MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Thực trạng quản lý vốn lưu động tại Công ty xây dựng bưu điện 3
1. Giới thiệu chung về Công ty xây dựng bưu điện 3
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển 3
1.1.1 Lịch sử hình thành 3
1.1.2 Quá trình phát triển 5
Biểu đồ 3: lợi nhuận của công ty qua các năm 6
1.2. Nhiệm vụ và chức năng 8
2. Những đặc điểm kinh tế công nghệ chủ yếu có ảnh hưởng đến quản lý vốn lưu động của Công ty xây dựng Bưu điện Error! Bookmark not defined.
2.1 Đặc điểm của sản phẩm Error! Bookmark not defined.
2.2 Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm Error! Bookmark not defined.
2.3 Quy trình công nghệ sản xuất Error! Bookmark not defined.
3. Thực trạng quản lý vốn lưu động tại công ty xây dựng bưu điện 8
3.1 Phương pháp xác định vốn lưu động 8
3.2 Cơ cấu nguồn vốn, Cơ cấu tài sản lưu động và sự biến động của chúng 9
3.2.1 Cơ cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh của Công ty 9
3.2.2 Tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn 10
3.2.2 Cơ cấu tài sản lưu động và sự biến động 12
3.2.3 Nguồn vốn lưu động và sự biến động của nó 16
3.3 Quản lý vốn bằng tiền và các khoản phải thu 19
Bảng 2.2: tỷ suất thanh toán của vốn lưu động 21
3.4 Quản lý hàng lưu kho và vấn đề thanh khoản 21
3.4.1 Quản lý hàng lưu kho 21
3.4.2 Quản lý thanh khoản 22
3.5 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động 24
VLĐ bình quân 25
Tổng số doanh thu thuần 25
Bảng Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ 27
4. Những tồn tại chủ yếu trong quản lý vốn lưu động 28
4.1 Chưa xác đinh được kế hoạch thu chi ngân quỹ một cách hợp lý, công tác lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động chưa hiệu quả 28
4.2 Việc thu hòi các khoản nợ tồn đọng còn quá chậm, đặc biệt là các khoản phải thu khách hàng, chưa quản lý chặt chẽ chính sách tín dụng thương mại 28
4.3 Chưa xác định được mức dự trữ hàng hoá tối ưu cho từng thời điểm 29
4.4 Chưa đa dạng hoá được nguồn vốn lưu động, cưa giảm được tỷ trọng của nợ ngắn hạn trong cơ cấu vốn lưu động 30
Kết luận 32
41 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Quản lý Vốn lưu động tại Công ty Xây dựng Bưu điện: Giai đoạn 1999 đến 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KITA...) nhưng vẫn chưa bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh và mạnh của công nghệ kỹ thuật hiện đại.
Trong 2 năm gần đây (2001, 2002), tỷ trọng TSLĐ đã giảm hơn so với 2 năm trước nhưng vẫn chiếm trên, dưới 60%, cho thấy nhu cầu về VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đang ổn định và khá cao so với nhu cầu về vốn cố định. Với tỷ trọng TSLĐ và TSCĐ như vậy, nhìn chung cơ cấu tài sản của Công ty đã hợp lý hơn so với các năm trước, đặc biệt về TSCĐ được chú trọng đầu tư mua sắm nhằm nâng cao chất lượng sản xuất và thi công công trình, tạo uy tín để mở rộng thị trường kinh doanh.
Về cơ cấu nguồn vốn ta nhận thấy rằng: Tỷ trọng nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của Công ty luôn lớn hơn tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu (thường chiếm trên 70% trong tổng nguồn vốn) và ngày càng tăng. Tại thời điểm năm 1999, tỷ trọng nợ phải trả chiếm 72,23%, năm 2000 chiếm 75,92%, năm 2001 chiếm 82,98% và năm 2002 chiếm 82,49%. Điều này cho thấy để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, ổn định, Công ty phải thường xuyên huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn nợ phải trả chủ yếu của năm 1999 và 2000 là nợ ngắn hạn, đến năm 2001 và 2002 nguồn nợ phải trả được cân đối giữa nợ ngắn hạn và nợ dài hạn, thể hiện sự năng động của Công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng giảm dần cũng có nghĩa là khả năng tự tài trợ của Công ty ngày càng giảm. Công ty cần quan tâm tới vấn đề này trong thời gian tới để tránh bị thiếu tự chủ về mặt tài chính
2.2.2 Tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn
Để đánh giá một cách cụ thể hơn nữa về tài sản và nguồn vốn kinh doanh của Công ty ta cần xem xét sự biến động của chúng thông qua bảng 02 ở trang sau.
