MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN QUA Ở TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN VÀ THƯƠNG MẠI HÀ TĨNH 3
1.1. Giới thiệu tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty 3
1.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty 3
1.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty 3
1.1.1.2. Lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của công ty 4
1.1.1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty 5
1.1.2. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 9
1.2. Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển của công ty trong giai đoạn 2004-2008 10
1.2.1. Tình hình huy động vốn phục vụ cho đầu tư phát triển 10
1.2.1.1. Quy mô huy động vốn đầu tư trong giai đoạn 2004-2008 10
1.2.1.2. Cơ cấu vốn đầu tư huy động 12
1.2.2. Tình hình đầu tư phân theo các dự án 14
1.2 Tình hình đầu tư phân theo lĩnh vực đầu tư 22
1.2.3.1. Đầu tư nâng cao năng lực của đội ngũ lao động 25
1.2.3.2 Đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh. 27
1.2.3.3. Đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ 27
1.2.3.4. Đầu tư cho công tác tổ chức bộ máy cán bộ quản lý 28
1.2.3.5. Đầu tư vào tài sản cố định 29
1.3. Đánh giá công tác đầu tư phát triển của công ty trong giai đoạn 2004-2008 30
1.3.1. Kết quả đầu tư phát triển của công ty 30
1.3.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân 38
1.3.2.1. Những hạn chế còn tồn tại 38
1.3.2.2. Những nguyên nhân chung của các hạn chế trên là: 44
CHƯƠNG II : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIÊN TẠI TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN VÀ THƯƠNG MẠI HÀ TĨNH. 46
2.1. Định hướng phát triển của công ty đến năm 2010 46
2.2. Giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển của công ty 49
2.2.1. Giải pháp về huy động vốn 49
2.2.2. Giải pháp đầu tư cho khoa học công nghệ 51
2.2.3. Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực 53
2.2.4. Giải pháp đầu tư vào hoạt động marketing để mở rộng thị trường. 56
2.2.5. Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng. 60
2.2.6. Nâng cao chất lượng quản lý các dự án đầu tư của tổng công ty. 61
2.2.6.1. Công tác lập và thẩm định dự án đầu tư 61
2.2.6.2. Công tác quản lý dự án đầu tư 62
2.2.6.3. Công tác quản trị rủi ro các dự án đầu tư 63
2.3. Một số kiến nghị đối với nhà nước 64
2.3.1. Công tác quản lý nhà nước trong khai thác khoáng sản và quản lý đầu tư. 64
2.3.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về khai thác khoáng sản. 65
2.3.3. Hỗ trợ vốn 66
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6-2008
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
2008
I
Các chỉ tiêu về SX
SP Ilmenite
Tấn
87,055.00
83,721.87
37,908.00
Zircon siêu mịn
Tấn
1,424.00
3,290.00
1,918.05
SP Rutile
Tấn
1,810.00
3,167.00
1,119.00
Than
Tấn
4,383.00
714
-
Mangan
Tấn
29,753.00
30,243.70
14,505.00
Vàng
Kg
-
-
-
Thạch cao
Tấn
62,582.50
80,300.00
100,036.00
Bột thạch cao
Tấn
-
-
-
Gạch không nung
Tr.viên
1.98
1.38
0.95
Khai thác đá xây dựng
M3
30,403.90
125,086.00
80,042.00
Rau quả đóng lọ
Lọ
34,201.00
22,848.00
-
May Xuất khẩu
SP
136,028.00
195,189.00
150,390.00
Thức ăn gia súc
Tấn
1,473.17
8,269.15
7,027.00
Lợn siêu nạc
Tấn
507
1,029.00
674
Xuất khẩu lao động
Người
511
783
259
II
Các chỉ tiêu về tài chính
Tổng doanh thu
Tỷ đ
472.41
598.893
808.432
Kim ngạch xuất khẩu
Tr.USD
15.05
13.665.668
17.196.444
Cơ cấu doanh thu
KTCB Khoáng sản
%
57.56
42.34
89.47
TM, KS-DL,DV khác
%
42.44
57.66
114.53
Nộp Ngân sách
Tỷ đ
22.11
32.05
58.396
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ đ
62.63
35.068
32.948
Lương bình quân
Tr.đ/t
1.3
1.55
1,708
Nguồn: Phòng TC-KT Tổng công ty
Qua các số liệu thống kê 3 năm gần đây ở trên cho thấy Tổng Công ty phát triển không ngừng và lớn mạnh.
