MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt 1
Danh mục các bảng biểu, sơ đồ 2
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương I: Cơ sở lý luận 7
I. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước 7
1. Khái niệm và bản chất của ngân sách nhà nước 7
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước 7
1.2 Bản chất của NSNN 9
2. Chức năng của NSNN 10
2.1. Chức năng phân bổ nguồn lực của NSNN 10
2.2. Chức năng phân phối của NSNN 10
2.3. Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của NSNN 11
3. Hệ thống ngân sách nhà nước 12
4. Vai trò của Ngân sách 13
4.1 Vai trò của ngân sách nhà nước. 14
4.2 Vai trò của Ngân sách trung ương 19
4.3 Vai trò của ngân sách địa phương 19
II. Phân bổ ngân sách và các vấn đề liên quan 24
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác phân bổ ngân sách 24
1.1 Tại sao phải phân bổ ngân sách 24
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc phân bổ ngân sách cho địa phương 26
2. Các tiêu chí phân bổ ngân sách tới các địa phương được sử dụng hiện nay 31
2.1 Nguyên tắc xác định các tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư trong cân đối cho các địa phương 31
2.2 Tiêu chí phân bổ cho các địa phương 31
3. Quy trình lập và phân bổ ngân sách 36
4. Kinh nghiệm một số nước có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam 38
Chương II: Vấn đề trong công tác phân bổ ngân sách cho các địa phương 44
1. Thực trạng công tác phân bổ ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay 44
1.1 Kết quả đạt được 44
1.2 Những hạn chế yếu kém 47
2. Những nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trong công tác phân bổ ngân sách 61
2.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền bất hợp lý, tính hình thức còn phổ biến, tổ chức hệ thống chính quyền địa phương cồng kềnh kém hiệu quả 62
2.2 Khuôn khổ pháp lý còn nhiều bất cập, việc tuân thủ pháp luật chưa nghiêm, công tác quản lý ngân sách phân bổ còn lỏng lẻo, định mức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước và căn cứ lập dự toán chưa cụ thể chưa phù hợp với thực tế của địa phương. 63
2.3 Hệ thống ngân sách mang tính lồng ghép, quy trình ngân sách chưa hợp lý 65
2.4 Mức độ gắn kết giữa kế hoạch phát triển kinh tế xã hội với kế hoạch ngân sách nhà nước còn thấp 67
2.5 Công tác giám sát phân bổn ngân sách tới các địa phương cũng như việc sử dụng ngân sách được phân bổ ở các địa phương hiện nay còn chưa chặt chẽ 68
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân bổ 70
tới các địa phương hiện nay 70
1. Một số quan điểm phát huy vai trò của NSNN 70
2. Một số quan điểm nhằm giúp các địa phương sử dụng ngân sách nhà nước tới địa phương tốt hơn 71
2.1 Tăng cường tính tự chủ và tự quản của địa phương 71
2.2 Phát huy tốt các nguồn lực cho địa phương phát triển kinh tế xã hội 73
3. Những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách tới địa phương 74
3.1 Khắc phục tính lồng ghép trong công tác quản lý điều hành NSNN 74
3.2 Đổi mới công tác quản lý điều hành, quyết toán và phân bổ ngân sách nhà nước 75
3.3 Nghiên cứu kéo dài hơn nữa thời gian lập, quyết định và phân bổ dự toán ngân sách 76
3.4 Đổi mới công tác quản lý phân bổ ngân sách theo kiểu kết quả đầu ra gắn với tầm nhìn trung hạn. 77
3.5 Hệ thống lại hệ thống tiêu chí phân bổ ngân sách hiện nay cho phù hợp hơn 80
3.6 Hoàn thiện môi trường pháp lý, nâng cao hiệu quả công tác giám sát sử dụng ngân sách nhà nước 90
Kết luận 91
Danh mục tài liệu tham khảo 92
98 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách nhà nước tới các địa phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ (42,1%)
Chi tiêu tài chính trung ương Y 57,5 nghìn tỷ (38,1%)
TW : ĐP
58 : 42
(3 : 2)