ở bảng 02 cho thấy tài sản và nguồn vốn cuối năm 2001 tăng nhanh so với cuối năm 2000 và 1999 (59,89%) tức 22.359.218.529 đồng, nhưng đến cuối năm 2002 lại tăng chậm lại (29,61%) tức 17.674.244.076 đồng.
Có thể biểu diễn sự biến động của tổng tài sản và nguồn vốn vào cuối các năm 1999 đến 2002 qua biểu đồ sau:1 Biểu đồ được xây dựng dựa vào số liệu trong bảng 01 - Chỉ tiêu “Tổng cộng tài sản , tổng cộng nguồn vốn’
Đồng
BIểU Đồ 1: tổng tài sản và nguồn vốn của Công ty
xây dựng bưu điện cuối các năm 1999, 2000, 2001, 2002
1999 2000 2001 2002 Năm
Qua biểu đồ này có thể thấy tài sản và nguồn vốn Công ty có xu hướng tăng dần và khá cao (cuối năm 2002 lên tới 77.365.097.767 đồng), điều này chứng tỏ Công ty chú trọng vào việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, trong 2 năm gần đây (2001, 2002), Công ty đã thành lập thêm 01 Xí nghiệp công trình thông tin, 01 Xí nghiệp Xây dựng nhà, thành lập nhà máy nhựa Bưu điện và chi nhánh Công ty Xây dựng Bưu điện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đầu tư 03 dây chuyền sản xuất công nghiệp là: Dây chuyền sản xuất thanh nhựa cửa thay thế gỗ, Dây chuyền gia công lắp ghép cửa nhựa có lõi thép và dây chuyền sản xuất ống PVC sóng bảo vệ cáp ngầm. Ngoài ra, Công ty còn mua sắm thêm nhiều thiết bị hiện đại phục vụ nhu cầu trao đổi thông tin, phương tiện giao dịch, đi lại... như: Máy điện thoại di động, máy Vi tính, máy điều hoà, ôtô, máy phát điện...
Trở lại bảng 02, ta thấy:
Về mặt tài sản: cuối năm 2000 hầu hết các loại TSCĐ đều giảm, trừ các khoản phải thu tăng 48,32% tức 7.697.719.409 đồng, đặc biệt là tiền tại quỹ và tiền gửi ngân hàng giảm 74,34%, TSLĐ khác giảm 144,69% trong khi đó TSCĐ lại tăng khá cao (121,91%). Điều này cho thấy nguyên nhân các khoản phải thu tăng có thể do chính sách tín dụng khách hàng của Công ty, cũng có thể do nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng không có khả năng trả nợ. Đến cuối năm 2002, các khoản phải thu tăng cao tới 67,88% tức 17.473.494.858 đồng, như vậy Công ty đã để tình trạng chiếm dụng vốn quá lớn, cần phải có biện pháp như thay đổi chính sách tín dụng, hoàn tất các thủ tục Xây dựng cơ bản để nhanh chóng thu hồi vốn...
Cuối các năm 2001 và 2002 hầu hết các loại tài sản đều tăng lên so với thời điểm cuối năm 2000. Nhất là vào năm 2001, tăng mạnh về tiền mặt và tiền gửi ngân hàng (147,79%) và TSCĐ tăng 470,97%, năm 2002 chi phí Xây dựng cơ bản tăng đến 416,58%, chỉ có TSCĐ giảm không đáng kể (11,51%). Điều này chứng tỏ Công ty chú trọng vào việc mở rộng hoạt động xây dựng cơ bản nội bộ và đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại.
Về mặt nguồn vốn: Nhìn vào bảng 02 ta nhận thấy các khoản mục nguồn vốn của Công ty đều tăng lên qua các năm. Năm2001, nợ phải trả tăng 74,76 % so với năm 2000, trong đó chủ yếu là tăng nợ dài hạn (tăng 19107690648 đồng). Trái lại, năm 2002 lại chủ yếu tăng nợ ngắn hạn (tăng 41,55 % tức 12226597373 đồng). Điều này cho thấy Công ty đã phải vay ngân hàng để có vốn mở rộng hoạt động SXKD. Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty cũng tăng dần lên tuy giá trị tăng không lớn song nó cho thấy một dấu hiệu khả quan về sự tự chủ tài chính trong những năm gần đây.