Về mặt doanh thu, doanh thu của năm 2006 là 472.41 tỷ đồng, năm 2007 là 598.893 tỷ đồng, năm 2008 là 808.432 tỷ đồng. Ta thấy rằng doanh thu tăng đều, tăng mạnh qua các năm, năm 2007 tăng 26,7% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 35,05% so với năm 2007. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều bất ổn ( lạm phát rồi sau đó là giảm phát) như cuối năm 2007 cho đến hết năm 2008, nhiều dự án đã phải chấm dứt đầu tư hay là chậm tiến độ, sản phẩm làm tuy bán được với giá thành cao trên thị trường song các chi phí liên quan cũng tăng đáng kể…Vượt lên những khó khăn đó, Tổng công ty đã có những bước phát triển đúng đắn về chất lượng, mẫu mã, giá thành sản phẩm…cũng như các công tác khác như thị trường, các nguồn huy động vốn…
Về lợi nhuận sau thuế, năm 2006 lợi nhuận của Tổng công ty là: 62.63 tỷ đồng đồng nhưng đến năm 2007 thì sụt giảm và chỉ còn 35.068 tỷ đồng (tức chỉ bằng 57,87% so với lợi nhuận năm 2006) và năm 2008 lợi nhuận của công ty là 32.948 tỷ đồng giảm 2.12 tỷ đồng so với năm 2007). Mặc dù doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm do trữ lượng khoáng sản chính là Titan giảm đáng kể, mà Titan là sản phẩm mang về lợi nhuận nhiều nhất, nếu không muốn muốn nói là siêu lợi nhuận. Hơn nữa, lượng quặng Titan khai thác cũng hạn chế để giành nguyên liệu cho nhà máy Titan Pigment sắp được triển khai. Một lý do nữa là trong 2 năm vừa rồi do có nhiều dự án được triển khai nên công tác GPMB cũng vì thế mà nhiều hơn, chi phí cho công tác này tăng cao dẫn đến lợi nhuận giảm…
Tốc độ tăng trưởng hàng năm cao, trung bình tăng 31%/năm và mở rộng sản xuất kinh doanh sang nhiều mặt hàng mới như: khai thác, chế biến mangan, than, vàng, kinh doanh thêm các mặt hàng, dịch vụ: xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng cao cấp, khách sạn du lịch, nhà hàng siêu thị, thủy điện, …. (chi tiết xin mời xem bảng kết quả của các dự án nói ở trên).
Do hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nên Công ty đã bảo toàn và phát triển được vốn Nhà nước giao. Đến nay tổng số vốn Nhà nước tại Công ty là: 250.500.443.621 đồng Việt Nam (Hai trăm năm mươi tỷ, năm trăm triệu, bốn trăm bốn ba ngàn, sáu trăm hai mốt đồng Việt Nam).
Trong những năm qua Công ty đã tạo được niềm tin và sự tín nhiệm cao của khách hàng, uy tín của Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh đã được khẳng định trên thị trường trong nước và ngoài nước, đặc biệt là thị trường Nhật và Mỹ đã tin tưởng rất cao các sản phẩm ilmenite, zircon của Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh. Đây là những mặt hàng chủ đạo của Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh có thị phần rất lớn và ổn định tại hai thị trường trên.