38 : 62
(2 : 3)
Chi tiêu tài chính địa phương Y 93,4 nghìn tỷ (61,9%)
Dịch vụ cho cộng đồng (tổng chi tiêu tài chính quốc gia 150,9 nghìn tỷ)
Phân bổ ngân sách ở Úc
Úc là một hòn đảo lớn với tổng diện tích là 7.692.000 km2, với dân số 20 triệu người. Nhà nước Úc tổ chức theo hệ thống liên bang gồm 6 bang độc lập là New South Wale, Victoria, Queen land, Nam Úc, và Tasmania cùng với 2 lãnh thổ Phía bắc và thủ phủ Canberra hợp nhất thành 1 quốc gia. Mỗi bang có chính phủ và hệ thống pháp luật riêng. Quản lý chính trị của đất nước được chia thành 3 cấp: chính phủ liên bang, 8 bang vùng lãnh thổ và 684 đơn vị chính quyền địa phương. Ở Úc, chính quyền địa phương là Hội đồng. Chức năng và nhiệm vụ rất cụ thể không bị trùng lặp với chức năng và nhiệm vụ của các cấp khác. Nguồn thu của địa phương là thuế bất động sản. So với các khoản chi của chính quyền địa phương ở các nước khác, các khoản chi ở địa phương ở Úc là tương đối nhỏ. Các khoản chi có mục đích của địa phương chỉ khoảng 5% so với 53% của bang và 42% của liên bang. Chính quyền địa phương nhận 16% tổng ngân sách của mình từ chính quyền liên bang và 7% từ chính quyền bang. Ngân sách từ hai nguồn trên cấp cho địa phương dưới dạng ngân sách trung ương cấp, phát hoặc các khoản thanh toán có mục đích Chính quyền địa phương có nhiệm vụ quản lý và toàn quyền sử dụng vốn đầu tư có mục đích này.
* Những bài học có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam
Từ những kinh nghiệm thu được qua nghiên cứu mô hình Nhật Bản và Úc, ta thấy rằng chính quyền địa phương ở Nhật Bản và Úc theo hai mô hình hoàn toàn khác nhau. Ở Nhật Bản, địa phương có hai cơ quan riêng biệt gồm hội đồng lập pháp và cơ quan hành pháp hay nói cách khác là cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan thực hiện chính sách là hai cơ quan độc lập. Trong khi đó ở Úc, chính quyền địa phương lại là hội đồng, ủy viên hội đồng là nhà hoạch định chính sách và đồng thời là người thực hiện chính sách. Nghiên cứu hai mô hình này ta rút ra một số nhận xét:
Hệ thống chính quyền của cả hai nước đều chỉ có 3 cấp: ở Nhật Bản gồm Trung ương, tỉnh và cơ sở; ở Úc gồm cấp liên bang, bang, và cấp cơ sở
Cũng như chức năng, nhiệm vụ trong quản lý NSNN, ngân sách các nước được phân cấp một cách rõ ràng giữa NSTW và NSĐP, ngân sách các cấp không có sự lồng ghép, trong đó luôn đảm bảo tính tập trung của NSTW nhằm thực hiện việc hỗ trợ cho các địa phương chưa có khả năng cân đối thu chi.
Một điểm mạnh địa phương ở Nhật Bản và Úc là tính tự trị và tính độc lập cao hơn với trung ương. Trong khi chính quyền địa phương có những vai trò trách nhiệm nhất định theo luật tự quản địa phương, họ có trách nhiệm chủ yếu trước cử tri của mình. Họ có quyền tự chủ khá cao trong hội đồng. Đối với trương hợp của Úc, địa phương giữ cho mình một số thẩm quyền nhất định đối với chính quyền đại phương. Nhưng quyền này rất ít khi được sử dụng đến.
Việc phân cấp chức năng nhiệm vụ luôn gắn liền với việc phân cấp về ngân sách và tài chính để chính quyền địa phương có đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của mình có hiệu quả.
So sánh với Nhật Bản và Úc ta thấy Việt Nam có nhiều đặc điểm giống mô hình ở Nhật Bản.
Những kinh nghiệm ở Nhật Bản chỉ ra rằng sự phân chia trách nhiệm rõ ràng giữa trung ương với địa phương là rất quan trọng “ trung ương chỉ nên làm những gì mà địa phương không thể làm tốt hơn”. Trách nhiệm giữa trung ương và địa phương được luật pháp phân định rõ và không có sự chồng chéo quyền lực giữa hai cấp này. Khái nhiệm về chính quyền thuộc cấp và cơ quan cấp trên giữa trung ương và địa phương ở hai nước này là rất mờ nhạt, không có sự kiểm soát giám sát trực tiếp của trung ương đối với địa phương.
