MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Tổng quan về hoạt động kinh doanh xuất khẩu 2
I. Khái niệm và vai trò xuất khẩu 2
1. Khái niệm xuất khẩu 2
2. Vai trò của xuất khẩu 3
II- Những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh doanh xuất khẩu 5
1- Chức năng nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh xuất khẩu 5
2- Các hình thức kinh doanh xuất khẩu 5
2.1. Theo nghị định thư 5
2.2. Xuất khẩu trực tiếp 6
2.3. Xuất khẩu gián tiếp 6
2.4. Hợp tác xuất khẩu 7
2.5. Buôn bán đối lưu 7
2.6. Gia công quốc tế 8
3- Các bước tiến hành kinh doanh xuất khẩu 8
3.1. Marketing 9
3.2. Bán hàng 11
3.3. Thực hiện hợp đồng 14
3.4. Tiếp tục hoạt động buôn bán 18
4- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 19
4.1. Quan hệ đối ngoại 19
4.2. Khoa học công nghệ 19
4.3. Kinh tế 20
4.4. Pháp luật 20
4.5. Chính trị văn hoá xã hội 21
4.6. Doanh nghiệp 22
4.7. Đồng tiền thanh toán 23
III- Vai trò của xuất khẩu hàng dệt may trong phát triển kinh tế của Việt Nam 23
1- Sự cần thiết phải xuất khẩu hàng dệt may 23
2- Vai trò của ngành dệt may 24
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Dệt may Hà Nội 26
I- Giới thiệu chung về Công ty 26
1- Lịch sử hoạt động của Công ty 26
2- Nhiệm vụ chức năng của Công ty 27
3- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty 28
Phần II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Dệt may Hà Nội 36
1- Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu dệt may ở Việt Nam nói chung 36
1.1. Tình hình đầu tư xây dựng ngành công nghiệp may Việt Nam 36
1.2. Tình hình sản xuất 37
1.3. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu 39
2- Thực trạng kinh doanh xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 44
2.1. Kết quả hoạt động của Công ty qua các năm 44
2.2. Tình hình xuất khẩu theo sản phẩm 48
2.3. Khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường thế giới 5
2.4. Nỗ lực triển khai hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty 60
Chương III: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty dệt may Hà Nội 65
I- Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty dẹt may Hà Nội 65
1- Xuất khẩu hàng dệt may trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam 65
2- Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty 68
II- Một số giải pháp nhằm thúc đẩu hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 70
1- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường mở rộng thị trường xuất khẩu 70
2- Giải pháp về công nghệ thông tin 72
3- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty 73
4- Tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm ngang với tiêu chuẩn quốc tế 74
5- Mở rộng hoạt động thiết kế cho thị trường xuất khẩu 75
6- Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển thị trường 77
III- Một số kiến nghị 79
1- Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước 79
1.1. Về cơ chế xuất khẩu 79
1.2. Về công tác thị trường ngoài nước 79
1.3. Về các thủ tục hành chính và hải quan 81
1.4. Về sự hỗ trợ của Chính phủ các các chính sách thuế tín dụng liênquan đến hoạt động xuất khẩu 81
1.5. Về chính sách đối với người lao động 82
1.6. Kiến nghị khác 82
2- Kiến nghị với ban lãnh đạo Công ty 82
Kết luận 84
Tài liệu tham khảo 85
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Dệt may Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y đạt 1450 triệu USD, năm 1999 đạt 1747 triệu USD, năm 2000 con số này là 1892 triệu USD, đến năm 2001 là 2200 triệu USD, góp phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
1.3. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng hàng năm cao (từ 15-20%) liên tục và ổn định suốt gần chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên vị trí số 1 trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (năm 1998). Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu xuất khẩu cũng ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng (chiếm khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu). Điều tích cực hơn cả là giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trên mọi miền đất nước, trong lúc chúng ta đang thiếu vốn, thừa lao động.
