MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA KBNN TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TPCP. 4
1.1.Sự cần thiết phải huy động vốn thông qua phát hành TPCP. 4
1.1.1. Khái niệm vốn NSNN. 4
1.1.2. Sự cần thiết của công tác huy động vốn thông qua phát hành TPCP. 5
1.1.3. Vai trò của công tác huy động vốn vào NSNN. 6
1.2. Vai trò nhiệm vụ của KBNN trong công tác huy động vốn. 7
1.2.1. Vai trò của Kho bạc Nhà nước trong công tác huy động vốn. 7
1.2.2. Nhiệm vụ của Kho bạc Nhà nước trong công tác huy động vốn. 8
1.3. Các phương thức phát hành và thanh toán TPCP. 8
1.3.1. Các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ. 8
1.3.1.1. Các loại trái phiếu Chính phủ. 8
1.3.1.2. Phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ. 9
1.3.2. Thanh toán trái phiếu Chính phủ. 12
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TPCP TẠI KHO BẠC NHÀ NƯỚC LƯƠNG SƠN TRONG THỜI GIAN QUA. 16
2.1- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Lương Sơn. 16
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của KBNN huyện Lương Sơn. 16
2.1.2. Tổ chức bộ máy của KBNN Lương Sơn. 17
2.2. Công tác tổ chức và quản lý huy động vốn. 18
Trang
2.3. Thực trạng phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ tại KBNN
Lương Sơn trong thời gian qua. 19
2.4. Đánh giá công tác huy động vốn tại KBNN Lương Sơn trong
thời gian qua. 27
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ TẠI KHO BẠC NHÀ NƯỚC LƯƠNG SƠN TRONG THỜI GIANTỚI. 34
3.1. Định hướng phát triển của Kho bạc Nhà nước Lương Sơn trong
thời gian tới. 34
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới ở Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn. 35
3.2.1. Xác định đúng đắn về đối tượng mua trái phiếu Chính phủ. 36
3.2.2. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền trên địa bàn huyện. 36
3.2.3. Tiếp tục tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. 37
3.3 Kiến nghị đối với Kho bạc Nhà nước nói chung. 37
KẾT LUẬN. 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 47
.
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại Kho bạc nhà nước huyện Lương Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc. Số cán bộ còn lại đều có trình độ Cao đẳng và Trung cấp.
* Tổ chức bộ máy bao gồm:
1. Giám đốc: Giám đốc có quyền hạn cao nhất và phân công quản lý điều hành chung.
2. Phó Giám đốc: Giúp việc cho Giám đốc trong công tác quản lý ngân sách Nhà nước.
3. Tổ kế hoạch - Thanh toán vốn đầu tư gồm 2 người.
4. Tổ kế toán gồm 5 người
5. Tổ kho quỹ gồm 2 người
5. Tổ hành chính - bảo vệ gồm 3 người
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
Giám Đốc
Phó
Giám Đốc
Tổ
Bảo vệ
Tổ
Kho quỹ
Tổ
K/Hoach TTVĐT
Tổ
Kế toán
2.2. Công tác tổ chức và quản lý huy động vốn
* Bộ máy thực hiện:
Trong quá trình huy động vốn, mỗi bộ phận thực hiện một nhiệm vụ riêng biệt và kết hợp chặt chẽ với nhau hoàn chỉnh một chu trình phát hành hay thanh toán TPCP.
Giám đốc KBNN điều hành chung mọi hoạt động của đơn vị, trực tiếp chỉ đạo công tác kế toán và phát hành và thanh toán TPCP: bố chí cán bộ, phương tiện, quán triệt các quyết định của Chính phủ, các công văn, thông tư về phát hành và thanh toán TPCP.
Phòng kế toán là bộ phận trực tiếp phát hành TPCP, hạch toán vay dân, điều tiết cho NSTW, kê bảng kê phát hành TPCP theo từng loại mệnh giá và sêri. Trực tiếp tiến hành thanh toán TPCP theo từng loại kì hạn và lãi suất tương ứng đồng thời lưu giữ chứng từ theo đúng quy định.
