MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Sự Cần Thiết Việc Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ 3
I. Khái niệm về hàng thủ công mỹ nghệ 3
1. Khái niệm 3
2. Các nhóm hàng thủ công mỹ nghệ 3
2.1 Đồ gỗ 3
2.2 Gốm sứ 3
2.3 Mây, tre, lá 4
2.4 Sơn mài 4
2.5 Hàng thêu 4
2.6 Hàng TCMN khác 5
II. Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong xuất khẩu Việt Nam 5
1. Đối với doanh nghiệp 5
2. Vai trò đối với nền kinh tế 6
3. Đối với xã hội 8
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. 8
1. Tình hình cung sản phẩm trên thị trường thế giới 8
2. Tình hình cầu sản phẩm trên thị trường thế giới 9
3. Doanh nghiệp và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam lên hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu 10
4. Cơ chế chính sách xuất khẩu của nhà nước đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ 10
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Sản xuất – Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex) 12
I. Khái quát chung về Công ty 12
1. Bộ máy tổ chức, tình hình kinh doanh của Công ty 12
1.1 Bộ máy tổ chức 12
1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 17
2. Đặc điểm của sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty 21
II. Thực trạng XK hàng TCMN trong những năm qua tại Haprosimex 23
1. Kế hoạch xuất khẩu hàng TCMN trong 2009- 2010 23
2. Kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Haprosimex trong giai đoạn 2004- 2008 24
3. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu hàng TCMN của Công ty 26
3.1 Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng 26
3.2 Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo thị trường 28
4. Giá cả mặt hàng xuất khẩu 29
III. Đánh giá kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty 30
1. Thuận lợi 30
2. Khó khăn 33
3 Hạn chế và nguyên nhân 36
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 42
I. Tình hình kinh tế quốc tế và trong nước. 42
1. Tình hình kinh tế quốc tế 42
2. Tình hình kinh tế trong nước 44
II. Dự báo xu thế xuất trong nước và sự ảnh hưởng của nó đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 45
III. Mục tiêu và phương hướng nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN 48
IV. Chính sách và biện pháp nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN 51
1. Một số chính sách nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN 51
1.1 Chính sách với các làng nghề 51
1.2 Chính sách với các Nghệ nhân 52
1.3 Chính sách với dạy nghề thợ thủ công 53
1.4 Chính sách hỗ trợ và xúc tiến thương mại 54
1.5 Chính sách đối với hàng TCMN xuất khẩu tại chỗ 54
1.6 Chính sách khuyến khích và ưu đãi trong việc sản xuất kinh doanh của vùng dân tộc miền núi. 55
2. Các biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng TCMN 56
2.1 Nhóm biện pháp thuộc về phía doanh nghiệp 56
2.2 Nhóm biện pháp về phía nhà nước 59
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tre, lá
1.136
18.26
1.176
17.86
1.829
16.24
3.315
17.02
2.317
17.96
Sơn mài
0.896
14.40
0.915
13.90
1.457
12.94
2.632
13.51
1.679
13.86
Thêu
1.028
16.52
1.120
17.01
1.564
13.86
2.685
13.79
1.626
12.60
TCMN khác
0.82
13.19
0.869
13.21
1.607
14.30
2.056
10.57
1.054
7.32
Tổng
6,221
100
6,583
100
11,261
100
19,472
100
12,902
100
Nguồn : Phòng xuất nhập khẩu Haprosimex)
Qua số liệu trên ta thấy, so với năm 2004 doanh thu xuất khẩu hàng Đồ gỗ tăng của công ty năm 2005 tăng 0.092 triệu USD, gốm sứ tăng 0.07 triệu USD , hàng mây, tre, lá giảm tăng 0.04 triệu USD, hàng sơn mài tăng 0.019 triệu USD),Thêu tăng 0.92 triệu USD.