Năm 1998 do tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực, xuất khẩu chỉ tăng 2,4% bằng khoảng 41% mức tăng GDP. Giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực của ta như dầu thô, gạo, cà phê, hạt điều… biến động mạnh theo hướng bất lợi cho xuất khẩu. Trong khi đó xuất khẩu hàng dệt may vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao khoảng trên 15%. Điều này càng khẳng định xuất khẩu dệt may đã và sẽ giữ vị trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu và ổn định xã hội của nước ta trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, chúng ta hiện tại vẫn đang phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức còn tồn tại, đó là kim ngạch xuất khẩu hàng năm tuy tăng nhanh nhưng hiệu quả thấp do ngành Dệt phát triển kém, không đáp ứng yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng cho hàng may mặc xuất khẩu, chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trên thế giới, nên khoảng trên 70% sản phẩm xuất khẩu được sản xuất theo phương thức gia công, công tác thị trường còn nhiều hạn chế, lợi nhuận thực sự mang lại còn thấp.
Việc sản xuất các sản phẩm dệt may trong 10 năm qua đạt tốc độ tăng trưởng khá nhưng không đều.
Sản phẩm
Đơn vị
1997
1998
1999
2000
2001
Sợi các loại
Vải lụa
Hàng may mặc
Hàng dệt kim
1000 tấn
Triệu met
Triệu sản phẩm
Triệu sản phẩm
69,5
300
213
25,4
75
316
290
28
80
331
367
29,6
82
380
389
32,3
90
400
446
34,9
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt may Việt Nam)
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Năm
Kim ngạch xuất khẩu thị trường có hạn ngạch
Kim ngạch xuất khẩu thị trường phi hạn ngạch
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
%
Triệu USD
%
Triệu USD
1998
507,5
35,00
942,5
65,00
1450
1999
650
37,20
1097
62,80
1747
2000
720
38,05
1172
61,95
1892
2001
770
35,00
1430
65,00
2200
(Nguồn Bộ Thương mại)
Kết quả thực hiện quá trình xuất khẩu may mặc trong những năm vừa qua cho thấy hàng may mặc nước ta đã có mặt tại hầu hết các khu vực thị trường lớn trên thế giới. Đã có sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất Việt Nam với các nhà tiêu thụ nước ngoài. Sự liên kết này thể hiện qua các đơn đặt hàng, thường là chuyên doanh về một hay một số chủng loại mặt hàng với một khu vực thị trường.
Thị trường có hạn ngạch là thị trường các nước EU, Canada và Thổ Nhĩ Kỳ (trong đó chủ yếu là thị trường EU), thị trường không có hạn ngạch là thị trường các nước Nhật Bản, các nước ASEAN và các nước Đông Âu, Mỹ và các nước khác (trong đó chủ yếu là Nhật Bản). Qua trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta vào thị trường có hạn ngạch tuy vẫn tăng hàng năm nhưng có xu hướng giảm dần về tỷ trọng so với kim ngạch xuất khẩu sang khu vực thị trường không có hạn ngạch. Đây cũng là lẽ tự nhiên bởi cùng với xu thế quốc tế hoá kinh tế đang diễn ra sôi động ở các nước trên thế giới và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng sang các nước khác sẽ không còn bị áp đặt hạn ngạch nữa. Đây cũng là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế.
Theo Hiệp định hàng Dệt may (ATC) của tổ chức WTO thì cuối năm 2004 toàn bộ hạn ngạch sẽ được bãi bỏ đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may là thành viên của WTO. Nếu đến năm 2005 Việt Nam vẫn chưa phải là thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới này thì việc xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta vẫn bị áp đặt bằng hạn ngạch. Và đó là một cản trở không nhỏ tới khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới.
Dưới đây ta sẽ đánh giá thực trạng tình hình xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam trên một số khu vực thị trường chính.
+ Thị trường chung Châu Âu (EU)
Năm 1997 EU đã quyết định cho Việt nam hưởng ưu đãi phổ cập – GSP trong buôn bán với một số nhóm hàng nhất định. Từ đó kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt nam và EU không ngừng tăng lên qua các năm, diện mặt hàng cũng được mở rộng. Trên thực tế mức tăng gần 3 lần từ 83 triệu Ecu năm 1990 lên 215 triệu Ecu năm 1993. Trong đó Việt nam đã ở thế xuất siêu so với EU.