2.2.2 Cơ cấu tài sản lưu động và sự biến động
* Cơ cấu tài sản lưu động
Để khái quát tình hình quản lý sử dụng VLĐ, ta cần phân tích cơ cấu TSLĐ qua bảng 07 ở trang sau.
Bảng 07 cho thấy các khoản phải thu và hàng lưu kho chiếm phần lớn trong tổng TSLĐ của Công ty, tiền mặt và TSLĐ khác chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Thật vậy, tại thời điểm cuối năm 2000, 2001, 2002, tỷ lệ tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng trong TSLĐ chỉ trên dưới 3%, tuy nhiên cuối năm 1999 tỷ lệ này đạt tới 7,2%. Với cơ cấu tiền mặt như vậy, Công ty dễ mất khả năng thanh toán đối với các khoản phải trả ngay lập tức. Cũng qua bảng 07, ta nhận thấy tỷ trọng của các khoản phải thu và hàng lưu kho trong tổng TSLĐ có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Quả vậy, cuối năm 1999 tỷ trọng của các khoản phải thu là 61,27%, thì hàng lưu kho là 31,38%, năm 2000 các khoản phải thu chiếm 75,75 %, hàng lưu kho chiếm 22,76 %, năm 2001 tương ứng là 75,52% và 22,96%, và năm 2002 tương ứng là 80,78% và 17,34%. Như vậy, chính sách tín dụng khách hàng có liên quan chặt chẽ đến khả năng tiêu thụ của Công ty. Tuy chính sách tín dụng khách hàng có lợi như vậy (giải toả hàng lưu kho), song cần phải sử dụng với mức độ hợp lý. Tỷ trọng các khoản phải phải thu cuối các năm 2000, 2001 là quá cao (trên 72%) đặc biệt là cuối năm 2002 tỷ trọng này chiếm tới 80,78%. Công ty cần phải điều chỉnh khoản mục này vì nó không những liên quan đến khả năng thanh toán, mà thường các khoản nợ càng lớn đi đôi với rủi ro đạo đức càng cao. Mặt khác, tuy chính sách tín dụng khách hàng được coi như một trong các biện pháp để đẩy nhanh tiêu thụ nhưng vì thế lại làm chập kỳ luân chuyển vốn, giảm số vòng quay VLĐ.
Để hiểu rõ hơn về tình hình quản lý hàng lưu kho tại Công ty trong thời gian qua. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể sự biến động của hàng lưu kho qua biểu đồ thể hiện giá trị nguyên vật liệu trong hàng lưu kho - một thành phần chủ yếu trong tổng số hàng lưu kho của Công ty.1 Biểu đồ được xây dựng dựa trên số liệu của bảng 07 - Chỉ tiêu Hàng tồn kho, Nguyên vật liệu tồn kho.
BIểU Đồ 4: giá trị nguyên vật liệu trong hàng lưu kho
 Hàng tồn kho
u NVL tồn kho
Đồng
1999 2000 2001 2002 Năm
Qua biểu đồ 4 cho thấy: Trong 4 năm qua, giá trị nguyên vật liệu lưu kho luôn chiếm trên 70% tổng số giá trị hàng lưu kho. Có nghĩa là công tác đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tại Công ty rất vững chắc bởi như đã biết, Công ty Xây dựng Bưu điện là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông, được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch tăng tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông của ngành Bưu điện. Do đó, đòi hỏi nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất phải luôn đầy đủ và phải có sẵn để nhanh chóng bắt tay vào thi công các công trình, hoàn thành kế hoạch trên giao.
* Biến động của tài sản lưu động
Để có thể thấy rõ hơn tình hình TSLĐ của Công ty ta sẽ phân tích sự biến động của nó qua số liệu của bảng 08 ở trang sau.
Thông qua bảng 08 ta nhận thấy rằng TSLĐ cuối năm 2002 được mở rộng nhanh chóng so với cuối năm 2001 (tăng 50,71%). Còn các năm trước đó (1999, 2000, 2001) thì TSLĐ tăng ở mức độ vừa phải (từ 13% -> 20%). Xem biểu đồ sau:1 Biểu đồ được xây dựng trên số liệu của Bảng 07 - Chỉ tiêu TSLĐ và đầu tư ngắn hạn.