Phòng kho quỹ: trực tiếp thực hiện thu tiền bán trái phiếu, kiểm tra đúng số tiền, niêm phong tiền và cất tiền vào kho, thực hiện chi trả trái phiếu chính xác, đồng thời quản lý trái phiếu trắng nhận từ Trung ương về và phân phối cho các đơn vị liên quan, làm báo cáo ấn chỉ nhập xuất kho theo từng đợt phát hành.
Phòng Kế hoạch - tổng hợp, tổng hợp số liệu báo cáo lãnh đạo và báo cáo về KBNN TW. Tổng hợp tình hình phát hành và thanh toán TPCP một cách chung nhất.
2.3. Thực trạng phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ tại KBNN Lương Sơn trong thời gian qua.
Huy động vốn là một chính sách tài chính có rất nhiều ưu điểm, được Nhà nước ta sử dụng phổ biến và khá liên tục trong thời gian qua. Nó vừa huy động được nguồn vốn nội lực trong dân, vừa “đánh tan” những đồng tiền “ đóng băng” trong nền kinh tế, vừa tăng nguồn lực tài chính cho NSNN và thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, mặc dù mới trải qua 15 năm hoạt động, xong KBNN huyện Lương Sơn đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế của huyện Lương Sơn nói riêng. Đặc biệt là trong công tác huy động vốn, đã huy động được một lượng vốn không nhỏ thông qua phát hành TPCP góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và đầu tư phát triển kinh tế, cụ thể là trong 13 năm qua KBNN huyện Lương Sơn đã huy động được với tổng doanh số là 27,9602 tỉ đồng. Song song với công tác phát hành trái phiếu, KBNN huyện Lương Sơn cũng tổ chức tốt công tác chuẩn bị nguồn vốn, tiền mặt để thanh toán các loại trái phiếu cho người mua khi đến kì hạn thanh toán. Ngay từ những năm đầu mới đi vào hoạt động, KBNN huyện Lương Sơn đã làm tốt công tác huy động vốn, hoàn thành nhiệm vụ được giao cụ thể:
Thực hiện các Quyết định và Thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính cũng như của Kho bạc Nhà nước trung ương. Nhận thức được tầm quan trong của công tác huy động vốn bằng thức thức phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống KBNN, nhất là sau khi Chính phủ đã ra nghị định số 01/2000/ NĐ- CP về quy chế phát hành TPCP. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày kí để thay thế nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 của Bộ tài chính về quy chế phát hành và từng bước khẳng định vài trò của trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán, cũng như thể hiện rõ vai trò là công cụ quan trọng điều hành vĩ mô về chính sách tiền tệ. Ban lãnh đạo Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn đã tổ chức cho cán bộ công chức học tập, nghiên cứu các văn bản chế độ kỹ lưỡng, chuẩn bị tốt công tác phát hành như: bố trí các bàn bán trái phiếu, con người máy móc thiết bị... đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền cho nhân dân về lợi ích việc đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, mặt khác có kế hoạch chuẩn bị đầy đủ vốn đáp ứng nhu cầu thanh toán trái phiếu của khách hàng, tạo sự yên tâm cho người đầu tư trái phiếu Chính phủ.