Quan hệ mậu dịch trong lĩnh vực hàng may mặc giữa Việt Nam và EU mới chỉ phát triển trong một vài năm gần đây. Thời kỳ năm 1991-1992 tuy chưa có hạn ngạch của EU song các doanh nghiệp may nước ta đã bước đầu xuất sang thị trường này tuy chỉ rất nhỏ bé về khối lượng và chỉ giới hạn trong một vài chủng loại.
Ngày 15/12/1992, hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết có hiệu lực trong 5 năm kể từ 01/01/1993. So với chế độ đơn phương cấp hạn ngạch từ năm 1992 trở về trước, tổng hạn ngạch được cấp lần này tăng lên nhiều về chủng loại mặt hàng và số lượng (tăng gấp 10 lần về giá trị so với năm 1992). Việc ký kết hiệp định này đánh dấu một bước chuyển biến rõ rệt về lượng và chất trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên.
Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU
(Đơn vị : triệu USD)
Năm
1998
1999
2000
2001
Kim ngạch XK
~ 450
~ 520
609
~ 710
Qua đây ta có thể thấy thị trường EU giữ một vị trí quan trọng đối với ngành may nước ta. Đối với chúng ta EU là một thị trường mới mẻ song kết quả đạt được trong việc xuất khẩu hàng may mặc sang EU là đáng khích lệ. Bởi lẽ EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về mặt chất lượng, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Mặt khác mối quan hệ truyền thống lâu đời trong lĩnh vực hàng may mặc giữa EU và hơn 50 bạn hàng khác trên thế giới là trở ngại lớn cho sự xâm nhập của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam vào thị trường này. Mặt khác hiện nay các doanh nghiệp may của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng yếu kém, máy móc thiết bị còn lạc hậu, nguồn nguyên phụ liệu còn thiếu, hơn nữa chúng ta mới chỉ tham gia vào thị trường may mặc EU nên ít nhiều còn bỡ ngỡ, chưa thông thạo tập quán buôn bán cũng như luật lệ kinh doanh trên thị trường nổi tiếng là khó tính này. Do vậy để đạt được sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc vào EU trong những năm tới, đòi hỏi các doanh nghiệp may phải tự nỗ lực hoàn thiện mình để có thể thích ứng và khai thác tối đa tiềm năng của thị trường EU và bên cạnh đó cũng phải có sự cố gắng trong việc quản lý tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng ở tầm vĩ mô.
+ Thị trường SNG và Đông Âu
Thời kỳ những năm 1990 trở về trước, Liên Xô (cũ) và Đông Âu là bạn hàng chính của các doanh nghiệp nước ta nói chung không chỉ riêng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hàng năm các doanh nghiệp dệt may nước ta xuất sang Liên Xô 40-50 triệu sản phẩm các loại chiếm hơn 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Các nước Đông Âu cũ như CHDC Đức, Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc mỗi năm cũng nhập của chúng ta 12-15 triệu sản phẩm, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Sau khi thị trường Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu biến động, hiệp định 19/05/1987 về gia công buôn bán hàng dệt-may mặc giữa Liên Xô (cũ) và Việt nam mất hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc sang khu vực thị trường này chỉ còn là những hợp đồng đơn lẻ hoặc dưới dạng phi mậu dịch một số mặt hàng như áo gió, áo băng đạn, áo Nato, áo Jacket với khối lượng không đáng kể so với trước đây.