- So với năm 2005, doanh thu xuất khẩu đồ gỗ của công ty năm 2006 tăng 1.025 triệu USD, hàng gốm sứ tăng 1.276 triệu USD, doanh thu xuất khẩu hàng mây, tre, lá tăng 0.653 triệu USD, hàng sơn mài tăng 0,542 triệu USD , thêu tăng 0.444 triệu USD, TCMN khác tăng 0.738 triệu USD .
- Năm 2007: Doanh thu xuất khẩu so với năm 2006 của đồ gỗ tăng 1.813 triệu USD, hàng gốm sứ tăng 2.167 triệu USD , hàng mây, tre, lá tăng 1.486 triệu USD, hàng sơn mài tăng 1.175 triệu USD, , thêu tăng 1.121 triệu USD, TCMN khác tăng 0.449 triệu USD .
.- Năm 2008: Doanh thu xuất khẩu so với năm 2007 của đồ gỗ giảm 2.075triệu USD, hàng gốm sứ giảm 2.056 triệu USD, hàng mây, tre, lá giảm 0.998 triệu USD, hàng sơn mài giảm 0.953 triệu USD, , thêu giảm 1.059 triệu USD, TCMN khác giảm 1.002 triệu USD .
Nhìn chung doanh thu từ xuất khẩu hàng thủ công của công ty tăng hàng năm.Đặc biệt là năm 2007 do điều kiện thuận lợi chung của nền kinh tế và Việt nam gia nhập WTO nên công ty đã có xuất khẩu tăng vọt.Nhưng sang năm 2008 do cuộc khung hoảng kinh tế toàn cầu và công ty cũng không tránh khỏi bị tác động nên kim ngạch xuât khẩu trong năm 2008 của công ty giảm so với 2007.
3.2 Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu theo thị trường
Bảng 8: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu hàng thủ công mỹnghệ của công ty vào từng thị trường
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Trị giá (USD)
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Trị giá (USD
Tỷ trọng (%)
Mỹ
1.941
31.20
1.967
29.88
3.362
29.85
6.037
31
3.962
30.71
Châu Á
1,602
25.75
1.723
26.17
2.805
24.90
5.106
26.22
3.050
23.64
EU
1.852
29.77
1,941
29.46
3.459
30.72
6.212
31.90
4.027
31.21
Trung Đông và thị trường khác
0.826
13.28
0.952
14.49
1.635
14.53
2.117
10.88
1.863
14.44
(Nguồn: Phòng tài chính, kế toán cung cấp)
Theo bảng số liệu trên ta thấy thị trường xuất khẩu chính của hàng TCMN là EU, Mỹ, Châu Á.Trong đó thị trường EU và Mỹ luôn chiếm khoảng 30%. Kim ngạch xuất khẩu sang 2 thị trường này chiếm khoảng hơn 60% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, còn thị trường Châu Á cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn với trên 20% , còn lại là thị trường Trung Đông và các thị trường khác.
Hiên nay công ty cũng đang tiến hành thâm nhập một số thị trường mới nổi ở Châu Á, Châu Mỹ, Phi...
4. Giá cả mặt hàng xuất khẩu
Ta đã biết giá cả chính là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá, nó là một yếu tố cấu thành thị trường, giá cả luôn biến đổi và thay đổi không ngừng do phải chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Khi sản xuất, kinh doanh thì việc xác định giá cả là việc làm hàng đầu vì nó sẽ tác động lớn nhất đến sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Điều này còn đặc biệt hơn trong hoạt động ngoại thương khi mà giá cả rất khó có thể xác định chính xác, bởi vì giá cả luôn thay đổi không ngừng mà các hợp đồng ngoại thương thì thường kéo dài thời gian hơn. Chính vì thế việc làm thế nào để không bị thua lỗ là vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải xác định rõ ràng, nếu không các doanh nghiệp sẽ khó có thể đứng vững trên thương trường.