Do có sự quan tâm và đầu tư kịp thời về các mặt nghiệp vụ, cũng như về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phát hành và thanh toán trái phiếu của hệ thống Kho bạc Nhà nước nói chung và KBNN huyện Lương Sơn nói riêng trong 15 năm qua, công tác huy động vốn đã đạt được một số kết quả nhất định thể hiện qua doanh số huy động qua các năm như sau:
Bảng 1: Kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ
Đơn vị: tỉ đồng
Loại
Năm
Trái phiếu Chính phủ
Số phát hành
Số thanh toán
1992
0,1453
0
1993
1,0659
0,8882
1994
1,8895
2,5678
1995
2,6001
2,0122
1996
1,1466
1,7377
1997
2,0575
0,5264
1998
2,2060
0,6847
1999
2,4903
1,4728
2000
3,7694
2,2674
2001
1,7280
3,0523
2002
2,6744
4,0084
2003
2,4128
1,8475
2004
3,7744
2,2541
Tổng cộng
27,9602
23,3195
(Nguồn số liệu: Báo cáo thống kê của KBNN Lương Sơn )
Bảng 2: Lãi suất thay đổi từng thời kỳ qua các năm
Năm phát hành
Trái phiếu
Thời hạn
Lần 1
lần 2
Lần 3
1992
6 tháng
1993
6 tháng, 1năm
1994
06 tháng
1995
21%/năm
1 năm
1996
12%/năm
2 năm
1997
14%/năm
12%/năm
2 năm
1998
13%/năm
14%/năm
13%/n
2năm
1999
13/%năm
2năm
2000
7%/năm
6,4%/năm
2năm
2001
6,8%/năm
7%/năm
2năm
2002
7,1%/năm
7,4%/năm
7,8%/năm
2năm
2003
8,2%/năm
8,4%/năm
2năm
2004
8,2%/năm
8,5%/năm
5 năm
(Nguồn số liệu: Báo cáo thống kê của KBNN Lương Sơn )
Qua doanh số huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ và sự thay đổi lãi suất qua các năm ta có thể thấy rằng trong những năm đầu do người dân mới tiếp xúc với trái phiếu Chính phủ cho nên còn e dè ngại đầu tư vì mới xuất hiện và lo ngại đồng tiền trượt giá như những năm trước. Nhưng với công tác tuyên truyền cũng như lãi suất hấp dẫn của trái phiếu đã tạo được lòng tin của người dân đối với trái phiếu Chính phủ.
Cũng chính sự tạo được lòng tin với người muốn đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Đây là một thành công lớn của ngành tài chính nói chung và hệ thống Kho bạc Nhà nước nói riêng. Vì qua công tác phát hành trái phiếu đã huy động được một khối lượng vốn nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ cũng như góp phần vào công tác điều hành vĩ mô chính sách tiền tệ của quốc gia.
Do thời gian viết Chuyên đề cuối khoá có hạn cũng như nghiên cứu còn hạn chế nên không thể phân tích tổng hợp cả quá trình huy động vốn bằng hình thức phát trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Do vậy trong đề tài này tôi chủ yếu đi sâu phân tích công tác phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời điểm từ 2002 đến 2004 nhằm nêu lên những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế của công tác phát hành trái phiếu tại Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn.
Để phát huy những thành tích đã đạt được trong những năm trước trong công tác huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ để góp góp phần bù đắp các khoản thiếu hụt do bội chi ngân sách Nhà nước cũng như ổn định thị trường tiền tệ và chống làm phát. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2004, Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn đã đạt được một số kết quả như sau:
Năm 2002:
Thực hiện quyết định số 03/2002/QĐ-BTC ngày 15/01/2002 về việc phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 02 năm lãi suất 7,1%/năm và Quyết định số 41/2002/QĐ-BTC ngày 08/04/2002 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc phát hành trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn 2 năm, lãi suất 7,4%/năm.
Được sự chỉ đạo sát xao của KBNN tỉnh Hoà Bình, Ban giám đốc KBNN huyện Lương Sơn và cố gắng của toàn thể cán bộ công chức Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn trong công tác phát hành trái phiếu để có thể đạt được kết quả cao trong công tác huy động vốn cho NSNN, kết quả trong năm 2002 Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn đã huy động được 2,6744 tỉ đồng và thanh toán chi trả trái phiếu đến hạn thanh toán cho khách hàng 4,0084 tỉ đồng. Số lượng vốn huy động và lãi suất từng thời điểm trong năm cụ thể như sau:
Bảng 3: Kết quả huy động vốn và lãi suất trong năm 2002
Đơn vị : tỉ đồng; lãi suất %/năm
Loại trái Phiếu
Lãi suất
Tổng số tiền
Kỳ hạn 2 năm
7.1%
2,67444
(Nguồn số liệu: Theo báo cáo thống kê của KBNN Lương Sơn)
Vậy ta có thể thấy rằng lãi suất là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả huy động vốn, được thể hiện trong năm 2002 với lãi suất 7,1%/năm số vốn huy động được trong năm là 2,6744 tỉ đồng; so với năm 2001 tăng 0,55%. Vì khi lãi suất năm 2001 tăng từ 6,8% - 7,0%/năm lên 7,1%/năm, người đầu tư thấy có lời lên đầu tư nhiều để kiếm lợi nhuận cao. Mặt khác trong năm 2002 lãi suất 7,1%/năm và tăng tiếp trong thời gian sau, trong khi cơ chế lãi suất của các Ngân hàng thương mại, phương thức thanh toán và công tác tiếp thị khách hàng đa dạng hơn, cho nên khách hàng chuyển sang đầu tư gửi tiết kiệm, kỳ phiếu nhiều hơn. Do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ, làm tổng doanh số vốn huy động được tăng lên đáng kể.