Có thể thấy dù ở bất kỳ hình thái nhà nước nào thì bộ máy chính quyền đều được chia thành nhiều cấp khác nhau với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau, trong đó cấp tỉnh/vùng đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự phát triển của mỗi quốc gia dựa vào sự phát triển của các tỉnh/vùng lãnh thổ. Chính quyền trung ương ban hành chính sách áp dụng cho cả nước và chịu trách nhiệm quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô, trong khi ở các địa phương chịu trách nhiệm triển khai các chính sách đó bằng biện pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội của địa phương. Do vậy, tính năng động sáng tạo và tự chủ của địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng. Xét trên khía cạnh nào đó trung ương “ phải dựa” vào cấp tỉnh trong việc triển khai các chính sách của trung ương trong quản lý kinh tế xã hội ở địa phương. Do vậy chính sách ban hành phải tạo điều kiện cho các địa phương năng động sáng tạo và chủ động trong quản lý điều hành nói chung và ngân sách nói riêng.
Chương II: Vấn đề trong công tác phân bổ ngân sách cho các địa phương
Thực trạng công tác phân bổ ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Kết quả đạt được
Sau hơn 20 năm đất nước đổi mới, hàng loạt các chính sách tài chính được ban hành, những bất cập trong phân bổ ngân sách tới địa phương cũng như việc sử dung ngân sách được phân bổ của các địa phương đã được chỉnh sửa, thay đổi cho phù hợp; nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ cần thiết nhằm khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế cũng đã được thực thi...
Sự ra đời của luật ngân sách nhà nước năm 1996 đã tạo điều kiện thực hiện một bước công tác quản lý điều hành NSNN, xây dựng một nền tài chính quốc gia thống nhất, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội ổn định trong thời gian dài; vai trò điều tiết vĩ mô của NSNN đã trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn. Đây là giai đoạn mà lần đầu tiên, nước ta có một đạo luật về NSNN riêng, điều chỉnh việc phân bổ và xác định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực NSNN. Luật NSNN được kỳ họp thứ 9 quốc hội IX thông qua, sau đó luật được sửa đổi bổ sung tại quốc hội khóa X. Sự ra đời của luật ngân sách thể hiện sự thay đổi cơ bản trong tư duy về tài chính ngân sách của nhà nước.
Luật quy định rõ nguyên tắc cân đối thu chi, bước đầu đưa công tác lập và quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách, công tác chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước cũng dần đi vào nền nếp. Luật NSNN đã tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong hoạt động thu chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách và sử dụng ngân sách được phân bổ của các địa phương có hiệu quả hơn.
Biểu đồ 1: Cơ cấu thu ngân sách nhà nước năm 2007
Đơn vị %
Nguồn: Bộ tài chính năm 2008
Biểu đồ 2: Cơ cấu chi ngân sách nhà nước 2007
Đơn vị %
Nguồn; bộ tài chính nám 2008
Qua hai biểu đồ trên ta thấy cơ cấu thu chi NSNN trong năm 2007 tương đối ổn định, thu nội địa đóng vai trò là nguồn thu chính của NSNN, chi đầu tư phát triển đã được quan tâm đúng mức, làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế. sản xuất và tăng nguồn thu cho NSNN. Đặc biệt sự ra đời của luật NSNN đã góp phần nâng cao hiệu quả cho công tác phân bổ quản lý và điều hành ngân sách. Ổn định mức bội chi ngân sách ở mức cho phép.
Đối với ngân sách địa phương, luật đã đem lại những kết quả quan trọng, đã có sự ổn định tỷ lệ phân chia nguồn thu giữa trung ương và địa phương. Từ đó khuyến khích địa phương sử dụng ngân sách được phân bổ có hiệu quả, làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, sắp xếp nhiệm vụ chi phối hợp với điều kiện kinh tế của địa phương.
