Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1

1. Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1

1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1

1.1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1

1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 1

 1.2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 2

1.2.1. Các tiêu chí thường dùng 2

1.2.2. Các yếu tố tác động đến tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 2

1.2.3. Các tiêu chí phân loại được sử dụng ở Việt Nam 3

1.3. Vị trí và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 3

2. Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 4

2.1. Khái niệm về cạnh tranh 4

2.2. Tính quy luật của cạnh tranh 5

2.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 5

2.3.1. Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp 5

2.3.2. Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng 6

2.3.3. Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế 6

2.4. Các hình thức cạnh tranh chủ yếu 6

2.4.1. Theo tính chất cạnh tranh 6

2.4.2. Theo mức độ cạnh tranh 6

2.4.3. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường 7

2.4.4. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ 7

2.5. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu 8

2.5.1. Cạnh tranh bằng giá cả 8

2.5.2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm 9

2.5.3. Cạnh tranh bằng việc cung cấp các hoạt động dịch vụ 9

3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 10

3.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 10

3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 10

3.2.1. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp 10

3.2.2. Quy mô của doanh nghiệp 10

3.2.3. Năng suất lao động 11

3.2.4. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp 11

3.2.4. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường 12

3.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 12

3.3.1. Thị phần của doanh nghiệp 12

3.3.2. Tốc độ tăng doanh thu 12

3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận 12

3.3.4. Tỷ trọng chi phí 13

3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 13

3.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài 13

3.4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong 15

4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 17

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM 18

1. Những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 18

2. Sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .18

 2.1. Những ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 18

2.2. Thành tích cụ thể của các doanh nghiệp vừa vừa và nhỏ 19

3. Khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay 20

4. Cơ hội và thách thức mà hội nhập mang lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 28

5. Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu 29

 5.1. Một số chỉ tiêu đầu vào cơ bản 29

 5.2. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế 30

 5.3. Các chỉ tiêu đánh giá về sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 31

6. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 32

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM 33

1. Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ 33

2. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 35

LỜI KẾT 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2340 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thì phải mất bao nhiêu đồng chi phí. Nếu chỉ tiêu này quá cao thì chứng tỏ doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực là chưa hiệu quả và cần có biện pháp giảm chi phí để tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp8. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục,tr. 262. . 3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài gồm: * Môi trường vĩ mô * Môi trường vi mô (môi trường ngành) a. Môi trường vĩ mô Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị - pháp luật, văn hoá - xã hội, tự nhiên, công nghệ, tự nhiên... Các nhân tố có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới doanh nghiệp và doanh nghiệp không thể thay đổi nó mà cần phải biết thích nghi một cách sáng tạo. * Môi trường kinh tế: Tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế... Chúng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. * Môi trường chính trị - pháp luật: Luật doanh nghiệp, chính sách thuế, các quan điểm, đường lối của nhà nước... ngày càng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Một thể chế chính trị ổn định, pháp luật rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và ngược lại. * Môi trường khoa học công nghệ: Khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì nó sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những nguy cơ cho các doanh nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp ứng dụng những khoa học hiện đại để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn và ngược lại nó cũng có thể làm cho công nghệ hiện tại của doanh nghiệp trở nên lỗi thời. * Môi trường văn hoá - xã hội: Các yếu tố văn hoá - xã hội như phong tục tập quán, lối sống, thói quen... có ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của khách hàng. Nếu doanh nghiệp có sự hiểu biết và thích nghi sáng tạo về môi trường văn hoá - xã hội có thể tạo ra cho mình năng lực cạnh tranh cao hơn so với đối thủ. * Môi trường tự nhiên: Đó là các tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khoáng sản, nước... Nếu doanh nghiệp nào có thể khai thác hiệu quả, hợp lý các tài