Năm 2003:
Trong năm 2003 thực hiện theo Chỉ thị số 07-2003/CT-TTg ngày 03/04/2003 về việc phát hành Công trái giáo dục nhằm huy động nguồn vốn hỗ trợ các huyện miền núi, tây nguyên và các huyện có nhiều khó khăn để thực hiện mục tiêu không còn phòng học 3 ca, không còn phòng học tranh tre, nứa lá, kiên cố hoá trường học và Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 24/09/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt nam. Về vận động toàn dân tham gia mua trái phiếu Chính phủ để xây dựng một số công trình giao thông thuỷ lợi quan trong của đất nước và vừa phát hành trái phiếu Kho bạc loại kỳ hạn 2 năm. Với việc tăng lãi suất liên tục kể từ năm 2002 của các loại trái phiếu làm cho người đầu tư vào thị trường trái phiếu tăng lên, do đó vốn huy động được cũng tăng lên đáng kể.
Bảng 4: Kết quả huy động vốn và lãi suất trong năm 2003
Đơn vị : tỉ đồng, lãi suất%/năm
Đợt phát hành
Loại trái phiếu
Đợt 1
Đợt 2
Lãi suất
Số vốn huy động được
Lãi suất
Số vốn huy động được
Trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm
8,4%
1,164
Công trái giáo dục
8,2%
0,8615
Trái phiếu Chính phủ
8,4%
0,3873
Tổng số vốn huy động được
0,8615
1,5513
(Nguồn số liệu báo cáo thống kê của Kho bạc Nhà nước Lương Sơn)
Năm 2004
Thực hiện quyết định số 212/2004/QĐ-BTC ngày 15/01/2004 về việc phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 02 năm lãi suất 8,2%/năm và Quyết định số 28/2004/QĐ-BTC ngày 23/03/2004 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc phát hành trái phiếu đợt 2 để đầu tư giao thông thuỷ lợi. Số lượng trái phiếu phát hành trong năm nay đạt 3,7744 tỉ đồng.Trong đó với việc phát hành TPCP của Nhà nước kỳ hạn 5 năm với mức lãi suất là 8,5% cũng đã thu hút được 1,457 tỉ đồng
Bảng 5: Kết quả huy động vốn và lãi suất trong năm 2004
Đơn vị : tỉ đồng, lãi suất: %/năm
Đợt phát hành
Loại trái phiếu
Đợt 1
Đợt 2
Lãi suất
Số vốn huy động được
Lãi suất
Số vốn huy động được
Trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm
8,2%
2,3173
Trái phiếu Chính phủ
8,5%
1,457
(Nguồn số liệu báo cáo thống kê của Kho bạc Nhà nước Lương Sơn)
Kết quả đạt được trong năm 2004 có thể nói là rất thành công. Số lượng vốn huy động được thông qua phát hành trái phiếu là rất lớn. So với năm 2001 tăng 118%, so với năm 2002 tăng 41% và tăng 56% so với năm 2003. Sở dĩ trong năm 2003 đạt thấp hơn so với năm 2002 là do trên thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng tới sự phát triển của nước ta cũng như thu nhập của người dân mặt khác các Ngân hàng thương mại mở rộng các hình thức huy động vốn hấp dẫn hơn về lãi suất, kỳ hạn, phương thức thanh toán... cho nên người dân quay sang gửi tiền tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại nhiều hơn.