Cuối năm 2001 Quốc hội đã sửa đổi bổ sung hiến pháp năm 1992 để thực hiện công tác quản lý và điều hành NSNN. Đến kỳ họp Quốc hội X, luật NSNN được sửa đổi và được Quốc hội thông qua. Luật phân định rõ hơn thẩm quyền của cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp, phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa trung ương với địa phương, phân cấp thẩm quyền phân bổ ngân sách, quy trình ngân sách đã được cải tiến tích cực. Qua mấy năm thực hiện luật ngân sách nhà nước sửa đổi đã góp phần làm tăng hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách. Tính công khai minh bạch trong phân bổ, quản lý, điều hành ngân sách đã được tăng cường, hạn chế tình trạng xin - cho trong phân bổ dự toán ngân sách nhà nước. Những đổi mới này nhằm mục đích giảm dần mức bổ sung ngân sách địa phương và giảm số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải bổ sung từ ngân sách trung ương, bảo đảm tính tập trung thống nhất trong hệ thống ngân sách nhà nước trong đó ngân sách trung ương đóng vai trò chủ đạo, có đủ nguồn lực giải quyết các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia.
Tiếp đến là việc phân cấp giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương khá rõ ràng. Theo quy định của Luật NSNN, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tổ chức xây dựng phương án phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi khá rõ ràng giữa ngân sách Trung ương với ngân sách địa phương theo hướng tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương và thúc đẩy địa phương phấn đấu để chủ động cân đối ngân sách trong tổ chức điều hành ngân sách. Điều này đã phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý điều hành ngân sách, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của địa phương.
Những hạn chế yếu kém
Nhìn một cách tổng thể, những cải cách trên góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Song, xét trên bình diện quản lý thu, chi, phân bổ ngân sách, trong quá trình triển khai và thực hiện các chính sách đã nảy sinh không ít vấn đề, đó là: tình trạng thất thoát, lãng phí trong thu chi ngân sách vẫn còn lớn, phân bổ ngân sách tới địa phương chưa hiệu quả, việc sử dụng, bảo toàn và phát triển các nguồn vốn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi.
Dự toán thu, chi, phân bổ ngân sách chưa rõ ràng
Đây được coi là điểm khởi đầu của sự bất cập trong thu, chi và phân bổ ngân sách hiện nay. Theo các nhà phân tích kinh tế, nguyên nhân chính khiến bức tranh thu chi ngân sách còn chưa mấy sáng sủa là do hiện nay việc phân bổ ngân sách của chúng ta còn nặng về cơ chế " xin – cho ", tư tưởng bao cấp và cục bộ của các Bộ, ngành, địa phương vẫn coi tiền ngân sách là "tiền chùa - xin được cứ xin" nên khi xây dựng, lập và giao dự toán thường mập mờ, không rõ ràng, cụ thể và chủ yếu thiên về sự "níu kéo lợi ích", coi nhẹ "hậu kiểm". Chính sự "níu kéo về lợi ích" này đã dẫn đến cơ chế phân bổ ngân sách chưa đúng đối tượng, đúng địa bàn, đúng hạng mục công trình.
Theo kết quả kiểm toán nhà nước (KTNN) năm 2006 về niên độ ngân sách năm 2005: Tuy hầu hết các địa phương đã có nhiều cố gắng trong quá trình lập và giao dự toán, dự toán thu nội địa do HĐND các tỉnh phê duyệt đều cao hơn trung ương giao, song việc lập và giao dự toán thu nội địa của không ít địa phương vẫn còn thấp hơn mức thực hiện năm, nhiều địa phương chưa chấp hành nghiêm túc và triệt để. Còn trong năm 2006, thu cân đối NSNN vượt dự toán lớn, vượt 17,5% (41.572 tỷ đồng). Một số chỉ tiêu thu tăng mạnh so với quyết toán năm 2005 nhưng tăng không cao so với dự toán. Tuy nhiên, qua kết quả giám sát và kết quả kiểm toán cho thấy dự toán thu ngân sách giao cho một số địa phương chưa sát thực tế. Một số tỉnh giao dự toán thu còn có độ chênh lớn so với số Trung ương phân giao, ngoài những nguyên nhân khách quan, còn có nguyên nhân chủ quan là các địa phương này vì lợi ích của địa phương đã bảo vệ dự toán thu thấp hơn nhiều so với thực tế nguồn thu phát sinh, nhằm tranh thủ nguồn trợ cấp của ngân sách cấp trên cho địa phương mình. Việc này dẫn đến tình trạng địa phương tăng “xin” từ ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, có một thực trạng đang diễn ra là ngân sách cấp trên thâm hụt nhưng ngân sách cấp dưới lại bội thu, có kết dư hoặc chi chuyển nguồn lớn sang năm sau (năm 2005, NSTW thâm hụt 40.746 tỷ đồng; chênh lệch thu lớn hơn chi của NSĐP là 11.114 tỷ đồng; Năm 2006, NSTW thâm hụt 48.613 tỷ đồng; chênh lệch thu lớn hơn chi của NSĐP là 13.789 tỷ đồng).