1999 2000 2001 2002 Năm
Đồng
Biểu đồ 5: biến động tài sản lưu động
Năm 2002, VLĐ chủ yếu sử dụng nhằm tăng khoản phải thu khách hàng: 18.705.970.776 đồng, tăng 144,66% so với năm 2001, trả trước cho người bán: 294.610.776 đồng, thành phẩm lưu kho 1.227.632.794 đồng và tạm ứng: 135.676.617 đồng, tăng 197,74% so với cùng thời điểm năm 2001. Điều này chứng tỏ thành phẩm của Công ty cuối năm 2002 khó tiêu thụ, Công ty đã phải sử dụng chính sách tín dụng khách hàng để đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, quy mô kinh doanh của Công ty được mở rộng như đã nói ở trên, nên các khoản phải thu khách hàng và hàng lưu kho tăng lên là tất nhiên. Song, với xu hướng tăng các khoản phải thu và hàng lưu kho như vậy cho thấy công tác quản lý, theo dõi công nợ và quản lý tài sản kho của Công ty chưa tốt.
Khoản mục trả trước cho người bán và tạm ứng tăng ở cuối năm 2001 và 2002 cho thấy, Công ty đã dự đoán là nhu cầu khách hàng sẽ cao hơn nên đã có hoạch đặt hàng trước, song thực tế lại ngược lại bởi tỷ trọng thành phẩm lưu kho tăng lên đáng kể như : Năm 2001 là 507.112.094 đồng và năm 2002 là 1.227.632.794 đồng chứng tỏ Công ty không tiêu thụ được sản phẩm nhiều như dự đoán. Qua tìm hiểu hoạt động của Công ty cho biết do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực Đông Nam á và đứng trước sự cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực xây lắp, xây dựng nên năm 2002, sản phẩm xây lắp của Công ty bị tồn đọng, các công trình xây dựng nhà trong nghành hầu như không thắng thầu.
Ngoài ra, ta còn thấy các khoản thế chấp, ký gửi vào cuối năm 2000 và 2001 tăng lên cao (năm 2000 tăng 100% so với cuối năm 1999, năm 2001 tăng 94,18% so với cuối năm 2000) chứng tỏ Công ty rất chú trọng đến phương thức bán hàng qua các kênh trung gian, tạo điều kiện để tiêu thụ thêm hàng hoá. Song tại thời điểm cuối năm 2002, tỷ trọng của khoản thế chấp, ký gửi lại giảm xuống 21,74%, đó là một điểm yếu của Công ty. Bởi trong khi quy mô mặt hàng kinh doanh của Công ty được đa dạng hoá, phát triển lĩnh vực thi công và mở rộng sản xuất các sản phẩm công nghiệp mà hệ thống tiêu thụ lại giảm năng lực hoạt động là điều chưa hợp lý.
Cuối cùng, bảng 08 còn cho thấy, cuối năm 2002 khoản mục tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng giảm đáng kể (29,66%). Mặc dầu, nhu cầu về vốn bằng tiền luôn luôn biến động và không phải lúc nào cũng có thể dự đoán chính xác được nhưng với lượng tiền mặt quá ít Công ty sẽ mất khả năng thanh toán tức thời (như nhu cầu tiền mặt để thực hiện các cuộc giao dịch, trả tiền mua sắm hàng ngày...), không ứng phó kịp với những nhu cầu vốn bất thường và không tranh thủ được những thời cơ hấp dẫn (mua sắm tài sản Công ty...). Tuy nhiên, mức tồn quỹ thay đổi theo mức tiêu thụ và chính sách tín dụng của Công ty.
2.2.3 Nguồn vốn lưu động và sự biến động của nó
*Nguồn vốn lưu động của Công ty
Như đã nói ở các phần trên, nhu cầu về VLĐ tại Công ty Xây dựng Bưu điện là khá cao (thường chiếm trên 60% trong tổng tài sản) và biến động rất phức tạp. Bởi vậy, Công ty phải quan tâm tới việc tìm nguồn vốn để đáp ứng tốt cho nhu cầu đó.
