường xuyên tổ chức những chương trình khuyến mại kéo dài với nhiều hình thức như:
Giảm giá 2% trên hoá đơn khi khách hàng mua hàng có giá trị trên 250.000 đồng.
Giảm giá 3% trên hoá đơn khi khách hàng mua hàng có giá trị trên 500.000 đồng.
Với mỗi 100.000 đồng tiền mua hàng trên hoá đơn, khách hàng sẽ được một phiếu bốc thăm trúng thưởng.
Có những khu vực dành riêng cho các mặt hàng có giá bán là 10.000 đồng, 20.000 đồng ( hàng giảm giá), hàng mua một tặng một, hàng bó khuyến mại.
Thông qua việc áp dụng những chương trình như vậy, không những doanh thu của các siêu thị, cửa hàng tiện ích trong chuỗi tăng lên một cách đáng kể mà lượng khách hàng gắn bó với chuỗi cũng tăng lên.
Đặc biệt trong dịp Tết Mậu Tý vừa qua, lượt khách hàng đến với chuỗi tăng lên đáng kể 100% so với thời điểm trước đó. Các siêu thị như Siêu thị Thanh Xuân, D2 Giảng Võ, 5 Lê Duẩn,... phục vụ khách hàng đến những ngày cuối cùng của năm, thời gian đến 19h – 20h đêm Giao thừa.
Với mục tiêu phục vụ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trên khắp các địa bàn trong dịp Tết nguyên đán Mậu Tý, hệ thống siêu thị Hapro Mart của công ty Siêu thị Hà Nội đã cung ứng lượng hàng hóa ngập tràn, phong phú về chủng loại với chất lượng đảm bảo các nguồn hàng nhập khẩu và trong nước có uy tín trên thị trường. Các mặt hàng chính được khách hàng lựa chọn trong dịp Tết là hàng thực phẩm như: bánh mứt kẹo, bánh trưng, giò và các loại thịt nguội, dầu ăn, trứng gà tươi, rau an toàn, các loại đồ uống.... Tính riêng mặt hàng bánh mứt kẹo và đồ uống có ngày doanh thu đạt được lên đến 1,5 tỉ đồng , cung ứng hơn 10 tấn bánh mứt kẹo phục vụ khách đến mua sắm tại siêu thị. Ngành hàng thời trang với mẫu mã phong phú, phù hợp thị hiếu khách hàng, cũng tiêu thụ rất mạnh với doanh số đạt gần 5 tỉ đồng trong 2 tháng giáp Tết.
Đồng thời, hệ thống chuỗi của Công ty rất chú trọng dành những vị trí trang trọng, thuận tiện cho việc quảng cáo các mặt hàng được kinh doanh tại chuỗi nhằm mục đích khuếch trương ưu thế của chuỗi, thu hút khách hàng và tăng nguồn thu cho Công ty. Tất cả các siêu thị, cửa hàng tiện ích đều có những nơi dành riêng cho khu vực khuyến mại. Ở đây có những kệ hàng dành riêng cho mặt hàng khuyến mại như: Trà Lipton, Trà Nestea, Vinamilk, khu hàng 10.000 đồng,... Đây chính là nơi hấp dẫn các nhà cung cấp đầu tư tiền để bày bán những loại mặt hàng mới hoặc chậm luân chuyển. Việc cho thuê đầu kệ này phát huy được điểm mạnh như: siêu thị tận dụng được nhân viên bán hàng của các nhà cung cấp cử đến, họ có sự hiểu biết sâu về sản phẩm nên giới thiệu cho khách hàng một cách cặn kẽ. Tuy nhiên, nhân viên siêu thị thường ỷ lại cho nhân viên tiếp thị của nhà cung cấp, không chú trọng đến việc trưng bày cũng như tìm hiểu các kiến thức về sản phẩm mà nhân viên tiếp thị đang quản lý dẫn tới phục vụ khách hàng kém.