- Một số nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế :
+ Nhân tố chu kì
+ Nhân tố cạnh tranh
+ Nhân tố lũng đoạn của các tập đoàn, các công ty siêu quốc gia
+ Nhân tố thời vụ, mùa
+ Nhân tố lạm phát
+ Các nhân tố về xung đột xã hội, thiên tai, bạo loạn, đình công vv… việc xác định giá cả sao cho hợp lí sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt rủi ro, an toàn và có lãi trong kinh doanh.
Riêng với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì giá cả lại phụ thuộc rất nhiều vào thẩm mỹ, thị hiếu của khách hàng. Đối với mặt hàng cụ thể như tranh sơn mài, bình phong, lọ lục bình, hàng chạm gỗ, thêu vv … thì giá cả của các mặt hàng này là khác nhau.
Nhìn chung trong những năm trở lại đây thì giá cả của mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang có xu hương giảm nhưng tốc độ giảm của nó chậm do sự cạnh tranh trên thị trường cảu mặt hàng này ngày càng gay gắt hơn.
III. Đánh giá kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
1. Thuận lợi
Hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước ta đã và đang chiếm một vai trò quan trọng trong số các mặt hàng xuất khẩu.Nó đang là một trong những mặt hàng được quan tâm xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế như một mặt hàng mũi nhọn của nước ta. Hàng thủ công mỹ nghệ nước ta hiện nay đang thuộc diện mười nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước.
Những thuận lợi trong việc sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn. Ta có thể thấy được qua các yếu tố sau:
- Thứ nhất: Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thì nguyên liệu được lấy chủ yếu ở trong nước, nhu cầu nhập nguyên liệu phụ cũng là tương đối thấp, trị giá của các nguyên vật liệu phụ nhập khẩu chiếm trong giá thành sản phẩm (nếu có) cũng chỉ chiếm khoảng3% là tối đa. Đây chính là yếu tố rất cơ bản vì có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm bán ra.
- Thứ hai: Việc các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì nhu cầu về vốn đầu tư nói chung là không lớn lắm so với việc sản xuất, kinh doanh các mặt hàng khác. Mặt khác, mặt bằng sản xuất còn có thể phân tán trong các gia đình, các hộ nông nhàn chứ nó không nhất thiết phải có cơ sở sản xuất tập trung như sản xuất các sản phẩm khác. Trong sản xuất thì một số khâu có thể sử dụng máy móc để thay thế cho lao động thủ công nhằm tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng có thể làm dần từng bước, không nhất thiết đòi hỏi cần phải giải quyết ngay trong một lần, vì vậy nó cũng sẽ tạo thuận lợi cho việc chuẩn bị về vốn. Chính trong điều kiện chung của các cơ sở sản xuất kinh doanh là có sự hạn chế về nguồn vốn thì đây có thể coi là một yếu tố giúp cho các làng nghề truyền thống có cơ hội phát triển .
- Thứ ba: Vì mặt hàng này chủ yếu làm thủ công nên có thể giải quyết nhiều lao động dôi dư mà trình độ không đòi hỏi phải quá cao. Số liệu thống kê và theo kinh nghiệm cho thấy nếu ta xuất khẩu được 1 triệu USD thì có thể thu hút thêm được khoảng 3500 - 4000 lao động chuyên nghiệp mỗi năm; còn nếu như là lao động nông nhàn theo thời vụ thì có thể thu hút gấp 3 đến 4 lần số lao động nói trên. Đây là một con số rất có ý nghĩa về mặt xã hội, nên nó rất được sự quan tâm và hỗ trợ của Đảng và Nhà nước. Nếu như kim ngạch xuất khẩu hàng năm không ngừng được tăng lên thì càng có ý nghĩa trong việc tạo được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và cải thiện được đời sống của người dân.
