Chuyên đề Một số giải pháp quản lý nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 2

PHẦN 2: NỘI DUNG 4

ChươngI: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 4

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 4

1. Khái niệm cạnh tranh: 4

2. Khái niệm năng lực cạnh tranh 4

2.1. Năng lực cạnh tranh: 4

2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh kinh tế: 5

2.3. Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. 5

3. Nhân tố ảnh hưởng tới nâng cao năng lực cạnh tranh 6

3.1. Các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp: 6

3.2. Môi trường cạnh tranh của các doanh nghiệp: 7

4. Tiêu thức đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 8

4.1. Năng lực cạnh tranh về giá cả: 8

4.2. Tính cạnh tranh của chất lượng sản phẩm: 9

4.3. Tính linh hoạt của hệ thống phân phối và sức mạnh của thương hiệu: 9

II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU 9

1. Khái niệm xuất khẩu: 9

2. Quản lý xuất khẩu 10

2.1. Khái niệm: 10

2.2. Nội dung của quản lý xuất khẩu: 10

2.3. Các công cụ trong quản lý xuất khẩu 10

3. Vai trò của xuất khẩu 11

III. XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 12

1. Đặc điểm thị trường Mỹ 12

1.1. Mỹ - thị trường có sức mua lớn nhất, tự do nhất 12

1.2. Thị trường với các tiêu chuẩn đa dạng 13

1.3. Thị trường có tính cạnh tranh cao 13

1.4. Đặc điểm về luật pháp và những rào cản kỹ thuật 13

1.5. Đặc điểm về văn hoá và con người Mỹ 14

2. Tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 14

2.1. Ðiều kiện tự nhiên 15

2.2. Đặc điểm nguồn lợi hải sản 16

2.3. Thực trạng đội tàu khai thác và lao động nghề cá 17

3. Những cơ hội và thách thức đối với thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ 18

3.1. Những cơ hội 18

3.2. Những thách thức 21

Chương II: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHÓM HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 23

I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG THỜI GIAN QUA 23

1. Kim ngạch xuất khẩu 23

2. Cơ cấu xuất khẩu 35

2.1. Cơ cấu mặt hàng: 35

2.2. Xuất khẩu tôm: 42

2.3. Mặt hàng cá: 43

3. Phương thức xuất khẩu 45

II. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC MẶT HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI 49

1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam 49

1.1. Nhóm sản phẩm tôm: 49

1.2. Nhóm sản phẩm cá: 50

1.3. Nhóm nhuyễn thể: 50

2. Những vấn đề còn tồn tại 51

3. Những nguyên nhân chủ yếu 54

3.1. Những điểm yếu của thuỷ sản Việt Nam: 54

3.2. Những yếu tố cạnh tranh khác: 56

Chương III: 58

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 58

I. PHƯƠNG HƯỚNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐẾN NĂM 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020 58

1. Mục tiêu tổng quát 58

2. Định hướng đến năm 2020 59

3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010: 59

3.1. Mục tiêu theo nhóm sản phẩm: 59

3.2. Mục tiêu phân theo vùng: 61

4. Định hướng sản xuất, cung ứng nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đáp ứng mục tiêu đã đề ra theo nhóm sản phẩm chủ lực 62

4.1. Nhóm sản phẩm tôm: 62

4.2. Cá tra, cá basa 63

4.3. Cá ngừ đại dương 63

4.4. Mực và bạch tuộc 63

4.5. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ 63

4.6. Nuôi cá biển 64

4.7. Cá rô phi 64

5. Về thị trường 64

6. Tăng cường năng lực chế biến theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá và tiếp tục đổi mới công nghệ chế biến theo chiều sâu để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu 65

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHỦA HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 65

1. Chú trọng công tác nghiên cứu và sản xuất các loại giống thuỷ sản chất lượng cao 65

2. Quy hoạch tổng thể các vùng nuôi trồng thuỷ sản 66

3. Tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất lượng sản phẩm thuỷ sản. 67

4. Đổi mới và đa dạng hoá hình thức tiêu thụ thuỷ sản 68

5. Đa dạng hoá chủng loại mặt hàng xuất khẩu 69

6. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và công tác xúc tiến thương mại. Xây dựng hệ thống kênh phân phối dàn trải và những thương hiệu mạnh 70

7. Phối kết hợp giữa các ban ngành hữu quan và các tổ chức hiệp hội có liên quan 73

8. Giải pháp về nguồn nhân lực 74

9. Giải pháp tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng thuỷ sản Việt Nam 74

KẾT LUẬN 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO 80

MỤC LỤC 83

 