nguyên thiên nhiên thì có thể tạo dựng được cho mình năng lực cạnh tranh cao. * Môi trường quốc tế: Là các tiêu chuẩn kinh doanh của quốc tế, thông lệ quốc tế... Khi mà hội nhập ngày càng mở rộng thì nó mở ra cho các doanh nghiệp cơ heir và những thách thức, do đó có thể làm tăng hoặc giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. b. Môi trường vi mô So với môi trường vĩ mô, môi trường vi mô có tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành. Theo M.Porter thì có 5 lực lượng chính có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: * Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Đó là những doanh nghiệp cùng tạo ra và cung ứng một loại sản phẩm trên cùng một thị trường giống doanh nghiệp. Cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp thường là gay gắt nhất. Nếu đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn hơn so với doanh nghiệp thì sẽ là mối đe doạ lớn đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn thắng được các đối thủ cạnh tranh thì cần phải nghiên cứu về họ thật thận trọng để có thể đưa ra những chiến lược tác chiến hợp lý. * Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Đó là những người có dự tính sắp gia nhập thị trường, những người mới gia nhập. Sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh tiềm năng làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, có thể là yếu tố làm thu hẹp thị phần, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. * Những nhà cung cấp: Đó là những người cung ứng những đầu vào cho doanh nghiệp. Nhà cung ứng có thể áp lực mạnh cho doanh nghiệp về giá, khối lượng khiến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao do đó có thể làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải lựa chọn cho mình nhà cung ứng tốt nhất với giá cả và khối lượng ổn định. * Khách hàng: Khách hàng là người có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của doanh nghiệp. Nếu khách hàng ép giá, giảm khối lượng mua, yêu cầu chất lượng cao hơn mà mức giá như cũ hay yêu cầu cung cấp nhiều dịch vụ hơn hoặc từ bỏ doanh nghiệp để lựa chọn doanh nghiệp khác thì có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm sự cạnh tranh của doanh nghiệp so với những đối thủ cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp muốn thành công thì phải tạo dựng được lòng tin nơi khách hàng bằng cách thoả mãn tốt nhu cầu, thị hiếu... của khách hàng. * Sản phẩm thay thế: Khi giá cả mặt hàng mà doanh nghiệp cung ứng cao thì khách hàng có xu hướng sử dụng các sản phẩm thay thế. Nó có thể làm giảm thị phần và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp9. Tham khaỏ: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống Kê, 1997, tr. 41 - 71. . 3.4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong Đó là những tiềm lực mà doanh nghiệp sử dụng để tạo ra những lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh. * Nguồn nhân lực: Yếu tố con người có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ công nhân viên lành nghề, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc, đoàn kết, trung thành với doanh nghiệp thì đó sẽ là cơ sở làm tăng năng suất cho doanh nghiệp, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, có đức hạnh, nghị lực, nhạy bén với cơ chế thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có chiến lược cạnh tranh đúng đắn, dẫn dắt doanh nghiệp đi tới được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. * Nguồn tài chính của doanh nghiệp: Vốn là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một nhân tố quyết định tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có quy mô tài chính lớn, khả năng huy động vốn tốt, chi phí huy động vốn thấp, cơ cấu tài chính hợp lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn sẽ cho phép doanh nghiệp theo đuổi những chiến lược lâu dài, thích ứng với những điều kiện biến động... và dành thắng lợi trong cạnh tranh. * Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp: Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp là một yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm. Do đó, nó có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiêp có máy móc với công nghệ hiện đại, cập nhật, sẽ cho phép doanh nghiệp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. * Cơ cấu tổ chức: Nếu doanh nghiệp có một cơ cấu thích hợp và linh hoạt sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh và có khả năng ứng biến với những sự thay đổi của môi trường. * Văn hoá doanh nghiệp: Doanh nghiệp mà có bầu không khí và nề nếp tổ chức tốt, phát triển được các mối quan hệ phi chính thức tốt đẹp của doanh nghiệp, ban lãnh đạo có sự quan tâm tới người lao động, các thành viên đoàn kết, cởi mở sẽ khuyến khích các thành viên của doanh nghiệp hoạt động tích cực, có hiệu quả từ đó làm cho hoạt động của doanh nghiệp tăng lên, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp10. Tham khaỏ: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống Kê, 1997, tr. 79 - 97. . 