- Thứ tư: Hiện nay và trong tương lai khi thu nhập, đời sống của con người không ngừng được tăng lên thì nhu cầu tiêu dùng về mặt hàng này cũng ngày càng tăng lên, vì bên trong giá trị sử dụng của mặt hàng này là một yếu tố rất quan trọng đó chính là giá trị nghệ thuật được xuất phát từ đặc tính thủ công của nó. Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên thì họ thường không còn quan tâm tới giá cả của mặt hàng lắm mà điều họ muốn đó là về mặt nghệ thuật của mặt hàng đó. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng mà các nhà sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nên quan tâm đến nhiều hơn.
- Thứ năm: Hàng thủ công mỹ nghệ với ưu thế chính của ngành nghề truyền thống đã được nhà nước đưa vào vào loại ngành nghề được ưu đãi về đầu tư. Vì vậy đây có thể coi là yếu tố tạo khá nhiều thuận lợi cho người sản xuất và kinh doanh hàng TCMN. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý lớn nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì những tác động của hoạt động điều tiết mà nhà nước đưa ra là rất lớn , nó có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Kết quả đạt được
Trong những năm vừa qua, công ty Haprosimex luôn chú trọng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế, trong đó có xuất khẩu hàng TCMN. Đây là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chính của công ty bên cạnh hàng may mặc, hàng nông sản và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
- Haprosimex đã tạo lập được uy tín, thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế và là địa chỉ vàng đáng tin cậy của bạn hàng trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đội ngũ ban lãnh đạo công ty cũng là những người rất nhạy bén trong công việc cho nên khi thâm nhập vào thị trường họ đã nhanh chóng tìm ra được các sản phẩm phù hợp với nhiều khách hàng như từ các sản phẩm thông dụng hàng ngày đến các sản phẩm cao cấp, có giá trị nghệ thuật cao. Chính vì vậy mà các sản phẩm thủ công truyền thống của Việt Nam nhanh chóng được nhiều khách hàng trên thị trường quốc tế biết đến .
- Các sản phẩm của Haprosimex cũng không ngừng được nâng cao, cải tiến về mẫu mã và chất lượng sản phẩm như :
Các sản phẩm TCMN của Haprosimex có độ tinh xảo cao. Ngoài ra các sản phẩm được làm từ những nguyên liệu đơn giản, phủ hợp và thân thiện với môi trường nên rất được bạn hàng quốc tế ưa chuộng và tin dùng. Mặc dù các sản phẩm của công ty không cầu kỳ như các sản phẩm của các công ty đến từ Trung Quốc nhưng sự mới mẻ của Haprosimex luôn mang đến những nét đặc trưng của dân tộc, cũng như tạo ấn tượng tốt cho bạn hàng quốc tế.
- Ngoài nguồn vốn điều lệ, Haprosimex đã biết tìm cách huy động các nguồn vốn khác trong kinh doanh, cộng thêm cơ sở vật chất, từ đó tạo thêm sự uy tín và đảm bảo cho công ty trong việc sản xuất và xuất khẩu.
* Một số thành tựu về thị trường xuất khẩu hàng TCMN mà Haprosimex đã đạt được trong những năm qua :
- Thị trường tiêu thụ mặt hàng này của Haprosimex cũng ngày càng được mở rộng, các sản phẩm TCMN của công ty đã thâm nhập được vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhât, Đài Loan vv….
- Haprosimex cũng đã tiến hành mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu. Từ việc đa dạng hoá các sản phẩm theo yêu cầu của từng khách hàng cụ thể, từng hợp đồng, mà khả năng chỉ đạo sản xuất gia công, quản lý chất lượng sản phẩm của công ty không ngừng được nâng lên. Đa dạng hoá các sản phẩm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc tiếp xúc trực tiếp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, của bạn hàng. Từ đó tìm được bạn hàng lâu dài, tạo tiền đề cho việc ổn định sản xuất và kinh doanh trong tương lai.
- Khối lượng xuất khẩu sản phẩm của công ty nói chung và hàng TCMN nói riêng đang ngày một tăng, điều này đã được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Haprosimex.