Hiện nay xuất khẩu sản phẩm may mặc của các doanh nghiệp may nước ta sang các nước SNG và Đông Âu [phần lớn là Nga, Tiệp Khắc (nay là cộng hoà Séc), Hunggari, Ba Lan...] chủ yếu dưới dạng thanh toán trả nợ theo sự phân bổ định mức của Nhà nước. Bằng các hiệp định và thanh toán giữa các nước thuộc thị trường này với Việt Nam, hàng năm các doanh nghiệp may mặc nước ta đã giao hàng triệu USD và rúp cho Nga và các nước Đông Âu. Ngoài ra vẫn thanh toán đổi hàng lấy thiết bị vật tư cho các công trình lớn. Hiện tại liên doanh Việt-Nga (Ros Viettimex) thực hiện buôn bán song phương đóng góp việc duy trì thương mại giữa hai nước. Chính vì vậy nên thị trường SNG không được các doanh nghiệp dệt may Việt Nam quan tâm lắm, mặc dù đây là một thị trường rất có tiềm năng bởi những đòi hỏi về chất lượng của thị trường này không quá khắt khe như thị trường EU hay Nhật Bản, do vậy rất phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp may Việt Nam. Cụ thể năm 1998 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc nước ta sang thị trường SNG là 66 triệu USD, một con số còn rất khiêm tốn so với các thị trường khác như EU, Nhật Bản, Mỹ… sang năm 1999 con số này là 75 triệu USD.
Trong những năm tới, các doanh nghiệp may nước ta cần chú ý hơn tới thị trường SNG, phải có các biện pháp tăng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời từng bước chiếm lĩnh thị trường có thể nói là bạn hàng truyền thống này.
+Thị trường Nhật Bản
Thời gian qua việc xuất khẩu sản phẩm dệt may của ta vào thị trường Nhật Bản còn ở mức khiêm tốn so với các nước khác trong khu vực. Những năm 1990-1991 ta mới chỉ xuất được một lượng hàng khoảng vài triệu sản phẩm dệt kim và một số loại khác vào thị trường Nhật Bản. Nhưng trong vài năm gần đây, chúng ta đã mở rộng được xuất khẩu sản phẩm dệt may vào khu vực thị trường này. Sau khi thị trường truyền thống là Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ, sự chuyển hướng mở rộng thị trường sang các nước phát triển ngoài khu vực EU là một khu vực thị trường có hạn ngạch quan trọng, thì khu vực thị trường phi hạn ngạch cũng là một định hướng quan trọng để phát triển. Trong khu vực thị trường phi hạn ngạch thì Nhật Bản là một khu vực thị trường quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta. Nhưng nhìn chung các mặt hàng xuất sang thị trường Nhật Bản mới chỉ bó hẹp trong một số mặt hàng đơn giản như quần áo bảo hộ lao động, quần áo dệt kim, áo sơ mi nam, khăn mặt bông…
Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
(Đơn vị : triệu USD)
Năm
1998
1999
2001
2001
Kim ngạch XK
321
417,2
620
710
Trong năm 1998 tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm may mặc của ta sang thị trường Nhật Bản đạt 321 triệu USD, đến năm 1999 con số này là 417,2 triệu USD (tăng 30% so với năm 1998). Năm 2000 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Nhật đạt mức cao nhất từ trước tới nay với 620 triệu USD (tăng 48,6% so với năm 1999) và năm 2001 là 710. Một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược thị trường của các doanh nghiệp dệt may nước ta đó là vươn tới để duy trì và mở rộng các chủng loại mặt hàng cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Điều cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó là vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may của chúng ta về chất lượng, giá cả, cũng như phân phối.
+Thị trường Mỹ
Từ khi hiệp định thương mại Việt Mỹ nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã mở hướng sang thị trường đầy tiềm năng này.
Mỹ là một thị trường có sức mua lớn và có nhiều mức thu nhập khác nhau nên yêu cầu về chất lượng không quá khắt khe như đối với Châu Âu hay Nhật Bản, nhưng đây là một thị trường cạnh tranh rất khốc liệt. Ngoài ra Hoa Kỳ là nước có chính sách phân biệt đối xử rất tinh vi và đàm phán hiệp định dệt may với họ là một thách thức lớn đối với chúng ta. Khó khăn hơn nữa là hệ thống luật của Hoa Kỳ rất phức tạp, các nước buôn bán với Hoa Kỳ đều phải sử dụng luật sư trong khi đó giá thuê tư vấn rất đắt. Bên cạnh đó việc thiếu thông tin về thị trường cũng là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay hai nước chưa dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc, vì vậy hàng dệt may của ta đến nay mới xuất sang thị trường này một lượng rất nhỏ. Năm 1998 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang thị trường này chỉ đạt 26,3 triệu USD, năm 1999 con số này là 36,4 triệu USD (trong khi đó hàng may mặc nhập vào thị trường Mỹ đạt trên 50 tỷ USD), sang năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang thị trường Mỹ đã tăng gần gấp đôi, đạt trên 70 triệu USD.