Bảng 1.9: Doanh thu của các đơn vị hạch toán độc lập của TCTGiai đoạn 2006-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Đơn vị
2006
2007
2008
Công tyCPV.tải - XD
15067.809
17456.258
20125.452
CTCP CNTT L.Hồng
11123.21
13213.225
15254.785
CTCP KS Mangan
24239.203
26585.214
29474.145
CTCP Thiên ý
6100.31
7854.478
9879.698
CTCP Thương mại
113331.54
119852.236
128455.885
CTCP May
7023.137
6214.325
8215.565
CTCP VL - XL
10111.445
12744.163
15546.312
CTCP ASIA Control
885.442
1225.326
2452.254
CT Việt - Lào
66000
75500
81520.7
Cảng Hà Tĩnh
74821
78720
82521.9
Nguồn: Phòng tài chính Kế toán TCT
Với các dự án đã đi vào hoạt động thì kết quả đầu tư theo các dự án đã thực sự có những biến chuyển tích cực. Thể hiện ở sự gia tăng các sản phẩm chủ lực của Tổng công ty như:
Zircon siêu mịn và Rutile: Từ năm 2006 đến nay sản xuất cả hai loại sản phẩm này đều tăng, tuy nhiên tăng không đáng kể là do phụ thuộc vào quá trình khai thác và tuyển tách Ilmenite cũng như nhu cầu của thị trường. Việc đầu tư công nghệ tốt nhất cho nhà máy Zircon siêu mịn thực sự đã mang lại hiệu quả cao, sản phẩm làm ra đã được các thị trường khó tính như Nhật Bản, Chậu Âu…chấp nhận. Trong những năm qua, 2 sản phẩm này luôn mang lại lợi nhuận cao nhất cho Tổng công ty.
+ Than: Việc đầu tư dây chuyền công nghệ, nguồn nhân lực…cho công ty than, trong những năm 2006, 2007 và trước đó nữa, thực sự đã mang lại hiệu quả, đơn vị luôn làm ăn có lãi, làm lợi cho Tổng công ty nói chung và toàn thế cán bộ công nhân viên đơn vị nói riêng. Nhưng từ đầu năm 2008 đã ngừng khai thác than do cơ bản trữ lượng mỏ đã khai thác hết, chất lượng của than khai thác thấp không đáp ứng được yêu cầu của thị trường, do công nghệ sau nhiều năm khai thác đã lỗi thời, sản phẩm có chất lượng không được khách hang chấp nhận. Việc đầu tư để tìm những mỏ than mới và cái tiến công nghệ đang được Tổng công ty thực hiện song hiệu quả của dự án này theo em không còn được khả thi, nên dành vốn và các nguồn lực khác đầu tư vào những dự án mang lại hiệu quả cao hơn
+ Vàng: Trong những năm 2003-2005 Tổng công ty đã đầu tư dây chuyền khai thác cũng như một số lượng nhân công…để khai thác mỏ vàng nằm cách xa TP Hà Tĩnh, trong những năm đó dự án thực sự đã mang lại hiệu quả, lợi nhuận đưa lại cho Tổng công ty cũng tương đối lớn. Song 3 năm trở lại đây dự án đã ngừng khai thác vì trong quá trình khai thác gặp nhiều khó khăn và chi phí cho quá trình khai thác tương đối lớn. Thiết nghĩ Tổng công ty cho dừng không đầu tư vào dự án này là một quyết định đúng đắn khi mọi vấn đề liên quan đến dự án này đều không thuận lợi, từ vị trí địa lý, giao thông đi lại, đến các chi phí cho nhân công ăn ngủ tại chỗ trong khu khai thác, công nghệ tuyển vàng khá lạc hậu…
+ Thạch cao: Năm 2007 tăng với năm 2006, nhưng vẫn không đạt kế hoạch là 120.000 tấn năm 2006. Tuy nhiên, trong năm 2008 đạt 210.036 tấn, vượt gần gấp 2 lần so với năm 2007, nếu duy trì được tốc độ như trên thì việc thực hiện 300.000 tấn/năm 2010 là hoàn toàn có thể. Nguyên nhân là do nhu cầu về thị trường thạch cao ngày càng lớn , các mỏ thạch cao có trữ lượng lớn. Việc Tổng cho đầu tư vào dự án thạch cao tại Lào là một quyết định đầu tư hết sức đúng đắn, không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn mang lại một hiệu quả xã hội không nhỏ. Dự án thành lập và đi vào hoạt động đã giải quyết một lượng không nhỏ lao động tại đất nước Lào, đóng góp vào ngân sách nước bạn…Hơn nữa, trong những năm qua và nhất là thời gian tới, nhu cầu thạch cao sẽ không ngừng tăng, nhất là trong lĩnh vực trang trí nhà cửa. Hiện tại Tổng công ty đang cho đầu tư xây dựng nhà máy nghiền bột thạch cao tại Lào, dự án hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nữa.