Thêm nữa, việc chấp hành các quy định về thu ngân sách ở một số địa phương, đơn vị chưa nghiêm, tình trạng trốn, lậu thuế với mức độ khác nhau diễn ra ở nhiều địa phương và đơn vị, số nợ đọng về thuế còn lớn, trong đó nhiều khoản nợ đọng kéo dài không còn khả năng thu nhưng chậm được xử lý. Số nợ đọng về thuế tuy có giảm nhưng còn lớn, chậm được xử lý (nợ thu nội địa 3.902 tỷ đồng, nợ thuế xuất nhập khẩu 3.170 tỷ đồng). Bên cạnh số nợ đọng về thuế, nhiều địa phương còn tạm thu, tạm giữ với số tiền lớn trên tài khoản tạm giữ, chờ xử lý tại Kho bạc Nhà nước, nhưng chậm được xử lý nộp NSNN (chỉ tính 12 đơn vị ở 29 địa phương được kiểm toán, số tạm thu chờ xử lý đã lên đến 2.156 tỷ đồng). Kết quả của tình trạng này là địa phương không thể tự cân đối thu chi ngân sách của địa phương mình và ngân sách nhà nước, mà cụ thể là ngân sách trung ương phải tiến hành bổ sung thêm ngân sách hỗ trợ cân đối ngân sách cho địa phương, như vậy, ngân sách địa phương được phân bổ lại bao gồm cả phần bổ sung nhằm cân đối ngân sách cho địa phương từ ngân sách trung ương.
Nguyên nhân dẫn đến việc phân bổ nguồn thu ngân sách của một số địa phương chưa sát với thực tế là do địa phương ước thực hiện thu năm còn thấp, việc lập dự toán của một số khoản thu còn thiếu tích cực, công tác dự báo về diễn biến thị trường đối với một số mặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước chưa tốt... Các khoản thu để lại đơn vị chi quản lý qua ngân sách nhà nước (NSNN) ở các địa phương thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh chỉ có 17 tỉnh giao dự toán, trong đó có 15 tỉnh giao thấp hơn so với mức thực hiện năm trước.
Mặt khác, việc lập và phân bổ ngân sách sai đối tượng, sai nội dung và không đúng quy định của Luật NSNN còn diễn ra ở không ít địa phương, như: phân bổ dự toán ngân sách cho cả đề tài khi chưa có đề cương được duyệt; giao dự toán cho đề tài không có tính khả thi... Một số địa phương quyết định dự toán chi chưa phù hợp với quy định, như: chưa giao cụ thể dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ; quyết định dự toán thấp hơn số trung ương giao về chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ... Sự phối hợp giữa các Bộ chưa được chặt chẽ trong công tác lập và phân bổ ngân sách chi đầu tư phát triển còn mang tính manh mún, dàn trải, thiếu cơ sở và chậm về thời gian, từ đó là ảnh hưởng đến tính chủ động trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước được phân bổ đến địa phương.
Lãng phí chi tiêu dẫn đến tình trạng ngân sách phân bổ cho địa phương có hiện tượng thất thoát
Hàng năm vào khoảng cuối tháng 6 đầu tháng 7, cơ quan Kiểm toán Nhà nước lại công bố những số liệu liên quan đến việc sử dụng ngân sách nhà nước. Ví dụ là Ngân sách nhà nước năm 2007 lại thêm một lần gồng mình gánh chịu cho những chi tiêu tùy tiện, thậm chí có trường hợp vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp.