Khi hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (ký tháng 7/2000) được quốc hội 2 nước thông qua thì hàng dệt may Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ trong thời gian đầu sẽ có lợi thế phi hạn ngạch. Tuy nhiên thời gian hưởng lợi thế này theo các nhà chuyên môn sẽ rất ngắn. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ xuất thật nhiều hàng vào Hoa Kỳ để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi.
Việc mở rộng thị trường cần phải có sự phối hợp hiệu quả giữa Tổng Công ty Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp.
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Dệt may Hà nội
2.1. Kết quả hoạt động của công ty qua các năm
Trong vòng 5 năm trở lại đây tất cả các thành viên của công ty đều đã sẵn sàng tham gia vào cạnh tranh và cố gắng vươn lên để có sức cạnh tranh ngày càng lớn hơn.Sự thực công ty đã đương đầu với thách thức là số lượng của các công ty dệt may ngày càng gia tăng, nhất là các công ty tư nhân, liên doanh.Ngoài ra những thủ tục hải quan cũng như xuất nhập khẩu phức tạp dễ làm mất khách hàng của công ty và công ty buộc phải cạnh tranh mạnh, nhất là trong công tác xuất khẩu vốn có rủi ro cao vì giá cả lên xuống thất thường, thị trường không có sức hút lớn, đó là chưa kể đến sự chen vai thích cánh trong xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp may mặc, thêu dệt của Việt Nam.Song kể từ khi công ty chấp nhận áp dụng hệ thống ISO có nghĩa là quyết gia tăng cạnh tranh mạnh hơn, cũng đồng nghĩa với việc họ khẳng định uy tín và sức mạnh của họ trên thị trường.Hơn nữa công ty đã biết phát huy và tận dụng các cơ hội cũng như các điểm mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh và không ngừng khắc phục những điểm yếu.
Kết quả là đã tạo nên một sự tăng trưởng đáng kể trong công ty, lợi nhuận năm 2001 là 2200 triệu đồng tăng 4, 8 % so với năm 2000,trong năm 1998 doanh thu theo kế hoạch của công ty là 370 tỷ đồng và công ty đã vượt so với kế hoạch là 2,5 %. Nhưng đến năm 2001, tổng doanh thu của công ty đã đạt đến con số 558 981 tỷ đồng. Sự lớn mạnh của công ty được thể hiện thông qua bảng sau :
Bảng 1: Doanh thu thực hiện qua các năm của công ty
(Đơn vị tính : triệu đồng)
Chỉ tiêu
2001
2000
1999
1998
Tổng doanh thu
. Khu vực Hà nội
.Khu vực Vinh
.Khu vực Hà Đông
.Doanh thu khác
558931
445540
51920
55898
5623
473318
381407
48469
37508
5934
438407
357334
37789
41581
5703
379898
306358
41337
43336
3991
Tổng doanh thu của năm 1999 tăng so với năm 1998 là58509 triệu đồng; năm 2000 tăng so với năm 1999 là 33345 triệu đồng nhưng sang năm 2001 tăng 87229 triệu đồng so với năm 2000, do năm 2001 sản phẩm Mĩ bắt đầu được sản xuất để xuất khẩu và doanh thu về sản phẩm dệt kim và sợi tăng mạnh
Ngoài mức nộp ngân sách hàng năm chiếm mức cao trong Tổng công ty dệt may Việt Nam , năm 2001 là 14228 triệu đồng, Công ty dệt may Hà Nội cũng đem lại việc làm và thu nhập cao cho người lao động.Hàng năm, số lao động trung bình khoảng 5000 người, số lao động nữ chiếm 70% tổng số lao động của toàn Công ty. Thu nhập bình quan hàng tháng của cán bộ công nhân viên của Công ty mỗi năm tăng xấp xỉ 10%.