+ Mangan: Sản phẩm Mangan duy trì được trên dưới 30.000 tấn/năm nhưng không đạt được kế hoạch là 45.000 tấn/năm. Nguyên nhân chủ yêu là do diện tích mỏ khai thác mangan đang ngày càng thu hẹp, một số mỏ đã ngừng khai thác do trữ lượng khai thác đã hết, ví dụ như xưởng khai thác mangan ở Phú Lộc. Việc Tổng công ty đầu tư một lượng lớn về máy móc thiết bị, nguồn nhân lực…cho công ty Mangan chưa thực sự mang lại hiệu quả tối ưu, vì trữ lượng mangan không lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Trong thời gian tới Tổng công ty nên thanh lý một số dây chuyền công nghệ để tái đầu tư vào các dự án khác mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Gạch không nung: Tổng công ty đã đầu tư một lượng vốn không nhỏ cho xí nghiệp gạch không nung. Khi sản phẩm làm ra, thực sự đã mang lại hiệu quả hết sức to lớn, hầu như các vỉa hè trên đường phố Hà Tĩnh đều lát bằng gạch của xí nghiệp gạch ngói không nung. Trong những năm qua, nhìn chung sản lượng sản xuất ra thì cũng có giảm so với kế hoạch đặt ra là 1,5 triệu viên/năm nhưng không đáng kể, nguyên nhân là do vẫn duy trì được thị trường và chất lượng sản phẩm.
+ Đá hộc: Với mức sản lượng khai thác biến động như trên, kế hoạch đến năm 2010 đạt 400.000 m3/năm là điều vô cùng khó khăn. Việc Tổng công ty đầu tư vào dự án này cũng đã gặp nhiều khó khăn do mỏ ở xa, quảng đường vận chuyển dài nên việc tiêu thụ sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều công ty tham gia khai thác đá nên gặp phải sự cạnh tranh. Tuy nhiên, do nhu cầu thị trường xây dựng lớn nên việc tiêu thụ tương đối tốt. Nên dự án vẫn mang lại hiệu quả tương đối cho Tổng công ty.
+ Rau quả đóng lọ: Tư năm 2003 Tổng công ty đã đầu tư lượn vốn không nhỏ vào dự án sản xuất rau quả đóng lọ. Đây là bước đi chưa thực sự hợp lý của Tổng công ty, vì rất nhiều nguyên nhân, như: chưa xây dựng được nguồn cung cấp nguyên liệu đầy đủ, chưa tìm hiểu kĩ về như cầu thị trường cũng như việc maketting kém kỏi khi đã làm ra sản phẩm…chính vì những nguyên nhân lớn làm dự án dừng lại và sản xuất rau quả đóng lọ đã ngừng từ nửa cuối năm 2007. Có thể nói trong những dự án mà Tổng công ty đầu tư thì đây là dự án kém hiệu quả nhất, nếu không muốn nói là đã thua lỗ do phải nuôi một lượng không nhỏ nhân viên cũng như nông dân trồng nguyên liệu…trong khi sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Tổng công ty cần rút kinh nghiệm trước khi bỏ vốn đầu tư vào một dự án mà chưa thực sự nghiên cứu kĩ về nó.
+ May xuất khẩu: Việc Tổng công ty đầu tư vào ngành may mặc bằng cách mua lại công ty may xuất khẩu Thành Công đang trên đà phá sản, thực sự đã mang lại hiệu quả. Sau khi mua lại công ty may, Tổng đã đầu tư một lượng vốn không nhỏ để nhập dây chuyền công nghệ hiện đại, xây dựng nhà xưởng mới…và cuối cùng, tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2008 đã vượt xa kế hoạch của năm 2010 đặt ra. Lợi nhuận mang lại cho Tổng công ty là không nhỏ Nguyên nhân là do trong những thời gian qua, ngành may mặc trong nước đang phát triển đáng kể, nên rất thuận tiện cho ngành may mặc phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây thực sự là một bước đi đúng đắn của Tổng công ty trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
+ Thức ăn gia súc: Dựa trên số liệu thực hiện được ở trên so với kế hoạch đặt ra là 32.000 tấn/năm2006 và 100.000 tấn/năm 2010 là điều không thể thực hiện được. Nguyên nhân là vì thị trường tiêu thụ chưa lớn, thu mua nguyên liệu đầu vào ngày càng nhiều khó khăn do tác động của nền kinh tế, nên các chi phí thu mua nguyên liệu tăng lên đáng kể. Tổng cần ty cần đầu tư nhiều hơn nữa vào dự án này, nhất là khâu maketting, nhằm tiêu thụ sản phẩm được nhiều hơn nữa, do sản phẩm phải cạnh tranh với nhiều loại đã có mặt trên thị trường lâu rồi.