Với việc cho thuê đầu kệ và quảng cáo như vậy, hàng tháng các siêu thị, cửa hàng tiện ích trong chuỗi Hapro Mart của Công ty Siêu thị Hà Nội đã thu được một khoản tiền không nhỏ. Cụ thể, doanh thu đầu kệ của các siêu thị được thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 4: Doanh thu đầu kệ của các đơn vị trong năm 2007.
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
CÁC ĐƠN VỊ
DOANH THU ĐẦU KỆ
Siêu thị Thanh Xuân
780
Siêu thị D2 Giảng Võ
749
Siêu thị 5 Nam Bộ
726
Siêu thị Hoàng Hoa Thám
189
Tổng cộng
2444
( Nguồn: Phòng Kế hoạch phát triển)
2.1.3. Phân tích khả năng cạnh tranh của chuỗi hệ thống bán lẻ Hapro Mart của Công ty Siêu thị Hà Nội.
2.1.3.1. Môi trường chung.
2.1.3.1.1. Yếu tố kinh tế.
Thuận lợi:
11/01/2007, Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Lúc này thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng rộng lớn, nó không chỉ giới hạn trong nước, trong khu vực mà là ở phạm vi toàn cầu, thị trường quốc tế sẽ biết đến sự có mặt nhiều hơn của hàng hoá Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều thị trường mới đầy tiềm năng, bạn hàng đối tác cũng sẽ tăng lên. Do vậy mà hiệu quả kinh tế cũng sẽ không ngừng tăng.
Khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều khách du lịch quốc tế. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2007 lượng khách quốc tế tới Việt Nam là 4,23 triệu lượt tăng 18% so với năm 2006. Lượng khách du lịch tăng khiến cho cầu về hàng hoá, sản phẩm tăng khiến các doanh nghiệp phải mở rộng qui mô và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ thì mới có thể thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tại Việt Nam luôn tăng trưởng trong vòng 8 năm qua. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ đã tăng từ 220 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên đến 480 nghìn tỷ đồng năm 2006 và 726 nghìn tỷ đồng năm 2007.
Khó khăn:
Trong thời gian gần đây, lạm phát tăng một cách “chóng mặt”, Chính phủ đang tìm mọi cách đẩy lùi lạm phát nhưng tình hình vẫn chưa có gì biến chuyển, lạm phát vẫn gia tăng làm cho giá cả các loại hàng hoá tăng nhanh nhất là giá lương thực, thực phẩm gây tâm lý bất ổn cho người tiêu dùng.
Các lộ trình gia nhập WTO đang dần được thực hiện như cam kết, khi đó dòng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam sẽ tăng mạnh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngày càng nhiều gây nhiều áp lực cho các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước.
Buôn lậu, đặc biệt từ Trung Quốc vào Việt Nam vẫn cứ gia tăng mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều biện pháp mạnh, làm cho các doanh nghiệp nhập hàng từ nguồn chính thống phải cạnh tranh về giá cả về những loại hàng hoá này.
Theo số liệu của Bộ Công thương, hàng hoá đến tay người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua các cửa hàng bán lẻ độc lập ( khoảng 44%). Hàng bán qua hệ thống kênh phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi .... chỉ mới chiếm khoảng 10%, còn lại 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng.
2.1.3.1.2. Yếu tố chính trị.
Thuận lợi:
Mặc dù bên ngoài đang có nhiều biến động chính trị bất thường như vấn đề Irac, những cuộc khủng bố lớn trên thế giới,... nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là có môi trường chính trị ổn định, không có xung đột tôn giáo, sắc tộc trong nước. Nhận định này rất có lợi cho sự phát triển của Việt Nam.
Trong thời gian vừa qua Việt Nam đã chứng tở với bạn bè trên thế giới thấy Việt Nam là điểm đến, địa điểm du lịch an toàn. Đặc biệt là trong đợt dịch cúm gia cầm vừa qua, Việt Nam đã khống chế được dịch không để dịch lan rộng, do vậy mà niềm tin của Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế ngày càng được tăng lên.
Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa dạng hoá các mối quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, từ đó thị trường hàng hoá ngày càng phong phú, khách hàng ngày càng đa dạng.