Có thể nói công tác huy động vốn của Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn trong13 năm qua đã không ngừng được nâng cao cả về chất lượng và số lượng được thể hiện qua kết quả công tác huy động vốn của từng năm. Sở dĩ đạt được những kết quả nhất định như trên là do có chỉ đạo sát sao của Kho bạc Nhà nước Trung ương cũng như đầu tư cơ sở vật chất hiện đại phục cho công tác nghiệp vụ, Ban giám đốc Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn.
2.4. Đánh giá công tác huy động vốn tại KBNN Lương Sơn trong thời gian qua.
Mặc dù tuổi đời còn non trẻ, song KBNN huyện Lương Sơn đã từng bước khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và nền kinh tế huyện Lương Sơn nói riêng. Trong nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, TPCP được coi là công cụ huy động vốn có hiệu quả, đã đáp ứng tương đối kịp thời các nhu cầu chi của NSNN cho đầu tư phát triển.
* Về công tác phát hành TPCP
- Kết quả đạt được:
Công tác huy động vốn thông qua phát hành TPCP là một chính sách hoàn toàn đúng đắn. Thông qua phát hành, Nhà nước có thể tập trung một lượng vốn nhàn rỗi đang nằm rải rác trong dân chúng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời tăng năng lực tài chính cho NSNN, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế. Nếu như mỗi người dân giữ một lượng nhỏ tiền nhàn rỗi thì cả huyện Lương Sơn đang giữ một lượng lớn tiền nhàn rỗi, trong khi đó Nhà nước đang cần vốn để đầu tư. Vậy tập trung được số đó Nhà nước đã thành công trong bước đầu quản lý nền kinh tế, điều tiết tiền tệ từ nơi thừa sang nơi thiếu, theo hướng tích cực, kiềm chế lạm phát...
Hoạt động huy động vốn của KBNN huyện Lương Sơn một phần nhỏ mang tính chất kinh tế còn chủ yếu mang tính chất xã hội đó là thực hiện huy động vốn theo chủ trương của Bộ tài chính và Chính phủ nhằm khắc phục thiếu hụt ngân sách cũng như góp phần điều hành chính sách tài khoá của Quốc gia, cho nên hoạt động huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ không vì mục đích lợi nhuận.
Doanh số phát hành các loại trái phiếu không ngừng tăng lên qua các năm và doanh số đạt được trong 13 năm qua 27,9602 tỉ đồng, một con số không nhỏ. Từ năm 1993 hình thức huy động vố được mở rộng, đa dạng hoá lãi suất nhằm đảm bảo lợi ích của người mua TPCP. Các hình thức tín phiếu, trái phiếu ngày càng được cải tiến, nên đã hấp dẫn được nhân dân.
Cơ chế phát hành đã không ngừng hoàn thiện cả về nội dung và hình thức và cả về hình thức thanh toán. Từ các loại tín phiếu ngắn hạn (1 năm, 2năm) và công trái XDTQ, trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm, từ các loại ghi danh mua ở đâu thanh toán ở đó đến các loại vô danh mua ở bất kỳ một KBNN nào khi đến hạn thanh toán thì có thể thanh toán được tất cả các kho bạc Nhà nước trong toàn quốc với một chương trình phát hành và thanh toán trái phiếu thống nhất trên cả nước ( quản lý qua mạng chương trình quản trái phiếu Kho bạc ) nhằm đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Đối với mỗi đợt phát hành, để chuẩn bị, KBNN huyện Lương Sơn đã chuẩn bị một cách chu đáo, từ khâu bố trí các cán bộ đến việc trang bị các phương tiện cần thiết như máy đếm tiền, hòm sắt... kho bạc đã phối kết hợp với các cơ quan chức năng, thực hiện tuyên truyền, quảng cáo tới mọi người dân, giải thích cặn kẽ về phương thức phát hành và lợi ích của người đầu tư trái phiếu. Thái độ phục vụ chu đáo, hòa nhã của cán bộ kho bạc dù rất nhỏ nhưng góp phần quan trọng quyết định thành công của mỗi đợt phát hành.
- Về hạn chế:
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không ít khó khăn trong công tác phát hành TPCP qua Kho bạc.