+ Lợn siêu nạc: Việc đầu tư vào dự án chăn nuôi lợn siêu nạc gặp là một dự án đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh thị trường hiện nay, song dự án vẫn gặp nhiều khó khăn nguyên nhân là trong thời gian qua do sự bùng phát của dịch lợn tai xanh nên hạn chế đầu tư, cũng do dịch lợn tai xanh đã tác động đáng kể đến hiệu quả của công tác chăn nuôi. Dịch lợn tai xanh là nguyên nhân chủ yếu làm cho hoạt động chăn nuôi không đạt được kế hoạch đặt ra của Tổng công ty. Trong thời gian tới nếu Tổng công ty nói chung và công ty lợn siêu nạc nói riêng tập trung đầu tư hiệu quả những vấn đề còn yếu thì dự án chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao cho toàn Tổng công ty.
+Xuất khẩu lao động: hai năm 2006 và 2007 xuất khẩu lao động vượt kế hoạch đặt ra, và nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lao động như năm 2007 so với 2006 thì việc thực hiện xuất khẩu 1000 lao động/năm 2010 là hoàn toàn có thể. Nguyên nhân là do nhu cầu về xuất khẩu lao động đi các nước ở Việt Nam đang ngày càng nhiều. Nhu cầu thị trường lao động xuất khẩu nhiều kết hợp với uy tín của thương hiệu Mitraco hoàn toàn có thể giúp Công ty cổ phần xuất khẩu lao động hoàn toàn có thể đạt được kế hoạch đặt ra
1.3.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả rất đáng khích lệ, hoạt động đầu tư phát triển của công ty còn tồn tại một số hạn chế sau:
1.3.2.1. Những hạn chế còn tồn tại
Huy động vốn còn hạn chế.
Các đơn vị cấp dưới không có tư cách pháp nhân, không chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của mình như: việc huy động vốn, quản lý doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, công nợ, nghĩa vụ đối với người lao động ... mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Tổng công ty, do đó mà quyền tự chủ của các đơn vị trực thuộc bị hạn chế. Vì thế hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị này, trong một số giai đoạn đã không thực sự mang lại hiệu quả tối ưu
Quyền hạn, vai trò của Công ty về tài chính, về đầu tư, chính sách tiền lương vẫn còn nhiều vướng mắc, dẫn đến trong tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh thiếu năng động, chưa hoàn toàn thích ứng với cơ chế thị trường, chưa tạo điều kiện để các đơn vị trực thuộc phát triển.
Một phần nguồn vốn của các dự án là từ nguồn đi vay, tuy được cam kết được cung cấp vốn đúng tiến độ và đủ song ở một số giai đoạn trong khi thực hiện dự án vẫn xảy ra tình trạng vốn không đủ, phải ngưng công việc để chờ vốn. Mặt khác, do khi thực hiện phải chia ra nhiều công đoạn, việc tập trung vốn là không dễ tạo ra một số ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực khác, ảnh hưởng tới thời gian thực hiện dự án…
Đầu tư cho Khoa học công nghệ chưa thỏa đáng.
Trên thực tế hiện nay, không những là khách hàng mới mà các khác hàng truyền thống cũng đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao, giá thành thấp…vì thế đã tạo ra một áp lực rất lớn đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các trang thiết bị của các dự án được đầu tư khá kỹ càng, có những ưu thế vượt trội về tính năng, công suất, chất lượng, nhất là các dự án đang được triển khai… so với trong khu vực nhưng đối với khoa học công nghệ trên thế giới thì còn có phần lạc hậu, nhất là đối với các nước: Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Pháp… là những khách hàng chủ yếu.
Mặc dù trong nhiều năm qua Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh đã đầu tư nhiều cho khoa học công nghệ nhưng mà bên cạnh đó hiệu quả sử dụng các thiết bị chưa cao.