Bảng 2: Thu nhập bình quân đầu người/tháng
1000đ/ng/tháng
Chỉ tiêu
2001
2000
1999
1998
Toàn công ty
Khu vực Hà Nội
Khu vực Vinh
Khu vực Hà Đông
Khu vực Đông Mỹ
907,5
1250
800
800
780
900
1200
800
800
800
825
950
550
600
550
693,7
812
490
472
485
Ta thấy rõ thu nhập bình quân đầu người/tháng của toàn công ty tăng dần theo từng năm. Đặc biệt, là thu nhập bình quân đầu người ở tất cả các khu vực đều tăng, điều này có lẽ một phần là do khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty tăng dần qua từng năm.
Bảng 3: Kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
Tổng khả năng xuất khẩu
Trị giá
Theo giá FOB
%cùng kì năm trước
1997
1998
1999
2000
2001
12571
10479
12632
15100
17021
14137
13667
14135
16745
18085
96,68
103,42
119,54
112,72
Khả năng xuất khẩu của công ty tăng đều qua các năm. Năm 1999 tăng 103,42 % so với năm 1998, năm 2000 tăng 119, 54 % so với năm 1999, riêng năm 2001 đã vượt kế hoạch tổng công ty giao là 102, 5 % tăng 112,72% so với năm 2000.
Nhìn chung tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua diễn ra ổn định, ngoại trừ năm 1998 là năm khó khăn không chỉ đối với Công ty dệt may Hà Nội mà còn với cả toàn ngành dệt may Việt nam mà nguyên nhân là do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực từ cuối năm 1997. Cụ thể là làm cho sức mua của các bạn hàng chủ chốt như : Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông giảm mạnh và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam yếu đi do các nước có khủng hoảng.Tuy nhiên sang năm 1999 trở đi,công ty đã có những tiến bộ đáng kể.Có được kết quả như vậy là do sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo công ty kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên trong công ty mà đặc biệt là nhờ những cán bộ phòng xuất nhập khẩu vừa năng động vừa nhanh nhạy trong việc tiếp cận và đáp ứng những yêu cầu của công tác hoạt động kinh doanh.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may nói riêng,việc tìm kiếm thị trường là rất quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao.Kinh doanh xuất nhập khẩu vượt ra khỏi biên giới quốc gia nên thị trường càng trở nên phức tạp.Đến nay Công ty dệt may Hà Nội đã có quan hệ làm ăn với khoảng trên 20 nước trên thế giới và đang tìm cách mở rộng hơn nữa thị trường quốc tế của mình
Bảng 4: Kết quả kinh doanh theo thị trường của công ty
(Theo giá FOB-1000 USD )
Kim ngạch xuất khẩu theo từng nước
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng kim ngạch xuất khẩu
14137
13667
14135
16745
18085
Nhật Bản
Đài Loan
Cộng hoà Czech
Anh
Pháp
Đức
Italia
Singapore
Nam Phi
Thuỵ Sĩ
Hàn Quốc
Mỹ
Argentina
úc
Newzeland
Hà Lan
Nga
Rumami
Đan Mạch
Iran
Cuba
Hồng Kông
Libăng
11676
396
91
355
177
1207
45
-
40
39
45
0.6
-
-
-
-
39
-
-
-
-
-
-
9804
1283
428
1221
20
506
27
-
-
-
53
16
3
59
27
-
-
-
-
-
-
-
-
8609
1859
807
1376
87
619
397
47
1
1
291
-
-
35
15
-
-
-
-
-
-
-
-
8204
3002
402
901
97
724
804
79
1
288
24
29
49
21
22
-
-
-
-
-
-
-
-
449
2005
157
1431
221
540
-
-
245
218
3415
1590
-
16
-
266
-
204
364
55
39
493
275
Trong bảng cho biết sự biến động của công ty cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, các nước nhập khẩu sản phẩm của công ty ngày càng tăng lên cả về số lượng và giá trị hợp đồng, bằng chứng là năm 2001 công ty có thêm 7 khách hàng mới, kim ngạch xuất khẩu sang Mĩ năm 2000 là 1590107 USD trong khi đó 1000 USD năm 1993, 16000 USD năm 1998 à 29000 năm 2000.Mặc dù Nhật Bản vẫn là thị trường lớn nhất nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật lại giảm dần xuống.Điều này khẳng định rõ hơn nữa vị trí và uy tín của công ty để đi đến kí kết các hợp đồng hàng năm.