Khó khăn:
Trong thời gian qua, chiến tranh và các cuộc khủng bố liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi trên thế giới gây ra những biến động về giá cả ảnh hưởng đến tâm lý tiêu dùng
Bất đồng chính trị giữa các nước, đặc biệt là bất đồng giữa Mỹ và các nước theo con đường chủ nghĩa xã hội ngày càng gia tăng, gây nên tình trạng bất ổn định, ảnh hưởng chung đến nền kinh tế thế giới.
2.1.3.1.3. Yếu tố pháp luật.
Thuận lợi:
Pháp luật Việt Nam hướng tới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh, xu hướng ngày càng đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ không ngừng tăng lên do vậy mà hệ thống pháp luật ngày càng phải hoàn chỉnh, tạo độ thông thoáng cho các doanh nhân nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam.
Hệ thống thuế của Việt Nam đang được cố gắng hoàn chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tạo sự công bằng trong nền kinh tế.
Những vụ buôn lậu, trốn thuế,... đang được Việt Nam tăng cường nỗ lực giải quyết. Điều này tạo thêm niềm tin cho các doanh nghiệp.
Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn đến những vụ tranh chấp thương mại quốc tế và đang cố gắng hoàn thiện hơn cơ quan hoà giải kinh tế, điều này giúp các doanh nghiệp tự tin hơn khi kinh doanh.
Khó khăn:
Tuy đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện nhưng hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa đầy đủ, còn nhiều chỗ thiếu xót.
Việt Nam vẫn còn độc quyền một số ngành như bưu chính viễn thông, truyền hình, hàng không, điện, nước. Điều này góp phần tăng chi phí đầu vào, tăng chi phí dịch vụ của các doanh nghiệp.
Hệ thống thuế tuy cũng đang được chỉnh sửa cho hoàn thiện nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập.
Các mặt hàng ngoại nhập giá còn rất cao vì sự bảo hộ trong nước chưa thật sự có sự công bằng đối với các mặt hàng nhập khẩu, điều này phải thay đổi khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tệ quan liêu vẫn đang còn tồn tại, thủ tục hành chính tuy đã cố gắng cải thiện nhưng vẫn còn phiền hà, rắc rối gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
2.1.3.1.4. Yếu tố công nghệ
Thuận lợi:
Công nghệ mới có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm rẻ hơn với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Thị trường máy móc, thiết bị, công nghệ trên thế giới ngày càng phát triển, có nhiều nguồn cung cấp hơn, giá cả cạnh tranh hơn khiến cho các doanh nghiệp trong nước có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn đối tác, để có thể lựa chọn được giải pháp công nghệ tối ưu nhất với giá cả hợp lý.
Công nghệ thông tin ngày càng phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin giúp doanh nghiệp mở rộng mạng lưới quan hệ với khách hàng, với các nhà cung cấp và các bên hữu quan. Việc ứng dụng các phần mềm trong quản lý, sản xuất và kinh doanh giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và năng suất hơn.
Các doanh nghiệp trong nước được bảo vệ quyền lợi hơn trong việc mua sắm các trang thiết bị, máy móc, công nghệ vì đã được Chính phủ ban hành những quy định chặt chẽ về việc đấu thầu, chào giá, cạnh tranh và thẩm định.
Khó khăn:
Công nghệ ngày càng phát triển làm cho vòng đời của sản phẩm bị rút ngắn lại, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới. Đặc biệt đối với nhà phân phối trung gian phải hết sức nhạy bén với tình hình thị trường, phải luôn cập nhật để có được những hàng hoá mới nhất nhằm đáp ứng được nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng.
Công nghệ kỹ thuật trên thế giới liên tục thay đổi theo xu hướng ngày càng tạo ra sự thuận lợi, năng suất theo nhu cầu của thị trường buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư để theo kịp xu hướng đó mà chi phí cho những khoản này là rất lớn.
Các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ đủ khả năng nhập những công nghệ cũ, đã lạc hậu rất nhiều, điều này khiến cho năng lực sản xuất trong nước bị hạn chế, khả năng cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập thấp. Đặc biệt với các nhà phân phối trung gian phải đứng trước sự lựa chọn giữa sản phẩm trong nước và hàng ngoại nhập.