- Hiện nay, Haprosimex với tiềm năng sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức cũng như phương thức tổ chức quản lý thì có thể đánh gíá Haprosimex là một đơn vị sản xuất kinh doanh mạnh, có đủ khả năng tiếp cận với phương thức sản xuất mới, từ đó tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đủ sức cạnh tranh trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì việc sản xuất kinh doanh hàng TCMN của Haprosimex cũng gặp rất nhiều khó khăn.Cụ thể là :
- Thứ nhất: Đó là việc tiếp cận được các nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính, hàng rào về thủ tục vay vốn và những yêu cầu về thế chấp tài sản của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng là điều mà các đơn vị sản xuất kinh doanh của công ty rất khó có thể tiếp cận được. Vì thế đây là một khó khăn lớn cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của công ty.
- Thứ hai: Một khó khăn khác đó là về mặt bằng cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở hiện còn thấp kém, hệ thống đường giao thông, bến bãi, kho cảng, đường điện vv… vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh của công ty.
- Thứ ba :Thị trường tiêu thụ của Haprosimex còn gặp rất nhiều khó khăn. Những năm qua mặc dù nhu cầu mặt hàng này có gia tăng nhưng để nắm bắt được thị hiếu của từng thị trường tiêu thụ, tiếp cận thị trường mới, tìm được đối tác kinh doanh, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng lâu dài và ổn định, thì lại là việc hết sức phức tạp và khó khăn. Cho nên, để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẳm thì khâu xúc tiến thương mại là khâu rất quan trọng, tuy nhiên chi phí cho hoạt động này là tương đối tốn kém mà người sản xuất kinh doanh nếu không có được sự hỗ trợ của nhà nước thì thường không thể tự mình làm được. Còn với các doanh nghiệp kinh doanh, nhằm đảm bảo thành công trong việc xúc tiến các hoạt động xuất khẩu thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tác và các cơ quan, các cơ quan của chính phủ có liên quan .Tuy nhiên đây là một việc làm hết sức khó khăn trong tình hình kinh tế như hiện nay.
- Thứ tư : Chính vì đặc điểm của sản xuất hàng TMCN là phải sử dụng các chất đốt rắn, có rất nhiều chất thải độc. Vì vậy việc xử lý chất thải không tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hơn. Đối với các làng nghề và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ thì đây là gánh nặng mà khả năng xử lý của họ là rất thấp do điều kiện về tài chính và điều này sẽ làm ảnh hưởng rất lớn chất lượng cuộc sống của người dân xung quanh.
- Thứ năm: Đó là công việc tổ chức, khai thác và cung ứng nguồn nguyên vật liệu chưa được tốt.
Đối với các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ mà muốn có nguồn nguyên liệu thường phải mua lại từ nhiều nguồn khác nhau, mà chủ yếu là cung ứng gián tiếp, thậm chí là bất hợp pháp nên phải mua với giá cao từ đó làm tăng chi phí sản xuất. Và giá thành, sản phẩm thường không có hoá đơn giá trị gia tăng để được hoàn thuế khi xuất khẩu. Bên cạnh đó còn phải kể đến khó khăn về thủ tục hành chính trong tất cả các khâu từ sản xuất cho đến lưu thông: Giao nhận, vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá còn nhiều phiền hà, gây tốn kém về thời gian và chi phí đối với người sản xuất kinh doanh. Đối với công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội thì hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đều được thu gom, mua lại từ các cơ sở sản xuất, của các tư nhân trong nước. Chính vì thế mà những khó khăn và thuận lợi của công ty trong kinh doanh mặt hàng này cũng xuất phát từ những thuận lợi, khó khăn của người sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nói chung.