Một số nhà máy vẫn còn chưa quan tâm tới hoạt động đổi mới công nghệ, các công nghệ hiện tại đang rất lạc hậu, không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường từ đó đã làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Với xuất phát điểm thấp, vốn tự có so với các tập đoàn, Tổng công ty lớn trong nước còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao, công nghệ còn hạn chế. Do đó mà việc nâng cao trình độ công nghệ còn gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy trình sử dụng, quản lý, sữa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị có công nghệ mới còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Chế độ thưởng phạt trong vấn đề này chưa mang lại hiệu quả.
Đầu tư mở rộng thị trường còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Công tác đầu tư thăm dò tìm kiếm thị trường là một việc vô cùng quan trọng khi tiến hành xây dựng dự án. Sự đỏi hỏi ngày càng cao của các khách hàng cũng như những thị trường khó tính thì bên cạnh những thị trường sẵn có cần có những thị trường mới và tiềm năng hơn nữa.
Về công tác quảng cáo và dự báo nhu cầu thị trường Tổng công ty vẫn chưa thực hiện tốt. Bộ phận này không có sự tách biệt rõ ràng còn nhầm lẫn trong các phòng ban khác. Vì thế Tổng công ty nên có phòng Maketting và phòng thống kê riêng. Vì phòng maketting có nhiệm vụ đi nghiên cứu thị trường từ đó sẽ giúp Tổng công ty chủ động đưa ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh, dẫn đến mở rộng thị trường. Còn phòng thống kê riêng giúp cho Tổng công ty phân tích và dự báo nhu cầu thị trường nhằm phản ánh đúng thực trạng hoạt động của Tổng công ty từ đó giúp cho lãnh đạo Tổng công ty có những quyết định đứng đắn và kịp thời.
Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh cũng đã chú trọng nhưng mà hiệu quả của công việc này chưa cao. Cán bộ về công tác thị trường chưa được đào tạo một cách chính quy.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế
Một số cán bộ công nhân viên trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm tổ chức, quản lý điều hành sản xuất kinh doanh còn hạn chế, tư duy về kinh tế thị trường chưa nhạy bén, chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, chưa chủ động sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, lực lượng công nhân kỹ thuật, lao động trực tiếp tay nghề chưa cao ....
Năng suất lao động vẫn còn thấp, chưa khai thác tối đa công suất máy móc thiết bị, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ công nhân viên còn thấp.
Tính chủ động trong tổ chức sản xuất còn hạn chế.
Đầu tư cơ sở hạ tầng còn thấp.
Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư nhiều nhưng mà vẫn còn thấp, nhất là hệ thống nhà xưởng của công ty còn chưa được khang trang, đồng bộ, đảm bảo yêu cầu về kĩ thuật, thiết kế và đặc biệt là chưa đáp ứng được trong việc tạo ra điều kiện lao động thuận lợi cho người lao động, vì hệ thống chống nóng, chống ồn còn chưa được đầu tư đúng mức. Bởi lẽ, địa bàn của Tổng công ty là ở Hà Tĩnh, có điều kiện khí hậu rất khắc nghiệt, điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới năng suất lao động của người lao động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là khai thác quặng. Điều này lại nên việc giao thông đi lại giữa các mỏ là rất quan trọng. giao thông nội mỏ đi lại khó khăn, hạn chế các phương tiện vận chuyển và việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm làm ảnh hưởng đến công tác điều hành sản xuất.
Bên cạnh đó, việc giải phóng mặt bằng ngày càng phức tạp, diện tích đền bù nhiều, các mỏ khai thác ngày càng nghèo, thu hồi thấp, quặng biến đổi nhanh làm ảnh hưởng tới công nghệ tuyển quặng.
Nhiều nhà máy các công cụ sản xuất vẫn còn thiếu và chưa hoàn thiện khiến việc khai thác gặp nhiều khó khăn, không tận dụng khai thác được.
Hệ thống giao thông, bến đỗ, bốc dỡ vẫn còn chưa hoàn chỉnh
Hạn chế trong tổ chức và quản lý hoạt động đầu tư
Trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, độ nhạy bén và sự thích ứng chưa thật cao đối với cơ chế thị trường. Lãnh đạo một số đơn vị thành viên chưa chủ động trong công việc, còn ảnh hưởng khá nặng nề của tư tưởng bao cấp ,còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại.