Tuy thương mại điện tử đã phát triển mạnh trên thế giới nhưng đối với Việt Nam nó vấn còn khá mới mẻ. Ngoài những trở ngại về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, pháp luật,... còn có những trở ngại về phía người tiêu dùng như thói quen tiêu tiền mặt, mua sắm trực tiếp.
Công nghệ thông tin phát triển khiến cho khách hàng luôn hiểu rất rõ nhu cầu của họ cũng như hiểu rõ về sản phẩm và dịch vụ. Điều này đã khiến cho việc xuất hiện một xu hướng ngược lại với xu hướng đã có trước đó. Đó là, trước đây khách hàng phải tự làm hài lòng với nhu cầu của mình, thì nay các nhà cung cấp phải chủ động tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để thoả mãn. Trước đây, khách hàng tìm đến nhà cung cấp thì giờ đây nhà cung cấp phải chủ động tìm đến với khách hàng của mình.
2.1.3.1.5. Yếu tố văn hoá – xã hội
Thuận lợi:
Tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới AT Kearney đã đánh giá chỉ số phát triển bán lẻ chung ( Gobal Retail Development Index – GRDI) của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới, sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Mặt khác, theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu toàn cầu RNCOS, Việt Nam hiện nay là một trongbayr thị trường bán lẻ sinh lợi nhất thế giới.
Càng ngày đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, năm 2006, thu nhập bình quân đầu người là 715 USD, năm 2007 là 835 USD, trong 5 năm thu nhập bình quân đầu người tăng 70,7%.
Với dân số trên 85 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới. Mặt khác, theo dự đoán của hãng nghiên cứu toàn cầu RNCOS, nhóm tiêu dùng chính (có độ tuổi từ 15-64) sẽ chiếm khoảng 68.8% tổng số dân. Do vậy, thị trường tiêu dùng Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, dân số thành thị có xu hướng tăng lên, đây lại là nhóm mua hàng chính thông qua các kênh phân phối hiện đại như trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện lợi,... đặc biệt ở Thủ đô Hà Nội là nơi tập trung đông đảo người dân đến làm ăn hay học tập.
Việt Nam có đội ngũ lao động trẻ, dồi dào, cần cù, thông minh, sáng tạo với trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng được chú trọng nâng cao, thị trường lao động rẻ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc giảm chi phí đầu vào.
Tuy Việt Nam là nước có nhiều dân tộc, với 54 dân tộc và nhiều tôn giáo tín ngưỡng nhưng không có xung đột về tôn giáo sắc tộc, vì Việt Nam thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho tình hình kinh tế nói chung và tạo niềm tin cho các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài yên tâm khi kinh doanh tại Việt Nam.
Việt Nam đang từng bước hội nhập với nề kinh tế thế giới nên học hỏi được nhiều tinh hoa, văn hoá dân tộc của nhiều nước trên thế giới, trong quá trình đó đã tạo ra một nguồn lực kích cầu rất lớn.
Khó khăn:
Người Việt Nam vẫn còn duy trì mạnh mẽ thói quen mua sắm tại các chợ còn số người có thói quen mua sắm tại các siêu thị lại chiếm một phần nhỏ. Để thay đổi được thói quen này là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức siêu thị.
Người Việt Nam có thói quen tiêu dùng tiền mặt, các phương thức khác như thẻ tín dụng, mua hàng qua mạng chưa phát triển. Bên cạnh đó người tiêu dùng còn có thói quen sính hàng ngoại khiến cho các doanh nghiệp trong nước gặp rất nhiều khó khăn.
Trong thời gian qua hàng loạt các đại dịch lớn như: SARS, dịch cúm gia cầm H5N1 đã gây ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế nói chung và tác động trực tiếp tới các ngành du lịch, hàng không và hàng loạt các ngành khác làm cho sức tiêu thụ hàng hoá giảm.
Người Việt Nam có thói quen sống tiết kiệm, để dành nên sức mua hàng ở dạng tiềm năng là rất lớn.