Hiện nay, một trong những vấn đề hàng đầu mà công ty đang quan tâm đó là đẩy nhanh tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh tiêu thụ. Bởi vì trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường là rất quan trọng. Hiện mặt hàng TCMN của Việt nam đã có mặt ở khoảng 163 nước trên thế giới, chủ yếu là thị trường châu Âu, Mỹ và một số thị trường châu Á như Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc, Singapore, v.v... và một số nước trung đông, Châu Phi. Mặc dù vậy ta vẫn chưa xuất khẩu được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn, chính vì thế khả năng mở rộng thị trường mới và tranh thủ các cơ hội và khai thác sâu vào các thị trường đã có nhất là với các thị trường có nhu cầu lớn và lâu dài là khả năng hiện thực và cần phải phấn đấu khai thác thật tốt trong những năm tiếp theo.
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc thâm nhập các sản phẩm gỗ, gốm sứ, mây tre lá, hàng thêu. Còn với thị trường Nhật được coi là thị trường lớn cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mặt hàng được ưa chuộng nhiều nhất là mặt hàng về đồ gỗ, mây tre vv…. Theo như số liệu thống kê của Nhật Bản thì hàng năm nước ta đã xuất sang nhật khoảng 80 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ,mây tre đan, Nhật Bản cũng được coi là một thị trường nhập khẩu hàng gốm sứ lớn, tuy nhiên hiện mỗi năm nước ta chỉ khai thác được khoảng 5-6 triệu USD. Muôn xâm nhập được vào thị trường này thì việc nắm bắt các thông tin và kiến thức xúc tiến thương mại là rất quan trọng.Từ đó có phương thức và các kênh bán hàng phù hợp với thị trường nước bạn. Bên cạnh đó ta cũng phải phải tính đến các thị trường truyền thống như Nga, các nước SNG, Đông ÂU, Bắc Mỹ và một số thị trường mới nổi như Đài loan, Hàn quốc, Hồng kông, Trung đông và một số nước Châu Phi.
Là một công ty lớn của miền bắc, haprosimex xuất khẩu nhiều loại hàng, có mối quan hệ làm ăn với hơn 60 nước trên thế giới. Điều này tạo khá nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thị trường chính nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty là các nước Eu, Mỹ, Nhật bản, Đài loan, Singapore , vv…..
Nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Haprosimex đã từng bước nâng cao chất lượng về quản trị mua hàng và tiêu thụ sản phẩm.
3 Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được ở trên, công tác xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Haprosimex vẫn còn bộc lộ khá nhiều hạn chế và cần khắc phục trong thời gian tới:
- Về kiểu dáng và mẫu mã
Hàng TCMN là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của công ty. Doanh thu của hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong tổng số doanh thu xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn rất nhiều hạn chế mà hạn chế đầu tiên phải kể đến đó là về kiểu dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm.
Mới đây trong một cuộc khảo sát của Phòng kế hoạch thị trường cho thấy, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty còn rất yếu ở hai khâu đó là về thông tin thị trường và kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm. Qua khảo sát đã cho thấy, khi mà thị trường nhất là ở thị trường các nước phát triển ngày càng trở nên bão hoà với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì sản phẩm có giá rẻ, mẫu mã đơn điệu thì chưa đủ để thoả mãn nhu cầu khách hàng, chưa tạo ra được sức cạnh tranh mà cái mà khách hàng các nước này cần đó là sản phẩm phải mang tính độc đáo, kiểu dáng đẹp.
Trong xu thế hiện nay việc thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân công ty thường đề cao tính nghệ thuật, độc đáo, ý nghĩa văn hoá của sản phẩm được làm ra. Các thiết kế sản phẩm mang tính “ độc nhất và của riêng mình", luôn được đề cao trong khi đó khả năng ứng dụng và tính thương mại của sản phẩm lại chưa được chú ý đến nhiều .