Nghiêm trọng hơn là trong việc sử dụng, quản lý ngân sách phân bổ cho các địa phương, có đến hơn phân nửa địa phương được kiểm toán tiếp tục tình trạng - từng diễn ra nhiều năm trước - là một mặt đem tiền công quỹ cho vay, tạm ứng vượt quy định, mặt khác lại vay hoặc xin Trung ương bổ sung ngân sách. Khoản này hoàn toàn không nhỏ, chỉ riêng tiền chưa thu hồi được đã lên đến 3.216 tỉ đồng. Căn cứ vào số liệu của Kiểm toán Nhà nước thì TP. Hồ Chí Minh là nơi hào phóng hơn cả với khoản cho vay và tạm ứng từ ngân sách lên tới 2.400 tỉ đồng. Điều đáng nói ở đây là hành động ấy ẩn chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ cơ quan quản lý địa phương không có bộ máy chuyên nghiệp thẩm định dự án, trong khi đó có rất nhiều địa phương có nhu cầu bổ sung ngân sách cho những dự án rất cần thiết cho việc phát triển kinh tế xã hội tại địa phương đó. Ngoài ra còn phải kể chiếc bánh ngân sách không lớn dễ dẫn đến tình trạng xin - cho, tiêu cực.
Có thể thấy hầu hết các địa phương đều có hiện tượng sử dụng ngân sách được phân bổ sai đối tượng và mục đích. Điều này ảnh hưởng đến trật tự kỷ cương trong quản lý, sử dụng ngân sách quốc gia phân bổ tới từng địa phương, có thể thấy việc sử dụng ngân sách nhà nước phân bổ ở các địa phương chưa thật sự hiệu quả.
Lãng phí là bức tranh màu xám vẫn tồn tại qua kết quả kiểm toán mới đây, mặc dù tiết kiệm luôn là quốc sách mà Chính phủ vẫn kêu gọi hàng chục năm nay. Căn bệnh lãng phí được cụ thể qua các khoản chi tiêu thường xuyên như mua sắm, tổ chức hội nghị, lễ hội ở hầu hết các địa phương được kiểm toán đều vượt 30%. Tình trạng mua tài sản lớn không qua đấu thầu vẫn còn phổ biến. Có tới 29/29 địa phương được kiểm toán đều bố trí vượt dự toán Trung ương giao. Tình trạng vung tay quá trán khiến cho riêng chi phí quản lý hành chính đã tăng tới 9,4%, vượt dự toán 1.590 tỉ đồng và đẩy số tiền chi tiêu hành chính năm 2007 lên đến 18.515 tỉ đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là năm nào cũng vậy, khi kiểm tra sử dụng ngân sách được phân bổ tới địa phương thì căn bệnh lãng phí và thất thoát vẫn được nhắc đến và không hề có dấu hiệu thuyên giảm.
Bên cạnh đó, hiện tượng sử dụng ngân sách được phân bổ vượt dự toán thì việc sai phạm chi tiêu, và sử dụng ngân sách ở địa phương cũng rất đáng nói khi có tới 16 tỉnh chi không đúng chế độ số tiền lên tới 182,8 tỉ đồng. Cá biệt Lạng Sơn mua ôtô vượt định mức, mua bán không qua đấu thầu 37 xe, Bộ Nội vụ 8 xe Đáng lưu ý hơn là tình trạng lãng phí đã lan đến tận cơ sở.
Một mặt khác của lãng phí ngân sách phân bổ tới địa phương là sử dụng ngân sách không hiệu quả. Chẳng hạn như trong các dự án chi ngân sách cho đầu tư ở Đắc Nông đầu tư 3,6 tỉ đồng mua thiết bị dạy nghề rồi bỏ mặc ngoài trời; hay Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch cho nông thôn đạt thấp hơn 18%; còn TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Hà Tây... lại để tồn đọng tới 425 tỉ đồng nguồn vốn nhà nước dành cho giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ, trong khi trường học thiếu, bệnh viện quá tải, nghiên cứu khoa học và đào tạo vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, hàng loạt căn bệnh cũ trong việc sử dụng ngân sách được phân bổ tới địa phương vẫn tiếp tục diễn ra, cụ thể là trong năm 2007, sai phạm trong xây dựng cơ bản (giảm thanh toán 723 tỉ đồng), 21 tỉnh báo cáo gian dối về nợ xây dựng cơ bản (với số tiền không trung thực lên tới 3.369 tỉ đồng), chi sai mục đích hàng ngàn tỉ đồng ...