Thứ nhất: theo nội dung của công tác phát hành, Kho bạc chỉ huy động chủ yếu trái phiếu kỳ hạn 2 năm, đã xuất hiện công trái và trái phiếu kỳ hạn 5 năm nhưng chưa được công chúng ủng hộ nhiệt tình. Điều này chưa thật phù hợp với thời gian thi công thực tế và khả năng hoàn trả vốn của các công trình Nhà nước đầu tư. Do đó việc phát hành trái phiếu ngắn hạn tạo ra một gánh nặng trả nợ lớn cho NSNN vào ngày đáo hạn.
Bên cạnh đó, việc phải thu từng khoản nhỏ lẻ sẽ kéo dài thời gian, chi phí, cả khoản chi phí in ấn cho những tờ mệnh giá bé. Dù người mua ít hay mua nhiều, Kho bạc cũng phải thực hiện đúng một quy trình phát hành và sẽ mất thời gian nếu khách hàng đông, thậm chí không giải quyết kịp thời gây ùn tắc, khách hàng phải chờ lâu. .., gây tâm lý không tốt đối với khách hàng. Có Nhà tiến sĩ nhận xét: “ Việc phát hành trái phiếu tại Kho bạc qua hình thức bán lẻ tại các KBNN trên toàn quốc là một phương pháp rất cổ điển và có nhiều nhược điểm : chi phí cao, thời gian lâu, vốn huy động không tập trung”. Mặc dù vậy phương thức phát hành qua KBNN vẫn là chủ yếu ngoài ra các hình thức phát hành trái phiếu, tín phiếu qua các kênh hiện nay đã từng bước hoàn thiện qua hình thức đấu thầu theo đợt phát hành đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư tài chính lớn từng bước được khẳng định vai trò của trái phiếu trên thị trường giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên Trung tâm giao dịch trứng khoán đã ra đời từ tháng 07 năm 2000, song qua hơn 4 năm đi vào hoạt động Trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán vẫn chưa thật sự phát huy hết được vai trò là một hàng hoá chủ đạo của thị trường chứng khoán và gặp phải sự “ nguội lạnh” của các nhà đầu tư. Như vậy, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, chúng ta thấy nếu như Kho bạc khắc phục được những tồn tại này thì việc bán lẻ trái phiếu qua Kho bạc là một hình thức huy động vốn mang đầy đủ ý nghĩa nhất, cả về chính trị và kinh tế.
Thứ hai: Việc huy động vốn chỉ là một bộ phận nghiệp vụ trong hệ thống kho bạc và thực hiện theo từng đợt phát hành theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ tài chính, do đó việc bố trí cán bộ cho mỗi đợt phát hành rất khó khăn. Hơn nữa trong suốt thời gian huy động vốn, đòi hỏi cán bộ phải làm việc vất vả, lại phải kiêm nhiều công việc cùng một lúc tạo ra sự căng thẳng tạm thời, đặc biệt là đối với các cán bộ KBNN huyện, vì ngày thường họ đã phải kiêm nhiệm nhiều việc. Nhưng nếu thành lập riêng một độ ngũ cán bộ huy động vốn lại gây ra lãng phí vì có khoảng thời gian nhàn rỗi giữa hai đợt phát hành.
Thứ ba: Kho bạc đã thực hiện việc tuyên truyền bằng nhiều hình thức, nhưng vẫn chưa đến được với từng hộ dân cư đặc biệt là trên địa bàn huyện thì việc tuyên truyền còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn hơn do vậy nhiều người dân biết quá muộn hoặc biết nhưng rất mơ hồ, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác huy động vốn, bên cạnh đó việc tổ chức huy động vốn hiện nay còn phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của NSNN trong từng giai đoạn, do đó nó mang tính bị động, không phát huy hết được sức mạnh của công tác huy động vốn.
*Sở dĩ vẫn còn có những hạn chế trong công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu tại KBNN huyện Lương Sơn là vì:
Chúng ta chưa thiết lập được môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, thậm chí còn yếu kém. Nền kinh tế vẫn còn đang trong tình trạng chậm phát triển, thu nhập bình quân đầu người và tỉ trọng nguồn vốn tiết kiệm đầu tư còn thấp, đồng tiền chưa ổn định vững chắc. Lạm phát bước đầu được kiềm chế nhưng chưa được loại bỏ. Tất cả những nhân tố này đã tác động và ảnh hưởng hạn chế đến việc huy động vốn.