Hệ thống văn bản nội bộ ban hành nhiều, có lúc chồng chéo, có một số văn bản phát hành chưa kiểm soát được việc thực hiện. Công tác tham mưu của các phòng, ban chuyên môn còn cứng nhắc, chưa có sự phối hợp nhuần nhuyễn về nghiệp vụ, khi tham mưu cho lãnh đạo Tổng công ty
Công tác quản lý hành chính, lao động chưa nghiêm, chưa bảo đảm tốt thời gian làm việc. Thực hành tiết kiệm một số mặt chưa tốt, còn gây lãng phí.
Một số đồng chí cán bộ thiếu chủ động, thiếu sâu sát, chưa kịp thời xử lý dứt điểm các vấn đề phát sinh và các khó khăn trong quá trình SXKD.
Việc giải thể Văn phòng đại diện Hà Nội và 2 chi nhánh xuất khẩu lao động tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh chậm, không bảo đảm thời gian theo Quyết định của HĐQT.
Việc giải quyết, thảo gỡ các vướng mắc tại đơn vị chưa kịp thời, có khi còn gây khó khăn cho đơn vị, làm gián đoạn sản xuất.
Công tác định mức KTKT không theo kịp tình hình sản xuất, sự điều chỉnh chưa nhạy bén, kịp thời, có khi chưa công bằng trong thanh toán tiền lương, chi phí, thưởng, phạt điện, dầu…
Chưa theo dõi được quá trình thực hiện phân cấp quản lý tại các đơn vị dẫn đến nhiều chồng chéo, bất cập trong quản lý sản xuất, chưa chỉ đạo được các đơn vị xây dựng các định mức KTKT nội bộ, cho nên việc theo dõi chỉ dừng lại ở mức xí nghiệp, chưa sát đến từng đội sản xuất.
Công tác kinh doanh, thị trường chưa xây dựng chiến lược kinh doanh cho từng loại hàng hoá, sản phẩm, việc hoạch định chiến lược thị trường, quảng bá thương hiệu còn lúng túng, thụ động trong công tác bán hàng…
Công tác sữa chữa MMTB làm chưa tốt, còn xảy ra tình trạng lãng phí. Chi phí sửa chữa cao nhưng chất lượng sửa chữa lại thấp; Việc quản lý vật tư phụ tùng thu hồi để có thế tận dụng, thay mua mới chưa tốt, chưa có quy định cụ thể để thu hồi, phân loại, chưa có kế hoạch tái sử dụng hoặc thanh lý thu hồi vốn khi nhu cầu sử dụng giảm bớt do thu hẹp sản xuất.
Tài nguyên mỏ ngày càng nghèo đi song việc cải tiến công nghệ chưa thực sự quyết liệt và mang lại hiệu quả cao, chậm tổng kết công nghệ tuyển quặng nghèo để có phương án tổ chức sản xuất hiệu quả.
Công tác thăm dò, qui hoạch khai thác một số mỏ chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, giải quyết các thủ tục, hồ sơ cấp mỏ, thuê đất còn chậm; công tác GPMB có khi còn ách tắc, chậm như địa bàn xã Cẩm Hoà, Thạch Văn, cất bốc mồ mả tại Kỳ Khang. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác đôi lúc chưa chặt chẽ, phối hợp giữa các phòng ban chưa nhịp nhàng; trong kiểm tra, xử lý còn nể nang, nên để hàm lượng KVN vượt quy định kéo dài.
Công tác Cổ phần hóa tiến hành còn chậm, nhận thức về Cổ phần hóa của CBCNV còn hạn chế, chỉ đạo thiếu quyết liệt, chậm tiến độ đề ra.
Công tác chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước và lao động sáng tạo còn nặng về hình thức, vai trò của các Ban chỉ đạo còn mờ nhạt, chưa tạo được khí thế thi đua thực sự trong CBCNV.