Các sản phẩm hàng TMCN thường được làm bằng tay đã tạo ra các sản phẩm bản gốc có tính độc đáo, tinh xảo cho công ty nhưng cũng vì thế mà giá quá cao không hợp túi tiền người nông dân trong nước, làm giảm sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Mẫu mã sản phẩm, thiết kế thì còn đơn điệu, mang tinh copy nhiều hơn.
-Nguyên liệu
Cũng như đa số các ngành khác trong nền kinh tế, Hiện nay Haprosimex vẫn còn bị hạn chế về đầu vào sản phẩm , đó chính là nguyên vật liệu đầu vào để làm ra sản phẩm
Riêng đối với nguồn nguyên liệu mây hiện có, thì từ khi trồng đến khi thu hoạch phải mất khoảng sau 5 – 10 năm thì mới thu hoạch được vì vậy nguyên liệu mây vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho sản xuất.
Ngoài mây ra thì nguyên liệu tơ tằm cũng đang là thiếu rất nhiều. Hiện nay nguyên liệu tơ mà các ngành nghề sử dụng thuộc diện quản lý của công ty mới chỉ ở cấp B, C mà vẫn chưa đạt đến cấp A, với tình hình nguyên liệu như vậy thì các sản phẩm của công ty rất khó cạnh tranh. Ngoài ra hàng năm công ty còn nhập rất nhiều nguyên liệu tơ từ các nước láng giềng.
Hiện nay đang có sự khan hiếm trầm trọng với những cánh rừng đang bị lâm tặc chặt phá. Thêm nữa là từ lúc trồng đến lúc khai thác gỗ phải mất hàng chục năm nên việc đảm bảo nguyên liệu gỗ cho mặt hàng này gặp rất nhiều khó khăn.
- Về chất lượng sản phẩm
Khả năng đầu tư của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn chưa cao, máy móc, trang thiết bị của công ty vẫn chưa đáp ứng được so với các doanh nghiệp khác và với các công ty Trung Quốc cho nên các sản phẩm của công ty vẫn còn thấp về chất lượng sản phẩm.
- Về công tác xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu thì còn yếu kém ở nhiều khâu đặc biệt là khâu nghiên cứu thị trường, tiếp cận thị trường, chưa thực sự nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khác hàng.Từ đó làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
- Chưa tận dụng được hết tiềm năng
Trước kia kiểu làm trước rồi tìm khách hàng và thị trường sau đến nay không còn phù hợp nữa và tính hiệu quả thì cũng không cao. Tại vì nhu cầu của khách hàng thay đổi rất nhanh và ở mỗi thị trường khác nhau thì lại có một thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Nếu như một công ty cứ làm ra sản phẩm mà không tìm được khách hàng thì đó sẽ là một sự lãng phí tiền của, công sức và thời gian rất lớn. Có khi nếu công ty tìm hiểu thị hiếu và thị trường tiêu dùng rồi mà lại không chịu thường xuyên cập nhập thông tin thì rất có thể khi sản phẩm đầu tiên của công ty ra đời thì nó đã trở nên lạc hậu, không còn phổ biến nữa. Vì vậy muốn phát triển mạnh thực sự thì khâu điều tra thị trường mà trong đó marketing cần phải đầu tư hơn nữa chứ không thể thụ động như hiện nay công ty đang làm.Chỉ có như vậy thì công ty mới có thê tận dụng được các tiềm năng sẵn có.
Nhìn chung tỷ trọng mà công ty chiếm lĩnh hiện nay vẫn chưa phản ánh hết được năng lực của công ty. Sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của công ty không ngừng tăng lên. Mặc dù vậy bất kỳ hoạt động nào cũng có tính hai mặt của nó, bên cạnh những thế mạnh cần phát huy thì công ty cũng còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
* Sau đây là một số mặt chưa hợp lý:
- Công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường của Haprosimex thực hiện chưa tốt bởi vì công tác nghiên cứu thị trường chưa có được sự thống nhất đồng bộ, chưa phát huy được thế mạnh của nó cho hoạt động tiêu thụ cho nên thông tin về thị trường còn thiếu chính xác. Ngoài ra đội ngũ nghiên cứu chưa nhiều, tất cả còn tập trung ở phòng kinh doanh, trình độ nhân viên chưa đồng đều, khả năng chuyên môn hoá của họ cũng chưa cao. Các hoạt động điều tra còn mang tính thụ động, yếu kém, chưa được đầu tư đúng mức nên các thông tin thương mại đến với công ty còn ít và thiếu kịp thời và đôi khi là thiếu chính xác.