Thị phần luôn luôn là vấn đề mà công ty cần phải quan tâm hàng đầu, thật vậy vào cuối năm 80 đầu những năm 90 thì thị trường truyền thống của công ty là Nhật Bản, Pháp, Đức, Italia và Liên Xô, nhưng bắt đầu vào những năm 90 khi Liên Xô tan rã thì mối quan hệ của công ty và Liên xô cũng thay đổi cho dù công ty đã nối lại quan hệ với Nga nhưng khối lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu sang Nga còn quá nhỏ và không ổn định.Sau khi thị trường truyền thống chủ yếu là Liên Xô không còn nữa, công ty đã chuyển hướng phát triển thị trường sang Châu á và đặc biệt là các nước Châu á Thái Bình Dương và mục tiêu cụ thể đầu tiên là Nhật Bản, kể từ năm 1998 Nhật Bản là khách hàng tiêu thụ sản phẩm với khối lượng và giá trị lớn nhất của công ty.Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản đang giảm dần từ 1167581 USD năm 1997 xuống còn 644 635 USD vào năm 2001, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tiền tệ ở chính nước này và các nước ở khu vực Đông Nam á là Indônêxia và Thái Lan gây ra.Bù lại công ty đã phục hồi mối quan hệ kinh doanh với Hàn Quốc vào năm 1997và mối quan hệ này ngày càng được khẳng định: Kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 2001 là 3415 774 USD gấp 139 lần năm 2000, 12 lần năm 1999, 64 lần năm1998 và 76 lần năm 1997. Từ khi Việt Nam kí hiệp đinh thương mại với Mĩ, kim ngạch xuất khẩu sang Mĩ tăng vọt lên 1 590 107 USD trong khi đó năm 2000 là 29769 USD, năm 1998 là 16200 USD và năm 1997 là 591 USD.
2.2 Tình hình xuất khẩu theo sản phẩm
Từ trước năm 1990, Công ty dệt may Hà Nội đã tham gia vào việc xuất khẩu hàng hoá theo hiệp định giữa Nhà nước Việt Nam với các nước XHCN ( chủ yếu là Liên Xô và các nước Đông âu ),sản phẩm xuất khẩu lúc đó chỉ là các loại sợi LE 32 cotton chải thô. Công ty được giao kế hoạch xuất khẩu với khối lượng 2000-3000 tấn /năm. Việc giao sợi và thu tiền là do TEXTIMEX ( Liên hiệp các xí nghiệp dệt) đảm nhận.Từ năm 1991 trở lại đây Công ty dệt may Hà Nội hoàn toàn chủ động trong việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Sản phẩm chủ yếu của công ty hiện nay trên thị trường nước ngoài là các sản phẩm khăn, sản phẩm may, một phần là sợi,vải, lều (từ năm 2001 không xuất khẩu lều), mũ (mới bắt đầu xuất khẩu từ quý II năm 2001). Hiện nay công ty có mối quan hệ làm ăn với hơn 20 nước trên thế giới và đã có vị thế trên một số thị trường: Nhật Bản, Mĩ, Đài Loan và các nước EU...