Phân bổ ngân sách thiếu tính công khai minh bạch, thiếu căn cứ phân bổ, dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong công tác phân bổ ngân sách
Về định mức thu chi NSNN: Việc ban hành Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 và Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 là một sự đổi mới rất quan trọng, các quy định về tiêu chí và định mức được lượng hóa; bảo đảm việc phân bổ ngân sách nhà nước công khai, minh bạch và công bằng so với trước; khắc phục được việc phân bổ theo cảm tính thiếu căn cứ trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung trong việc xác định định mức chi NSNN. Việc xây dựng các định mức chi tiêu ngân sách vẫn chủ yếu dựa trên các yếu tố đầu vào, mà chưa tính đến các hiệu quả đầu ra của các khoản chi tiêu, là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng chi tiêu ngân sách lãng phí, hiệu quả thấp.
Thêm nữa, một điểm yếu trong công các phân bổ ngân sách hiện nay là hiện tượng tiêu cực chủ yếu hiện nay đó là các địa phương vẫn có thể “chạy” được ngân sách, nếu biết cách. Việc này là hàn toàn có thể khi mà mối quan hệ giữa địa phương với trung ương lại khá thuận lợi, hay các địa phương là trung tâm kinh tế hay thuộc vùng kinh tế trọng điểm. Khi ngân sách đã phân bổ về cho từng ngành, lĩnh vực, thì khi thực hiện hỗ trợ cho các địa phương, có thể vẫn có ưu ái chỗ này chỗ kia. Xem qua một số lĩnh vực, tôi thấy việc phân bổ ngân sách cho các tỉnh trong một số lĩnh vực như hỗ trợ hạ tầng du lịch, khu công nghiệp, phát triển làng nghề vẫn còn dàn trải, ở đấy vẫn mang nặng tính bình quân. Vì vậy, tôi cho rằng, việc các địa phương tranh thủ các cơ quan trung ương để “xin” thêm ngân sách cho địa phương mình vẫn đang tồn tại.
Phân bổ ngân sách dựa trên các tiêu chí ở phần trên là chưa thật phù hợp trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay
Ngân sách thường được phân bổ theo một hạn mức chi theo đầu người có tính tới yếu tố vùng, miền, các đặc điểm về trình độ phát triển, điều kiện tự nhiên, hành chính và địa lý Song nếu chỉ tính tròn trịa trên số dân của một tỉnh thì sẽ không công bằng với những địa phương có nhiều lao động di cư, hay nếu chỉ tính tới trình độ phát triển thì sẽ không công bằng đối với những tỉnh gặp nhiều khó khăn trong công tác giáo dục đào tạo hay trang bị thiết bị khoa học kỹ thuật, Có thế nói, công tác phân bổ ngân sách Nhà nước cho các địa phương như hiện nay chưa hợp lý, phản ánh không đầy đủ giữa nhu cầu và khả năng của các địa phương, vì đối với các địa phương thiếu nguồn lực mặc dù khi phân bổ ngân sách được áp dụng hệ số ưu tiên ngoài các tiêu chí phân bổ ngân sách đầu năm còn khi cấp bổ sung ngân sách và cấp cho các chế độ chính sách khác thì không áp dụng. Việc tiết kiệm chi ngân sách chống lạm phát, giảm đầu tư công tất cả các địa phương đều áp dụng chung một tỷ lệ, không tính đến các yếu tố đặc thù của các địa phương còn nhiều khó khăn và thiếu nguồn lực, có nhu cầu cấp bách về đầu tư cơ sở hạ tầng, do vậy việc phân bổ ngân sách và thực hiện chế độ chính sách về tài chính như hiện nay chỉ phản ánh được một phần thực tế nhu cầu ngân sách đối với các địa phương khó khăn, thiếu nguồn lực thì không đủ khả năng về ngân sách để tổ chức thực hiện các chức năng nhiệm vụ. Sau đây là một số vướng mắc trong hệ thống tiêu chí phân bổ ngân sách tới địa phương hiện nay
Bất cập của hệ thống tiêu chí hiện hành: quá nhiều mà không thống nhất
Thực ra, kể từ khi bắt đầu công cuộc “ đổi mới” đến nay, hoạt động phân bổ ngân sách đã có những cải cách đáng kể và không ngừng hoàn thiện nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu sử dụng vốn của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương. Cơ sở quan trọng nhất cho công tác này chính là các hệ thống tiêu chí đã và đang được sử dụng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống tiêu chí này còn khá nhiều bất cập, khi quá nhiều, lúc quá ít, lại phân tán, thiếu tập trung và chủ yếu là định tính. Do vậy trong quá trình vận dụng thường xảy ra tình trạng hoặc cào bằng (bình quân chủ nghĩa, không phản ánh hết thứ tự ưu tiên, trình độ phát triển, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư,) hoặc bất hợp lý giữa các đối tượng thụ hưởng (địa phương giàu thì được nhiều, nghèo thì được ít) và dễ tạo ra kẽ hở quay trở về cơ chế xin cho, Sau đây tôi xin tổng hợp một số đánh giá khái quát.