- Chất lượng quản trị mua hàng vẫn chưa được nâng cao cho nên vẫn còn tồn tại những đơn hàng có chất lượng chưa cao, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Công ty vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối và kỹ thuật.
- Các văn phòng đại diện thương mại của công ty ở nước ngoài không nhiều nên việc tiếp cận các thông tin thương mại còn nhiều hạn chế, chính điều này làm giảm khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của Haprosimex.
- Những hoạt động như hỗ trợ, xúc tiến bán hàng vẫn chưa được phát huy tác dụng .
Nguyên nhân
Những tồn tại nêu ở trên chịu ảnh hưởng không ít bởi các nguyên nhân, trong đó bao gồm một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Thứ nhất đó là do sự xuất hiện ngày càng nhiều các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay cùng với nhiều khu vực mậu dịch tự do thì các quôc gia trên thế giới đều có xu hướng mở cửa nhằm hướng ra thị trường nước ngoài do đó khối lượng hàng hoá đang lưu thông trên thị trường ngày một tăng lên. Ngoài ra các cơ chế,chính sách sản xuất kinh doanh của công ty mới được đổi mới trong những năm gần đây nên chưa thể thích ứng kịp với tốc độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế như hiện nay.
- Thứ hai là do hàng thủ công mỹ nghệ đang ngày càng có ưu thế rất lớn. Vì vậy mà ngày càng nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia xuất khẩu mặt hàng này. Những cơ sở sản xuất có quy mô không lớn băng công ty nhưng sản phẩm của họ lại đa dạng, giá rẻ hơn của công ty. Ngoài ra họ cũng có những phương thức giao dịch thanh toán, vận chuyển khá linh hoạt nên các cơ sở này cũng thu hút được khá nhiều khách hàng ngoài nước.
- Thứ ba là thị trường tiêu thụ của Haprosimex là ở nước ngoài nên công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường hiện gặp rất nhiều khó khăn vì chi phí cho hoạt động xúc tiến thương mại là rất lớn, cho nên nếu không có được sự trợ giúp của cơ quan có chức năng thì bản thân công ty cũng rất khó có thể làm tốt được công tác này.
- Thứ tư là chi phí cho hoạt động như thu gom, gia công chế biến và đây là bộ phận gián tiếp làm tăng giá thành sản phẩm và giá bán cao nên sức cạnh tranh trên thị trường của công ty là không cao.
- Thứ năm là vì hàng thủ công mỹ nghệ của Haprosimex phần lớn là được thu gom từ các cơ sở sản xuất, hộ nông nhàn, từ tư nhân nên việc quản lý chất lượng cũng gặp không ít khó khăn, bởi vì người sản xuất thường chạy theo lợi nhuận mà dễ bỏ qua các yếu tố về chất lượng sản phẩm, từ đó không đáp ứng được nhu cầu thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Thứ sáu là vì các hoạt động xúc tiến bán hàng chưa phát huy hết hiệu quả trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra còn do đội ngũ nhân viên làm công tác tiêu thụ sản phẩm và mặc dù đã có nhiều cố gắng song do năng lực có hạn và còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên hiệu quả của công việc vẫn chưa đạt được kết quả cao.
Những phần trên chính là một số nguyên nhân cơ bản, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Haprosimex trong những năm qua. Bên cạnh đó thì việc duy trì và mở rộng thị trường
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21941.doc