Có thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau để huy động VLĐ cho doanh nghiệp. Căn cứ vào thời gian huy động vốn thì VLĐ của doanh nghiệp bao gồm: Nguồn VLĐ thường xuyên và nguồn VLĐ tạm thời.
Nguồn VLĐ thường xuyên là phần còn lại của nguồn vốn SXKD dài hạn sau khi đã tài trợ đủ cho nhu cầu về TSCĐ. Còn nguồn VLĐ tạm thời thời chính là các khoản nợ ngắn hạn của DN.
Tình hình huy động nguồn VLĐ tại Công ty Xây dựng Bưu điện trong 4 năm gần đây được trình bầy trong bảng 09 ở trang sau.
Qua bảng 09 có thể thấy rõ một điều rằng: Nguồn VLĐ thường xuyên của Công ty luôn lớn hơn không (và luôn chiếm trên 12% trong tổng nguồn vốn). Do đó, nguồn vốn dài hạn của Công ty không những đáp ứng đủ cho việc mua sắm TSCĐ mà còn góp phần tài trợ cho TSLĐ. Điều này cũng có nghĩa là TSLĐ lớn hơn nợ ngắn hạn nên Công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính của Công ty như vậy là lành mạnh.
Tuy nhiên, với tỷ trọng nguồn VLĐ thường xuyên chiếm dưới 20% tổng nguồn vốn (năm 1999: 14,46%, năm 19996: 12,34%, năm 2001: 17,1%), trừ năm 2002 nguồn VLĐ thường xuyên chiếm 22,14% tổng nguồn vốn, do đó VLĐ của Công ty được tài trợ chủ yếu bằng nguồn VLĐ tạm thời (thường chiếm trên dưới 80% tổng nguồn VLĐ).
Cũng qua bảng 09 cho thấy, trong cơ cấu nợ ngắn hạn thì các khoản vay ngắn hạn ngân hàng chiếm tỷ trọng cao (thường trên 35%), giá trị của chúng ngày một tăng tương ứng với sự gia tăng giá trị của nguồn VLĐ tạm thời.Có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ sau.
Biểu đồ 6: Biến động của vay ngắn hạn so với nợ ngắn hạn
1999 2000 2001 2002 Năm
Bên cạnh nguồn vốn vay ngắn hạn, một nguồn vốn nữa cũng góp phần đáng kể trong việc tài trợ cho nhu cầu về VLĐ của Công ty là các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ (chiếm trên 20% ---> trên 30% trong nguồn VLĐ tạm thời). Như vậy, để giảm chi phí huy động vốn, Công ty phải dùng tới hình thức chiếm dụng một phần vốn của các đơn vị nội bộ. So với việc đi vay ngân hàng, chi phí huy động vốn của cách thức này nhỏ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn này cao sẽ ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các đơn vị nội bộ, gây làn sóng ảnh hưởng chung tới toàn bộ hoạt động SXKD của Công ty. Nhìn vào bảng 07 ta nhận thấy các khoản mua chịu của Công ty cũng góp phần tài trợ cho nhu cầu về VLĐ (thường chiếm tỷ trọng từ 8 --->12% tổng nguồn VLĐ tạm thời). Trong nền kinh tế thị trường, việc mua chịu hàng hoá là một chính sách của các doanh nghiệp. Mức độ chiếm dụng vốn của đơn vị ngoài Công ty như vậy là khá hợp lý, nó cho thấy Công ty khá sòng phẳng trong quan hệ thương mại và đó cũng là dấu hiệu khả quan trong quan hệ thanh toán của Công ty.
Ngoài các nguồn trên, để thoả mãn cho nhu cầu về VLĐ, Công ty cũng đã tận dụng tới nguồn vốn từ các khoản thuế và phải nộp ngân sách nhà nước, phải trả công nhân viên và các khoản phải trả, phải nộp khác (chi phí dịch vụ mua ngoài chưa trả...). Tuy các nguồn vốn này chỉ chiếm vị trí thứ yếu (thường nhỏ hơn 4% trong cơ cấu nợ ngắn hạn), nhưng chúng đã góp phần đáp ứng cho nhu cầu về VLĐ của Công ty trong thời gian qua.