Bên cạnh đó thì hệ thống Kho bạc ra đời sau, trong khi đó Ngân hàng đã có bề dầy lịch sử và kinh nghiệm vì thế mà các mối quan hệ của dân chúng với Kho bạc chưa đạt được như với Ngân hàng. Và đó là lý do tại sao các nguồn vốn trong xã hội vẫn chưa được khai thông, vốn huy động vào trong ngân sách chưa đạt hiệu quả vững chắc và chưa chủ động.
Một nguyên nhân nữa là khung pháp lý cho các loại hình phát hành chưa hoàn thiện và việc phát hành như thế nào sẽ quyết định rất lớn đến số thu đạt được là bao nhiêu. Hệ thống chính sách, luật pháp thuộc lĩnh vực huy động vốn mới được xây dựng, chưa đồng bộ và đang tiếp tục thử nghiệm, hoàn thành. Tính hiệu lực và hiệu quả còn rất thấp. Cơ chế quản lý và phát hành đã từng bước được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn phải kết hợp giữa máy móc và thủ công. Do đó việc phát hành TPCP vẫn chưa đạt được tính năng suất, hiệu quả.
* Xét về công tác thanh toán.
- Kết quả đạt được:
Kho bạc đã thực hiện tốt quy trình thanh toán và luôn luôn chuẩn bị đầy đủ tiền mặt đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực hiện thanh toán chính xác, nhanh, đúng, đủ do đó đã giữ được chữ tín với người dân, giúp họ ngày càng thêm tin tưởng vào Kho bạc.
Bên cạnh đó theo quy định Kho bạc sẵn sàng thanh toán cho bất kì một người dân nào dù trước hạn, đến hạn, hay quá hạn, khẩn trương giải quyết để thanh toán kịp thời, nhất là với những khách hàng đến thanh toán muộn cũng không bị phạt để quá hạn Kho bạc phải tự động chuyển sổ sang trái phiếu mới nhằm khuyến khích dân chúng gắn bó hơn với TPCP nhưng có khi vừa chuyển sổ xong thì người mua trái phiếu lại đến thanh toán.
- Tồn tại:
Vì việc thanh toán trước hạn trái phiếu được quy định. Cho nên việc thanh toán TPCP trước hạn ngoài kế hoạch là gánh nặng đối với Nhà nước, Nhà nước không dự tính được số thanh toán trước hạn và trở nên bị động nếu như có một lượng lớn nhu cầu này, đây là điều rất khó khăn đối với Nhà nước.
Mặt khác trái phiếu chuyển số mất thời gian cùng như lãng phí vì khi vừa chuyển sổ đối với trái phiếu đến hạn do khách hàng có khi hôm sau khách hàng lại đến yêu cầu được thanh toán.
Hiện nay việc thanh toán được thực hiện theo cơ chế trả lãi cùng với gốc khi đến hạn thanh toán, nhưng có một điều làm cho các nhà đầu tư “ngại” đầu tư vào TPCP bởi việc thanh toán trước thời hạn 1 năm cũng không được tính lãi hoặc giả sử trái phiếu kho bạc 2 năm xin thanh toán khi tròn 1 năm 11 tháng thì cũng chỉ được hưởng lãi 1 năm, gây thiệt thòi rất lớn cho các nhà đầu tư.
Cùng với trang thiết bị máy móc hiện đại về công nghệ thông tin nhằm đáp ứng việc phát hành, thanh toán trái phiếu đầy đủ. Song đôi lúc chương trình máy kết suất còn chậm, nghẽn đường truyền dẫn đến mất nhiều thời gian.