4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Cạnh tranh đó là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh có hai mặt, một mặt nó đào thải những doanh nghiệp yếu kém, mặt khác nó kích thích các doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện nhằm tạo ra những lợi thế so sánh quan trọng để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường phức tạp và luôn biến động. Hơn nữa, để có thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Việt Nam chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với các nước trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu trong nước. Với tinh thần đó, nước ta đã gia nhập ASEAN, APEC, cam kết thực hiện AFTA và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi có đủ điều kiện. Khi tham gia hội nhập, thì các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ có điều kiện tiếp cận với các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến và tiếp cận, tham nhập thị trường thế giới. Nhưng khi Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế thế giới thì đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan, phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn với hàng nhập khẩu, với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên sân nhà. Mặc dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta với sự năng động, nhạy bén với cơ chế thị trường đã và đang khẳng định vai trò to lớn của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng thực tế cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với sự xâm nhập và bành trướng của các công ty đa quốc gia, và sự đòi hỏi đáp ứng ngày càng cao của thị trường về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, giá cả, các dịch vụ bổ sung... thì sức ép phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể thích nghi được với những điều kiện, đòi hỏi mới là một vấn đề thật sự cấp bách. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM 1. Những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - Việt Nam là một nước kinh tế còn kém phát triển nên sản xuất nhỏ là chủ yếu, do đó, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số. - Về sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 97%, doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 3%). - Phân bổ không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. - Trình độ quản lý, công nghệ, trình độ văn hoá kinh doanh còn thấp. - Xu hướng tập trung vào các ngành có vốn thấp, thu hồi vốn nhanh. - Nhà nước chỉ mới có những định hướng lớn khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp tự lo là chính. - Thiếu sự hỗ trợ của các hội nghề nghiệp, các trung tâm tư vấn và các doanh nghiệp lớn. 2. Sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua 2.1. Những ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - Dễ thành lập vì đòi hỏi vốn ít (có thể với vốn tự có, vốn vay mượn người thân, tổ chức tín dụng), diện tích mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản. - Quy mô nhỏ, năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh. - Nhạy bén với cơ chế thị trường, dễ gia nhập và rút lui. - Dễ đổi mới trang thiết bị, công nghệ, chúng gắn liền với công nghệ trung gian là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. - Thu hút lao động với chi phí thấp và do đó có thể giảm chi phí, hạ giá thành. - Khai thác được thị trường trong nước... 2.2. Thành tích cụ thể của các doanh nghiệp vừa vừa và nhỏ Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng quan trọng vì nước ta có trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khá lớn, cả nước đã có hơn 130.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký kinh doanh chiếm 97% tổng số doanh nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp nhà nước chiếm 3,5%, còn lại chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm xấp xỉ 97%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 17%, xây dựng 14%, nông nghiệp là 14%, còn lại 55% số doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ11. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19. .Và trong những năm qua doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của đất nước. Cụ thể: - Hàng năm đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, nộp ngân sách nhà nước 14%12. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19. . - Đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2003 ước tính chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (không tính đến kim ngạch xuất khẩu dầu thô). Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu liên tục tăng: theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2000 có 12.674 DN; năm 2001, 2002 tương ứng là 17.070 DN và 23.330 DN; tính đến tháng 10/2003 có khoảng 29.450 DN tham gia xuất khẩu13. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 15 – 2004, tr.6. . Và chắc chắn rằng hết năm 2004 này thì kim ngạch xuất khẩu cũng như số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu sẽ còn tăng cao hơn nữa. - Thu hút được nhiều lao động với chi phí thấp (chi phí cho một chỗ việc làm ở doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ bằng 3 - 10% so với các doanh nghiệp lớn), hàng năm tạo việc làm cho khoảng 25% lực lượng lao động trong cả nước14. Tạp chí: T ài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19. . - Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần khai thác tiềm năng phong phú trong dân: Vì hiện nay, còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, bí quyết nghề. - Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua đã cho phép đào tạo, phát triển nhiều cán bộ quản lý có trình độ, năng động và nhiều lao động có trình độ chuyên môn cho đất nước. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Trong những năm qua nhờ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đã góp phần phát triển nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng. - Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn: Do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên rất lớn, nên làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu qủa hơn: làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp các đầu vào, có thể thâm nhập mọi thị trường ngõ ngách mà doanh nghiệp lớn không chú ý tới... 3. Khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay Nhìn chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, so với các nền kinh tế trong khu vực thì con số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Ví dụ như ở Đài Loan có tới 1triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ/23 triệu dân. Một nền kinh tế chỉ được coi là phát triển nếu có tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ so với tổng số dân là 1/2014. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 9 - 2003, tr. 16. . Hơn nữa, tiềm lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế. Cụ thể là: * Khó khăn về vốn: Đối với doanh nghiệp nói chung thì vốn là một trong những nhân tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, không chủ động, khó đổi mới nếu tiềm lực tài chính hạn hẹp. Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ tình trạng thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất. Nguyên nhân chủ yếu là do: - Thực tế thì các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn tự có hoặc huy động từ người thân, bạn bè và những khoản vay tín dụng không chính thức (tới 80%), và chỉ có 20% là vay tín dụng ngân hàng nên khối lượng huy động được có quy mô nhỏ mà mức lãi suất lại thường cao (cao hơn từ 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức)16. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr 13. . Vì vậy chí phí vốn rất lớn, mức độ rủi ro cao, làm tăng chi phí sản xuất nói chung. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn. Thật vậy: + Nhiều năm qua đã có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thật vậy: Các doanh nghiệp nhà nước có thể nhận được sự bảo lãnh của nhà nước đối với các khoản vay, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó có được sự bảo lãnh đó; các doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn thì không cần tài sản thế chấp trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bắt buộc phải có tài sản thế chấp thì mới được vay vốn mà kể cả khi có tài sản thế chấp rồi các doanh nghiệp cũng chỉ được vay tối đa 80% giá trị tài sản thế chấp (trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ được vay khoảng 50% giá trị tài sản thế chấp)17. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 9 - 2003, tr. 16. . Những điều kiện này phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay không đáp ứng được. Về khung pháp lý, trong khi luật pháp quy định khá chi tiết chính sách tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước nhưng lại bỏ ngỏ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Sự thành kiến của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay một khoản không lớn nhưng mức độ phức tạp và độ rủi ro có thể lớn hơn hoặc bằng việc cho một doanh nghiệp lớn vay, hiệu quả sử dụng vốn thấp, lợi nhuận đem lại không cao. + Thủ tục vay phức tạp, việc thẩm định các dự án đầu tư để cho vay quá cứng nhắc làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể đáp ứng được khi muốn vay tín dụng từ các tổ chức chính thức và các phương thức định giá tài sản thế chấp không rõ ràng và các ngân hàng làm việc này một cách chuyên quyền và độc đoán nên bản thân các doanh nghiệp nhiều khi cũng không muốn vay. + Mặt khác thì thị trường chứng khoán tại Việt Nam còn rất non trẻ mà đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là rất khó khăn do các doanh nghiệp này khó có thể đáp ứng được các yêu cầu (đặc biệt là vốn để niêm yết), việc huy động vốn dưới hình thức chứng khoán khó có thể triển khai, các doanh nghiệp này cũng khó tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài. Chính vì vậy mà hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thực hiện chính sách vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Mà đây lại là một điều tối kỵ, vi phạm nguyên tắc sử dụng vốn trong kinh doanh. Khi đầu tư theo quy trình ngược này thì tất yếu hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao; thậm chí có doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến thâm hụt đầu tư, phá sản doanh nghiệp. - Thêm vào đó, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện tại chưa cao. Một hiện tượng phổ biến là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bán hàng trả chậm rất nhiều và khó thu hồi vốn. Tình trạng nợ nần dây dưa, khó đòi, chiếm dụng vốn lẫn nhau ngày càng nghiêm trọng làm cho tốc độ lưu chuyển vốn thấp và dẫn đến tình trạng thiếu vốn. * Thực trạng về nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ: - Nhìn chung, chất lượng lao động ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp, lao động ít được đào tạo chính quy mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, kinh nghiệm. Gần 75% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông, chỉ có khoản 5,3% lao động ngoài quốc doanh có trình độ đại học mà lại tập trung chủ yếu ở cá công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần18. Tạp chí : Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 13. . Hơn nữa, lao động ít được đào tạo tay nghề và nâng cao tay nghề nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá. - Năng lực và hiệu quả quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu kém: Đội ngũ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo đầy đủ.Trong năm 2002 - 2003, số chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã qua đào tạo đại học chỉ chiếm khoảng 20 - 30%, 15 - 20% các chủ doanh nghiệp đã qua các trường dạy nghề19. Tạp