*Biến động của nguồn VLĐ
Qua biểu đồ 5 kết hợp với số liệu của bảng 10 ở trang sau, có thể thấy trong năm 2000 khi nguồn VLĐ tạm thời tăng thêm 22,94% so với năm 1999 thì vay ngắn hạn cũng tăng thêm 9,5%. Sang năm 2001, khi nguồn VLĐ tạm thời tăng thêm 7,52% so với năm 2000 thì vay ngắn hạn cũng tăng thêm một phần (1,31%). Đến năm 2002, tốc độ tăng của nguồn VLĐ tạm thời rất cao, lên tới 41,55% so với năm 2001 và vay ngắn hạn cũng tăng tốc không kém, lên tới 48,53% so với năm 2001. Điều này cho thấy, ở các năm 1999, 2000, 2001 Công ty đã có biện pháp hạn chế việc vay ngắn hạn ngân hàng. Nhìn vào bảng 10, có thể nhận ra rằng, Công ty đã dùng hình thức chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ thay vì vay ngân hàng, tỷ trọng khoản phải trả các đơn vị nội bộ năm 2000 tăng 66,05% so với năm 1999, năm 2001 tăng thêm 36,68% so với năm 2000.
Năm 2002, so với các năm trước đó, tỷ trọng mỗi khoản mục của nguồn VLĐ đều có biến động tăng thêm, trừ khoản phải trả các đơn vị nội bộ giảm đi 8,58% so với năm 2001. Trong khi đó, như đã phân tích ở trên, tỷ trọng khoản phải trả các đơn vị nội bộ ở các năm 1999, 2000, 2001 đều tăng lên đáng kể và khoản vay ngắn hạn chiếm vị trí quan trọng trong nguồn VLĐ tạm thời ở năm 2002.
Ngoài ra, ta còn thấy năm 2002 khoản phải trả cho người bán cũng tăng không kém cả về giá trị lẫn tỷ trọng so với năm 2001 (tăng 4.265.860.096 tức là 203,18%), nghĩa là thay vì chiếm dụng vốn của các đơn vị nội bộ, Công ty đã tích cực chiếm dụng vốn của các đơn vị bên ngoài để tài trợ cho hoạt động SXKD của đơn vị mình.
Hơn nữa, sự tăng tỷ trọng của các khoản mục nguồn VLĐ cho thấy, mục tiêu của Công ty năm 2002 là mở rộng phạm vi hoạt động SXKD. Quả vậy, năm 2002 Công ty thấy trước được diễn biến phức tạp của thị trường Xây dựng, đã điều chỉnh lại định hướng SXKD với mục tiêu “Nâng cao chất lượng Xây dựng công trình để cạnh tranh được ở các công trình vừa và nhỏ, đa dạng hoá sản phẩm và ngành nghề. Phát triển thi công sang lĩnh vực chuyên ngành Bưu chính Viễn thông, sản xuất các sản phẩm công nghiệp mà thị trường Bưu chính Viễn thông và thị trường Xây dựng còn tiềm năng ”.1 Phần 5 “Những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh doanh trong năm 2002’, Thuyết minh Báo cáo tài chính, Công ty Xây dựng Bưu Điện.
2.3 Quản lý vốn bằng tiền và các khoản phải thu
Để giúp cho việc quản lý được các khoản phải thu thì phải biết cách theo dõi các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thượng mại kịp thời. Thông thường, người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau:
- Kỳ thu tiền bình quân 1 George E. Pinches, Essentials of Financial Management, Harpen & Row, New York, 1992, Trang 486.
Thuật ngữ nguyên bản bằng tiếng Anh: “The Average Collection Period”
(ACP)
Các khoản phải thu
ACP = ------------------------ ( ngày)
Doanh thu tiêu thụ
365
Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của DN bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời.
- Xác định số dư khoản phải thu.
Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không phụ thuộc vào yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán và DN hoàn toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng đối với DN.
Quản lý tốt các khoản phải thu tức là DN đưa ra chính sách tín dụng hợp lý, giảm số ngày của kỳ thu tiền bình quân, giúp DN nhanh chóng thu được tiền bán hàng, tạo điều kiện mua sắm vật tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo.
* Quản lý các khoản phải thu
Trong cơ cấu VLĐ, các khoản phải thu luôn chiếm tỷ trọng rất cao (thường trên 70%). Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn và tốc độ quay vòng vốn của Công ty. Để có thể đánh giá chính xác về việc quản lý các khoản phải thu ta hãy xem xét chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân.