Thứ nhất, đang tồn tại quá nhiều hệ thống tiêu chí áp dụng riêng cho từng chương trình mục tiêu quốc gia, từng loại hình thụ hưởng, nhưng thiếu vắng một hệ thống tiêu chí chung áp dụng thống nhất trong hoạt động phân bổ ngân sách. Chẳng hạn:
Chương trình hỗ trợ đầu tư kinh phí phát triển kinh tế - xã hội các địa phương theo nghị quyết 37- NQ/TW ngày 7/4/2004 của bộ chính trị đựa trên 6 tiêu chí phân bổ vốn: tỷ lệ hộ nghèo kinh tế - xã hội; tỷ lệ bổ sung ngân sách cân đối từ Ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương so với chi ngân sách địa phương; mức độ lạc hậu của cơ cấu kinh tế so với mục tiêu cơ cấu kinh tế toàn vùng năm 2010; tỷ lệ các xã đặc biệt khó khăn; có tính tới yếu tố chia tách; các tỉnh có đường biên giới quốc gia; và căn cứ vào dân số, diện tích của từng tỉnh, thành phố.
Chương trình hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn của các địa phương Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung theo nghị quyết 39 – NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ chính trị dựa trên 6 tiêu chí: quy mô dân số, tỷ lệ hộ đói nghèo của tỉnh, tỷ lệ thu/chi ngân sách thấp (dưới 50%), số huyện có tỷ lệ nghèo đói cao hơn mức bình quân chung của cả nước, số xã đặc biệt khó khăn, số xã chưa có đường ô tô, mức độ khó khăn của các tuyến giao thông, đi lại miền núi, ven biển; sự thiếu và hạn chế các công trình thủy lợi để cấp nước sản xuất và sinh hoạt, để khắc phục thiên tai (chống hạn, lũ lụt).
Chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long theo quyết định của thủ tướng chính phủ sử dụng các tiêu chí: dân số; diện tích; tỷ lệ hộ nghèo; số đơn vị hành chính (huyện, thị); vị trí địa lý; khả năng thu ngân sách hàng năm trên địa bàn so với nhu cầu chi NSĐP và mức độ khó khăn (khó khăn nhất, khó khăn, và ít khó khăn)
Chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phân bổ vốn ngân sách dựa trên 5 tiêu chí: quy mô diện tích; dân số; điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; tỷ lệ hộ nghèo; tỷ lệ bổ sung từ ngân sách trung ương cho NSĐP so với chi ngân sách địa phương; và đặc điểm khác về biên giới, an ninh quốc phòng.
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (2006 – 2010) sử dụng 3 tiêu chí cơ bản kèm theo một số hệ số cụ thể; số dân nông thôn cần được cấp nước và quy mô dân số; tình trạng hạn hán lũ lụt, ô nhiễm nguồn nước; khó khăn ngân sách và địa bàn trọng điểm (vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long).
Chương trình hỗ trợ vốn đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp dựa trên 2 tiêu chí lớn là: tỷ lệ bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP so với chi ngân sách địa phương lớn hơn 60% và tỷ trong công nghiệp trong GDP của địa phương thấp hơn ít nhất 10% so với tỷ trọng cả nước.
Chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch không có tiêu chí cụ thể mà chỉ căn cứ vào một số nguyên tắc chung như: ưu tiên các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề; chú trọng đầu tư khai thác các điểm du lịch có khả năng thu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2619.doc