chí : Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 13. . Các chủ doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và các mối quan hệ thân quen, chưa đáp ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường, điều kiện hội nhập quốc tế. - Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược nhân sự, chưa có sự quan tâm thích đáng đến sự đào tạo và phát triển lao động. Những yếu kém của nguồn nhân lực trong những doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nguyên nhân làm cho năng suất lao động, hiệu quả sản xuất thấp, giá thành sản phẩm tăng, làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này. * Trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ở mức thấp và chậm tiến bộ: Theo đánh giá thì phần lớn công nghệ mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang sử dụng đã trở nên lạc hậu từ 1 - 2 thế hệ (hơn 70% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50 - 60 của thế kỷ 20). Ngay cả trong các ngành dệt may - ngành đòi hỏi phải áp dụng những công nghệ mới vì luôn phải đáp ứng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng ngày càng cao thì ngành dệt vẫn còn gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao và mới đáp ứng được khoảng 30% nguyên liệu cho may xuất khẩu, còn ngành may mặc thì máy móc, thiết bị đã lạc hậu từ 5 - 7 năm, phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15 - 20 năm so với nhiều nước trong khu vực20. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2003, tr. 18. . Trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu nhiều thế hệ so với các nước trong khu khu vực, do đó, gây lãng phí năng lượng, nguyên nhiên vật liệu, ô nhiễm môi trường, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành cao nên rất khó cạnh tranh với thị trường trong nước và quốc tế. Sở dĩ có tình trạng trên là do: + Tiềm lực vốn của các doanh nghiệp rất nhỏ, hơn nữa lại rất khó vay được một khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết để nâng cấp công nghệ. + Một số các quy tắc, chính sách và thủ tục hiện hành làm cho việc chuyển giao công nghệ từ ngoài vào Việt Nam khó khăn và tốn kém. + Rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc, thiết bị quốc tế do thiếu những thông tin về thị trường này. + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến công nghệ. * Thiếu mặt bằng sản xuất: Đây là một thực tế phổ biến đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đại đa số các doanh nghiệp này phải tự xoay sở, tìm kiếm đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, để có đất các doanh nghiệp này phải mua lại đất của người khác với chí phí rất cao. Mặt khác, diện tích đất nhà nước có để cho thuê thường quá ít so với nhu cầu ở một số tỉnh thành phố tập trung nhiều doanh nghiệp mà nếu có để cho thuê thì giá lại rất cao, phải trả tiền một lần cho thời gian dài từ 10 - 50 năm. Điều này vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và chi phí đất cao dẫn đến chi phí sản xuất nói chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng khiến giá thành sản phẩm tăng, giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Khó khăn về thị trường: Khó khăn về thị trường là một trong những khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân: Từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ và từ môi trường bên ngoài. - Về phía doanh nghiệp: Phải thừa nhận rằng năng lực thị trường, năng lực cạnh tranh của hàng hoá ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu do: + Vì không có chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn theo kiểu thời vụ. + Thiếu thông tin về thị trường: Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và các đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Dó đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển sản xuất những gì thị trường cần mà chủ yếu sản xuất, kinh doanh và bán những gì mà mình có nên năng lực cạnh tranh chưa cao. + Sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực cạnh tranh rất yếu: sản phẩm thường có chất lượng thấp, mẫu mã xấu mà giá thành lại cao do chi phí đầu vào quá cao nên trong nước rất khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu thường có chất lượng cao hơn, mẫu mã đẹp hơn và nhiều khi giá thành của chúng lại còn rẻ hơn. Nhiều sản phẩm không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu chứ không nói gì đến việc cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác trên thị trường quốc tế. Và phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế vì các chi phí sản xuất rất cao so với các nước khác đặc biệt là các nước Đông Nam Á (những nước mà thường có chung thị trường với ta). + Do chưa nhận rõ vai trò của thương hiệu nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm đến việc xây dựng và đăng ký bảo hộ thương hiệu. Trong số 100.000 nghìn thương hiệu được bảo hộ ở nước ta thì số doanh nghiệp trong nước đăng ký chỉ có 20% và đến nay chỉ có 43 doanh nghiệp đăng ký ra nước ngoài. Theo kết quả thăm dò, trong số các doanh nghiệp được hỏi thì có đến 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 5% cho việc xây dựng thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu21. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2004, tr. 18. . Tình trạng đó đã dẫn đến sự thua thiệt lớn của một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường nước ngoài, đã có những thương hiệu có tên tuổi của ta bị đăng ký mất chẳng hạn như cà phê Trung Nguyên, Vinataba, Petro... + Các doanh n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTO012.doc
Tài liệu liên quan