Dựa vào số liệu ở bảng 07 và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong 4 năm qua, ta tính được như sau:
Bảng 2.1 Sự thay đổi của kỳ thu tiền bình quân (ACP)
Năm
1999
2000
2001
2002
Kỳ thu tiền bình quân (ngày)
189
224
343
202
Bảng 2.1 cho thấy công tác quản lý các khoản phải thu của Công ty trong thời gian qua chưa được tốt. Công ty đã để cho khách hàng chiếm dụng khá lớn gây hiện tượng ứ đọng vốn trong khâu thanh toán lam cho việc sử dụng đồng vốn kém hiệu quả. Để thu hồi được một khoản phải thu, Công ty phải mất tới trên 7 tháng. Như vậy tốc độ luân chuyển VLĐ thấp. Tuy nhiên ta biết rằng do đặc điểm sản xuất của Công ty là sản phẩm cung cấp trong ngành Bưu chính - Viễn thông và cung cấp ngoài ngành là rất ít. Khách hàng thường mua dưới dạng cung cấp cho công trình dự án và thường các công trình này kéo dài ít nhất là một năm mới hoàn thành. Khi hoàn thành phẩi hoàn tất các thủ tục XDCB thì khách hàng mới quyết toán cho Công ty hoặc tạm ứng mỗi quý 1 lần, do vậy mà gây ra việc các khoản phải thu lớn trong tổng TSLĐ, làm chậm kỳ thu tiền bình quân. Năm 1999, kỳ thu tiền bình quân ngắn nhất so với các năm sau (189 ngày) do các khoản phải thu chỉ chiếm 61,27%, chiếm tỷ trọng ít nhất so với 3 năm sau.
Bước sang năm 2002, thời gian thu hồi vốn bình quân đã giảm hẳn so với năm 2001 (giảm 141 ngày) và 202 ngày là khoảng thời gian có thể chấp nhận được đối với một DN như Công ty Xây dựng Bưu điện. Như vậy, công tác quản lý các khoản phải thu của Công ty đã có biến chuyển tốt hơn, việc thu hồi nợ có bài bản hơn, kết quả khá hơn các năm trước nhưng so với nợ đọng hiện đang nằm ở các công trình, ở các chủ đầu tư thì đòi hỏi Công ty phải nỗ lực hơn nữa. Trong năm qua Công ty đã bảo vệ tốt quyết toán của 20 công trình XDCB trước cơ quan kiểm toán, số thu thanh quyết toán, thu nợ được 46.335 triệu đồng như vậy chủ các công trình chủ các đầu tư còn nợ 32.399 triệu đồng.
Tuy nhiên, tốc độ luân chuyển VLĐ không cao chỉ làm hạn chế hiệu quả sử dụng VLĐ chứ không phải là Công ty làm ăn kém hiệu quả bởi doanh số bán ra và lợi nhuận tại Công ty vẫn tăng qua các năm (trừ năm 2001, doanh thu và lợi nhuận giảm do Công ty chú trọng vào xây dựng cơ bản nội bộ), như đã phân tích ở các phần trên.
* Quản lý vốn bằng tiền
Về công tác quản lý sử dụng vốn bằng tiền trong thời gian qua chưa được tốt. Tỷ trọng vốn bằng tiền trong VLĐ là rất nhỏ mà khả năng chuyển đổi TSLĐ thành tiền của Công ty rất khó thực hiện. Điều này hiện rõ qua tỷ suất thanh toán của VLĐ như sau:
Bảng 2.2: tỷ suất thanh toán của vốn lưu động
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Tỷ suất thanh toán của VLĐ
0,07
0,02
0,03
0,02
Như vậy, tỷ suất thanh toán của VLĐ luôn nhỏ hơn 0,1. Thực tiễn hoạt động của các DN trong nền kinh tế thị trường đã cho thấy, nếu tỷ suất này mà lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
2.4 Quản lý hàng lưu kho và vấn đề thanh khoản
Hàng lưu kho và vấn đề thanh khoản là hai lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với việc quản lý vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Chúng ta làm rõ vấn đề nói trên như sau:
2.4.1 Quản lý hàng lưu kho
Cùng với các khoản phải thu, hàng lưu kho cũng có vị trí quan trọng trong cơ cấu VLĐ tại Công ty. Đặc biệt là một đơn vị sản xuất, Công ty rất cần chú ý tới công tác quản lý hàng lưu kho. Để đánh giá một cách cụ thể về việc quản lý hàng lưu kho trong thời gian qua, ta hãy xem xét chỉ tiêu “Vòng quay hàng lưu kho”.