2.2.1 Tổng quan về sản phẩm
Bảng 5: Doanh thu
(Đơn vị tính : triệu đồng)
Sản phẩm
1998
1999
2000
2001
Sợi
Trong nước
Xuất khẩu
191 427
191 418
9
198 305
194 095
4 210
288 429
239576
48 453
311 781
245 500
66 281
Vải
Trong nước
Xuất khẩu
Tính vào săn phẩm khăn
1967
1967
-
2918
2918
-
7255
4608
2647
Khăn
Trong nước
Xuất khẩu
Tính vào sản phẩm lều
30304
1479
28825
36632
3126
33506
52127
3276
48851
Sản phẩm may
Trong nước
Xuất khẩu
150393
27847
122546
168121
23501
144620
138974
33095
105879
148842
34792
114050
Lều
Trong nước
Xuất khẩu
26441
3363
23048
2416
0
2416
816
0
816
0
0
0
Bảng 6: Sản lượng
Sản phẩm
1998
1999
2000
2001
Sợi (kg)
Xuất khẩu
Trong nước
6747 960
317
6747960
8516662
157172
8359490
10595597
1800628
8749969
2215596
9111097
11326693
Khăn (chiếc )
Xuất khẩu
Trong nước
4450312
4299932
150380
8298803
8075782
223021
10822994
994274
828720
11580603
7846116
3734487
Sản phẩm may
Xuất khẩu
Trong nước
3757021
2942061
814960
5520420
4032928
1487492
4797963
2787448
2010515
5224981
3645441
1579540
Bảng 7: Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường đối với từng sản phẩm
Triệu USD
Thị trường
2001
2000
Sợi
SP may
Khăn
Lều
Mũ
Sợi
SP may
Khăn
Lều
EU
%thịtrường
0 %
2.4
31 %
0.081
2.5 %
0 %
0 %
0 %
2.4
29 %
0.25
9 %
0.84
100 %
Mỹ
% thị trường
0 %
1.3
17 %
0 %
0 %
0.16
57 %
0 %
0.63
7.3 %
0 %
Nhật Bản
% thị trường
0 %
2.9
38 %
3.2
97 %
0 %
0 %
0 %
3.7
45 %
2.45
91 %
0 %
Châu á
% thị trường
4.4
100%
0.84
11 %
0 %
0 %
0.12
43 %
3.7
100%
1.5
18 %
0 %
Các nước khác
% thị trường
0 %
0.16
2.2 %
0 %
0 %
0 %
0.84
%
0 %
Tổng
4.4
7.6
3.2
0
0.28
3.7
5.6
2.7
0.84
Thị trường
1999
1998
Sợi
SP may
Khăn
Lều
Vải
Sợi
SP may
Khăn
Lều
EU
%thịtrường
0 %
2.7
24 %
0 %
1.17
99 %
0 %
0 %
2.5
22 %
0 %
0.105
35 %
Mỹ
% thị trường
0 %
0 %
0 %
0 %
0 %
0 %
0 %
0.019
0 %
Nhật Bản
% thị trường
0 %
6.66
59 %
2.25
100 %
0 %
0 %
0 %
7.33
65 %
1.933
100 %
Châu á
% thị trường
0.32
100 %
2.02
18 %
0 %
0 %
0.028
100 %
0.0013
100 %
1.5
13 %
0 %
0.028
9.5 %
Các nước khác
% thị trường
0 %
0 %
0 %
0.009
1 %
0 %
0 %
0 %
0 %
0.147
49 %
Tổng cộng
0.32
11.3
2.25
1.179
0.028
0.0013
11.33
1.933
0.30
Thông qua mối quan hệ với một số khách hàng cũ, từ quý II năm 2001, công ty bắt đầu sản xuất mũ để xuất khẩu.Chỉ trong 3 quý sản lượng mũ đã là 308464 chiếc , đạt kim ngạch xuất khẩu là 278 156 USD, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mĩ tính theo số lượng là chiếm 66 % (tương đương là 157 386 USD ) còn lại là xuất sang thị trường Hàn Quốc đạt 120 770 USD
Theo thị trường
2001
Tháng 1/2002
Số lượng (chiếc)
Trị giá (USD)
Số lượng (chiếc )
Trị giá (USD)
Mũ
308464
278 156
103 680
157 386
Hàn Quốc
Mỹ
103 680
204 784
120 770
157 386
0
103 680
0
157 386
Doanh thu sợi tăng nhanh: Sợi chủ yếu bán trong nước 99,09 % vào năm 1998, 98% vào năm 1999 ,83 % vào năm 2000 và 80 % vào năm 2001
Doanh thu vải ít tăng trưởng
Doanh thu khăn tăng đều : Khăn chủ yếu là xuất khẩu :96 % vào năm 1998, 97 % năm 1999, 92 % năm 2000 và 68 % năm 2001.
Sản phẩm may chủ yếu cho xuất khẩu nhưng tỷ lệ bán hàng t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100324.doc