Việc giám sát đầu tư, giám sát kỹ thuật các công trình XDCB chưa thật chặt chẽ, có công trình thực hiện chậm tiến độ, nghiêm thu, quyết toán công trình chậm trễ.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra tại các đơn vị chưa thường xuyên, chưa xác định rõ và tập trung đúng mức các đơn vị, các khâu trọng tâm, trọng điểm.
Hoạt động phân tích chỉ phục vụ nội bộ, chưa mở rộng được phạm vi phân tích, chưa có kế hoạch, chiến lược quảng cáo để phát triển dịch vụ ra bên ngoài.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ, một số làm việc thụ động kém hiệu quả.
Việc cải tiển các hệ thống ISO không quyết liệt, chưa khâu nối được giữa các cá nhân, bộ phận để cải tiến.
1.3.2.2. Những nguyên nhân chung của các hạn chế trên là:
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát và giảm phát của nền kinh tế, chính sách hạn chế xuất khẩu khoáng sản và tăng thuế xuất khẩu khoáng sản của Nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, đời sống CBCNV, vốn, lao động và tiến độ hoàn thành các dự án…
- Hoạt động của Tổng Công ty nhiều nghành nghề, lĩnh vực đòi hỏi chuyển đổi nhanh, nên có khi còn lúng túng trong chỉ đạo, điều hành.
- Trình độ, năng lực, kỹ năng của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, nhưng thiếu tinh thần, ý thức tự rèn luyện, học tập nâng cao, thiếu cán bộ giỏi, tâm huyết, đam mê trong công việc chuyên môn.
- Định mức KTKT chưa được bổ sung, điều chỉnh kịp thời, đặc biệt đối với các đơn vị mới, đơn vị ngoài khối Ilmenite.
- Công tác quản lý tài chính ở các đơn vị từ hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập chuyển biến chậm, đội ngũ kế toán đơn vị độc lập chưa tinh thông nghiệp vụ.
- Một số lĩnh vực việc lập, phê duyệt kế hoạch làm chậm nên bị động trong quản lý, chỉ đạo, điều hành.
- Đòi hỏi đền bù, GPMB của người dân vùng mỏ cao, vượt quy định Nhà nước, nhưng TCT cũng phải chấp nhận để có mặt bằng khai thác, triển khai các dự án và tạo việc làm cho lao động.
- Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chưa thường xuyên, dĩ hoà vi quý, chưa cương quyết trong xử lý vi phạm.
CHƯƠNG II : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIÊN TẠI TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN VÀ THƯƠNG MẠI HÀ TĨNH.
2.1. Định hướng phát triển của công ty đến năm 2010
Căn cứ vào tình hình hiện tại của công ty so sánh với quy mô của thị trường, tình hình phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển của ngành khoáng sản nói riêng, công ty đã xây dựng một định hướng phát triển từ nay đến năm 2010, làm cơ sở cho việc lập các kế hoạch đầu tư phát triển của công ty. Một số điểm quan trọng trong định hướng phát triển của công ty từ nay đến năm 2010 :
Cơ cấu lại vốn của các Công ty mẹ trong các doanh nghiệp thành viên, mở rộng lĩnh vực đầu tư vốn của Công ty mẹ.
Nghiên cứu liên doanh, kiên kết với các Tổng Công ty, các Công ty trong địa bàn trong nước, phát huy lợi thế của Tổng Công ty, đồng thời mở rộng liên doanh liên kết đầu tư nước ngoài với các lĩnh vực nếu thấy có hiệu quả.
Tiến hành đầu tư những dự án có tầm cỡ quốc gia.
Thực hiện chiến lược phát triển kinh doanh đa nghành nghề, chế biến sâu, đa dạng các sản phẩm khoáng sản để tăng hiệu quả kinh tế. Trong những năm từ 2003 - 2010 Công ty đầu tư xây dựng các dự án mới: nhà máy chế biến dioxyt titan, nhà máy gạch men cao cấp, nhà máy sản xuất que hàn, nhà máy luyện fero mangan, nhà máy gạch không nung, chế tác vàng, kinh doanh các mặt hàng và xây dựng trung tâm thương mại - khách sạn có tầm cỡ quốc tế, nhà máy sản xuất thạch cao tại Lào... thu hút thêm các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh có nguồn lực phát triển tự nguyện tham gia làm các đơn vị thành viên để Tổng Công ty phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21954.doc