Bảng 2.3: Sự thay đổi của vòng quay hàng lưu kho
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Vòng quay hàng lưu kho (Vòng)
3,72
5,34
3,31
8,27
Thời gian 1 vòng quay (ngày)
97
67
108
43
Bảng 2.3 cho thấy: Vòng quay hàng lưu kho có xu hướng tăng dần, ngoại trừ năm 2001, vòng quay này giảm xuống còn 3,31 do Công ty chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản nội bộ, không có điều kiện quan tâm tới tình hình bán hàng. Đây cũng là thiếu sót trong công tác quản lý chung của lãnh đạo Công ty vì đã không phối hợp nhịp nhàng các hoạt động sản xuất với hoạt động đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật.
Tuy vậy, nhờ sự đầu tư xây dựng cơ bản nội bộ, trang bị thêm máy móc, thiết bị của năm 2001, nên năm 2002 tốc độ luân chuyển hàng hoá của Công ty tăng nhanh, hàng hoá bán được nhiều hơn với doanh thu rất cao.
Đồng thời, ta cũng thấy trừ năm 2001 thì thời gian một vòng quay giảm dần, chứng tỏ công tác quản lý hàng lưu kho của Công ty đang có chuyển biến tốt và có nhiều triển vọng.
2.4.2 Quản lý thanh khoản
Khả năng thanh toán của Công ty tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của Công ty. Bởi vậy, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ, không thể không đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của Công ty trong 4 năm gần đây.
Để phân tích dược chính xác hơn chúng ta tiến hành tính toán các nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán sau.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán 1 George E. Pinches, Essentials of Financial Management, Harpen & Row, New York, 1992, Trang 65.
Tổng TSLĐ
Khả năng thanh toàn hiện hành = ----------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh, song chủ nợ ngẵn hạn sẽ tin tưởng hơn nếu chỉ tiêu này lớn hơn 2 lần. Nếu chỉ tiêu này <1; có nghĩa là DN có khả năng thanh toán thấp. Nếu chỉ tiêu này <2; lượng tài sản Có của DN là hợp lý.
Tổng TSLĐ - Lưu kho
Khả năng thanh toán nhanh = -----------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Nếu chỉ tiêu này ³1; nghĩa là DN không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Nếu chỉ tiêu này <1; DN dự trữ tài sản có tính thanh khoản cao ở mức hợp lý.
Tiền mặt
Khả năng thanh toán tức thời = ------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ lệ an toàn của chỉ tiêu này là bằng1.
Bảng 2.4: Khả năng thanh toán qua 4 năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Hệ số thanh toán hiện hành
Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán tức thời
1,17
0,8
0,084
1,14
0,88
0,018
1,21
0,93
0,04
1,28
1,06
0,02
Bảng 2.4 cho thấy, hệ số thanh toán hiện hành tại Công ty luôn lớn hơn 1, có nghĩa là Công ty luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, hệ số này ở mức thấp cho thấy Công ty luôn ở trong tình trạng tài chính căng thẳng, khả năng thanh toán các năm của Công ty chưa thật sự bảo đảm. Tuy nhiên, hệ số này tăng dần trong 3 năm gần đây cho thấy Công ty đã sử dụng VLĐ có hiệu quả hơn và công tác quản lý VLĐ cũng tốt hơn.
Bên cạnh đó, hệ số thanh toán nhanh của năm 1999, 2000, 2001 đều nhỏ hơn1. Như vậy trong những năm đó nếu Công ty có thu hồi được hầu hết các khoản phải thu thì cũng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán nhanh. Năm 2002, hệ số này khả quan hơn và lớn hơn 1 (=1,28), có nghĩa là lượng hàng lưu kho năm qua chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng TSLĐ (chiếm 17,37%) và công tác tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm của Công ty tốt hơn, bán được nhiều hàng hơn. Như vậy năm vừa qua Công ty đã có khả năng đáp ứng được yêu cầu thanh toán nhanh.
Thêm vào nữa, hệ số thanh toán tức thời trong thời đoạn qua đều rất thấp (nhỏ hơn 0,1). Năm 1999, hệ số này được 0,084 (cao nhất trong 4 năm), các năm sau giảm mạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9524.doc