- Nguyên nhân:
Điều kiện nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển, giá trị đồng tiền biến động, tỉ lệ lạm phát chưa được ổn định...là nguyên nhân khiến cho người dân không dám đầu tư vào trái phiếu dài hạn, lo sợ trước sự biến động của đồng tiền nên chủ yếu là mua trái phiếu ngắn hạn và trung hạn. Điều này gây gánh nặng cho Nhà nước khi phải thanh toán trong khoảng thời gian ngắn, mà vốn thì chủ yếu là phục vụ cho đầu tư. Đồng vốn vay chưa ra khỏi một vòng luân chuyển. Hơn nữa nền kinh tế rất dễ làm dân chúng dao động, hoang mang, có thể đồng loạt rút tiền về, đổi ra đô la, quy ra vàng... lúc này nhu cầu thanh toán đặt ra với Kho bạc thật khó khăn.
Người dân chỉ chịu đầu tư khi TPCP có một lãi suất hấp dẫn cũng như như giá cả không biến động, đồng tiền ổn định. Song việc đưa ra một mức lãi suất hợp lý là rất khó khăn vì nó vừa phải hấp dẫn được người dân nhưng lại vừa phải giảm nhẹ gánh nặng thanh toán cho Nhà nước. Nếu lãi suất đưa ra không thích hợp, tính trên tỉ lệ lạm phát quá cao, thì việc kiềm chế được lạm phát sẽ đội giá vay lên, gây thiệt thòi cho Nhà nước và khả năng thanh toán trở nên kém hơn.
Một nguyên nhân nữa đó là cơ chế thanh toán TPCP không linh hoạt. Việc thanh toán trước hạn tại một thời điểm bất kỳ dù được thực hiện nhưng hạn chế khá nhiều lợi ích của nhà đầu tư. Trong trường hợp trái phiếu không trực tiếp đến với dân chúng, Chính phủ có thể đưa ra những giải pháp tạo điều kiện cho trái phiếu gián tiếp tới được tay người dân thông qua mở rộng thị trường mua đi, bán lại, chiết khấu, kinh doanh ... Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện.
Bên cạnh đó thì hệ thống chính sách, luật pháp quy định cũng chưa được hoàn chỉnh, làm cho việc thực thi trở nên lúng túng, không đồng nhất. Chẳng hạn khi quy định một tuần làm việc 5 ngày thì tới ngày thứ bẩy và chủ nhật, có trái phiếu thanh toán sẽ xử lý ra sao? Nếu như đối với những món nhỏ thì có thể không quan trọng lắm, song nếu như với những món lớn thì đó là cả một vấn đề bởi lẽ một ngày mà được tính lãi thì món đó sẽ đem lại cho nhà đầu tư một khoản tiền không phải là nhỏ. Ngày thứ sáu - cuối tuần Kho bạc không thể chuyển sang nợ quá hạn vì thực chất chúng chưa quá hạn. Đến thứ hai tuần sau không thể coi chúng là đúng hạn vì chúng đã quá hạn...vấn đề này sẽ gây ra khó khăn trong việc xử lý đối với cán bộ Kho bạc và gây tâm lý không tốt đối với các nhà đầu tư.
Ngoài ra có một nguyên nhân khác nữa như nghiệp vụ thanh toán còn nhiều bất cấp đó là: khi trái phiếu được thanh toán ở bất kỳ KBNN nào trên toàn quốc nhưng khi khách hàng đến thanh toán việc kiểm tra đối chiếu (đã thanh toán hay chưa) còn mất nhiều thời gian, nhất là tại KBNN các huyện trong khâu kiểm tra, kiểm soát trước khi thanh toán trái phiếu cho khách hàng (thông qua mạng) cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác huy động vốn.
Chương 3
.Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ tại kho bạc nhà nước lương sơn trong thời gian tới.
3.1. Định hướng phát triển của Kho bạc Nhà nước huyện Lương Sơn trong thời gian tới.
Đất nước đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày một lớn, trong khi nguồn lực thì có hạn. Do vậy huy động vốn bổ xung cho NS NN, tăng đầu tư phát triển và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một vấn đề cấp thiết. Các nhà kinh tế cho rằng, lượng vốn nhàn rỗi nằm trong dân chúng còn rất lớn. Đây là tiềm năng sẵn có trong nội lực nền kinh tế, Nhà nước cần có biện pháp thu hút đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A15.doc