2.1.3.1.6. Yếu tố toàn cầu hoá và hội nhập.
Thuận lợi:
Quá trình toàn cầu hoá là cơ hội cho các doanh nghiệp chọn đối tác kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Điều này giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức siêu thị có thể phục vụ, làm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Quá trình toàn cầu hoá cũng làm thay đổi dần thói quen tiêu dùng của người dân. Người tiêu dùng có xu hướng:
Lựa chọn những sản phẩm có chất lượng, được đảm bảo bới thương hiệu.
Mua sắm hàng hoá ở cùng một nơi, thay vì đi khắp các dãy phố để mua các loại mặt hàng khác nhau.
Cùng gia đình mua sắm tại các trung tâm thương mại và siêu thị lớn, ví dụ: vừa kết hợp vui chơi giải trí cho con cái và mua sắm cho vợ chồng.
Cơ sở hạ tầng trong nước được cải thiện mạnh mẽ là nhờ vào việc ngày càng có nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong việc du nhập kiến thức hay được tăng cường các nguồn lực như con người, nguồn tài chính,... Và đặc biệt giờ đây ranh giới địa lý không còn là trở ngại ngăn cản các quyết định chiến lược và hành động chiến lược của doanh nghiệp.
Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đã tạo ra được một lực mạnh mẽ trong việc kích cầu. Sự có mặt ở Việt Nam của một số tập đoàn phân phối lớn như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Parkson (Malayxia), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Liên doanh Hàn Quốc)...với mô hình phân phối hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến đã góp phần thúc đẩy siêu thị, trung tâm thương mại ở Việt Nam phát triển theo xu hướng hội nhập. Ngoài ra, còn có một hình thức kinh doanh mới rất phát triển trên thế giới và đã xuất hiện ở VN, đó là hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại (Franchising) để mở rộng mạng lưới bán hàng, khai thác và kết hợp nguồn lực của nhiều DN nhỏ trở thành hệ thống có quy mô lớn và trình độ tổ chức cao, ví Công ty Kinh Đô với gần 100 hiệu bánh “Kinh Đô Bakery”, Phở 24, G7 Mart…
Khó khăn:
Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh còn rất yếu, đặc biệt là đối với các đối thủ là các công ty đa quốc gia đang liên kết với nhau lũng đoạn thị trường.
Khi toàn cầu hoá còn gây ra một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc thu thập thông tin và lựa chọn thông tin vì lượng thông tin quá lớn.
Các doanh nghiệp bây giờ không chỉ phải cạnh tranh với các đối thủ trong nước mà còn có các đối thủ từ các nước khác trên thế giới. Và tốc độ khốc liệt sẽ ngày càng tăng lên khi Việt Nam thực hiện hết các lộ trình trong cam kết mở cửa của WTO.
Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá không thể tránh khỏi việc bản sắc dân tộc bị thay đổi, thị hiếu tiêu dùng bị ảnh hưởng. Điều này là một thách thức với các doanh nghiệp vì phải thay đổi liên tục để đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của khách hàng. Tức là doanh nghiệp cần phải nhanh nhạy hơn trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường và phải đầu tư với lượng vốn lớn hơn.
2.1.3.2. Phân tích môi trường ngành.
2.1.3.2.1. Áp lực cạnh tranh từ nhà cung cấp.
Đối với Công ty Siêu thị Hà Nội vì là kinh doanh theo hình thức siêu thị nên các mặt hàng phải hết sức đa dạng. Chính vì thế nên Công ty phải có cùng một lúc rất nhiều nhà cung cấp để đảm bảo hàng hoá luôn đa dạng, phong phú. Hơn nữa Hapro Mart là siêu thị hoạt động theo hệ thống chuỗi nên áp lực từ nhà cung cấp cho toàn chuỗi là rất lớn.
Hiện nay, Công ty mới chỉ ký được với một số nhà cung cấp lớn còn hầu hết ký với các đại lý cấp 1(đại lý toàn quốc) và đại lý cấp 2(đại lý vùng).
Để hạn chế được sức ép từ nhà cung cấp, Công ty Siêu thị Hà Nội cần có những kế hoạch cụ thể cho công tác này và phối hợp chặt chẽ với kế hoạch nguồn hàng của Tổng Công ty để có lợi thế chuỗi khi xây dựng giá cho các sản phẩm trong chuỗi nhằm cạnh tranh dễ dàng hơn với các siêu thị trong ngành đặc biệt là siêu thị Big C và hệ thống siêu thị Intimex.
2.1.3.2.2. Áp lực cạnh tranh từ khách hàng.
Khách hàng có sức ép khá mạnh tới các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực siêu thị và Công ty Siêu thị Hà Nội không là một ngoại lệ bởi các siêu thị mở ra chủ yếu là để phục vụ cho nhu cầu nhỏ lẻ, hàng ngày của người tiêu dùng. Ngày nay, có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này từ các doanh nghiệp tư nhân đến các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cung lớn hơn cầu khiến cho khách hàng có rất nhiều sự lựa chọn, hơn nữa việc cạnh tranh trong ngành chủ yếu dựa trên giá cả và phong cách phục vụ nên khách hàng rất dễ chuyển đổi địa điểm mua sắm của mình.
Hiện nay, 2 tập đoàn bán lẻ nước ngoài đang hoạt động mạnh ở Việt Nam là Metro Và Big C với nguồn tài chính dồi dào và khả năng phục vụ chuyên nghiệp đã và đang thu hút một lượng khách hàng lớn. Họ thường xuyên có những chương trình khuyến mãi, siêu khuyến mãi đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Mặc dù, cuộc sống đã có nhiều thay đổi thói quen mua sắm hiện đại cũng đang dần hình thành nhưng với truyền thống từ lâu đời của người Việt Nam nên vẫn còn một bộ phận dân cư giữ thói quen mua sắm tại các cửa hàng nhỏ và các chợ nhiều hơn là việc đến siêu thị.
2.1.3.2.3. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn.
Lĩnh vực bán lẻ là lĩnh vực mà các doanh nghiệp mới gia nhập ngành khá dễ dàng bởi:
Vốn cho việc kinh doanh lĩnh vực siêu thị không quá lớn so với các ngành khác nên khả năng gia nhập ngành của các đối thủ tiềm năng là rất lớn.
Khả năng tiếp cận những nhà cung cấp dễ dàng. Các nhà cung cấp lại rất khuyến khích việc mở rộng kênh phân phối, đặc biệt là qua hệ thống siêu thị nên có nhiều ưu đãi đối với những nhà phân phối mới gia nhập ngành.
Các chính sách của Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc thành lập doanh nghiệp mới kinh doanh trong lĩnh vực siêu thị và các hoạt động kinh doanh của nó nhất là khi Việt Nam sắp chính thức mở rộng cánh cửa bán lẻ cho các nhà đầu tư nước ngoài theo cam kết gia nhập WTO.
Sự khác biệt về sản phẩm không phải là nỗi lo đối với các doanh nghiệp này vì các nhà cung cấp sản phẩm là như nhau, đặc biệt sự trung thành của khách hàng là không lớn lắm.
Chi phí chuyển đổi của người mua không đáng kể. Khách hàng có thể dễ dàng chuyển đổi sở thích mua hàng ở siêu thị này sang siêu thị khác. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thu hút khách hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp mới gia nhập ngành có thể thu hút khách hàng mới bằng những chính sách giảm giá hay cung cách phục vụ mới,...
Lợi thế chi phí tuyệt đối nhờ sự áp dụng những phương tiện hỗ trợ hiện đại như việc sử dụng máy camera theo dõi để tiết kiệm lao động hay các biện pháp và kĩ thuật bảo quản hàng hoá hiện đại mà những thế hệ đi sau có được.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi thì những rào cản khi gia nhập ngành cũng không ít:
Để có hiệu quả kinh tế không thể không tính đến lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Liệu các doanh nghiệp mới gia nhập ngành có đủ khả năng có được quy mô d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh chuỗi hệ thống bán lẻ Hapro Mart trên địa bàn Thủ đô của Công ty Siêu thị Hà Nội.doc