 

doc91 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp quản lý nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện của Việt Nam – trang thiết bị còn nhiều yếu kém, lạc hậu, công suất nhỏ, không có khả năng đánh bắt xa bờ thì sản lượng khai thác ngày càng tăng lên đã cho thấy nỗ lực không nhỏ của lực lượng ngư dân và các đội tàu ngư trường ngày càng được trang bị hiện đại hơn. Song nếu không có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước đối với việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên, cùng với việc khai thác một cách ồ ạt, không theo quy hoạch, thực hiện các biện pháp khai thác an toàn, bền vững thì việc cạn kiệt nguồn lợi ngoài khơi này là không tránh khỏi. Bảng 3: Giá trị XK thuỷ sản chính ngạch năm 2000 theo mặt hàng. Mặt hàng Số lượng (tấn) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Bạch tuộc đông lạnh 13421.5 26465141 1.789867 Cá đông lạnh 56052.47 165797767 11.21309 Cá khô 6514.29 16327905 1.104274 Cá ngừ 5912.37 22976484 1.553925 Cua 2952.2 10087848 0.682252 Mặt hàng khác 74260.65 220240677 14.89512 Hàng tươi sống 326.86 1036534 0.070102 Mực đông lạnh 21241.16 82416796 5.573939 Mực khô 26423.85 211323973 14.29207 Nghêu, ghẹ, ốc 16071 61178009 4.137536 Ruốc khô 1325.9 3455460 2.330261 Tôm đông lạnh 66703.88 654214953 65.29255 Tôm hùm, Tôm vỗ 79.54 542648 0.0367 Tôm khô 637.01 2545354 0.172 Total 291922.68 1478609549 100 Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ Thuỷ sản Sang năm 2001, mặt hàng mực khô có sự giảm sút về giá trị xuất khẩu, cùng với sự giảm sút mực khô là sự giảm sút giá trị xuất khẩu của mặt hàng tôm, trong khi đó mặt hàng cá đông lạnh lại có sự gia tăng về sản lượng xuất khẩu. Các mặt hàng tôm hùm, tôm vỗ có sự gia tăng nhanh chóng về giá trị. Đây vốn là những sản phẩm có giá cao, do đó có sự tăng lên về giá trị là điều không có gì ngạc nhiên. Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch năm 2001 theo mặt hàng. Mặt hàng Số lượng (tấn) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Bạch tuộc đông lạnh 20583.48 35183937 1.979422 Cá đông lạnh 74093.14 221947692 12.48661 Cá khô 12906.8 36844382 2.072837 Cá ngừ 14475.71 58592912 3.296393 Cua 5427.3 27997578 1.575122 Mặt hàng khác 99839.05 326470717 18.36699 Mực đông lạnh 21069.73 80707667 4.540552 Mực khô 18109.76 153809866 8.653226 Nghêu, ghẹ, ốc 18465.2 49542489 2.787223 Ruốc khô 2743.67 3802902 0.213948 Tôm đông lạnh 87151.18 777820214 43.75958 Tôm hùm, Tôm vỗ 105.22 2397462 0.134879 Tôm khô 520.5 2367936 0.133218 Total 375490.74 1777485754 100 Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ Thủy Sản Năm 2002, chúng ta chứng kiến sự tăng vọt về giá trị xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch của mặt hàng cá đông lạnh, cho dù ảnh hưởng của vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn và tranh chấp tên gọi catfish tại Mỹ, giá trị xuất khẩu cá đông lạnh vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng, đứng vào hàng thứ hai sau mặt hàng chủ lực là tôm đông lạnh chiếm 46.93537% tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành năm 2002. Bảng 5: Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch năm 2002 theo mặt hàng. Mặt hàng Số lượng (tấn) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Bạch tuộc đông lạnh 26317.27 44220100 2.186061 Cá đông lạnh 112034.52 361646074 17.8783 Cá khô 17181.76 40214633 1.988047 Cá ngừ 20734.74 77463159 3.829462 Mặt hàng khác 115160.11 324044960 16.01946 Hàng tươi sống 9.3 67349 0.003329 Mực đông lạnh 28561.54 96000812 4.745888 Mực khô 18920.44 109207131 5.398754 Ruốc khô 3883.17 4164258 0.205864 Tôm đông lạnh 114579.98 949418477 46.93537 Tôm hùm, Tôm vỗ 971.89 14975404 0.740323 Tôm khô 303.26 1398559 0.069139 Total 458657.98 2022820916 100 Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ Thuỷ sản. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch tiếp tục có sự gia tăng đáng kể mặc dù có nhiều tác động của hai vụ kiện lớn. Tuy nhiên mặt hàng tôm đông lạnh giảm sút nghiêm trọng về giá trị xuất khẩu và tỷ trọng, từ 46.93% năm 2002 xuống 25.88% năm 2003. Tuy nhiên, sang năm 2004, 2005 thì mặt hàng tôm đông lạnh lại tăng trở lại vượt quá 52%. Bảng 6: Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch năm 2003 theo mặt hàng Mặt hàng Số lượng (tấn) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Bạch tuộc đông lạnh 23351.14 43613050 4.843964 Cá đông lạnh 132270.71 405741072 27.43826 Cá khô 7222.04 16727460 1.498141 Cá ngừ 17362.11 47722955 3.601599 Mặt hàng khác 141798.66 497476506 29.41473 Hàng tươi sống 143.74 627804 0.029817 Mực đông lạnh 21462.05 68564663 4.452091 Mực khô 9902.55 57080033 2.054186 Ruốc khô 3656.28 3444306 0.758459 Tôm đông lạnh 124779.69 1057862963 25.88432 Tôm hùm, Tôm vỗ 33.2 374611 0.006887 Tôm khô 84.6 341383 0.017549 Total 482066.77 2199576806 100 Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ Thủy Sản Bảng 7: Xuất khẩu chính ngạch năm 2004 theo mặt hàng Mặt hàng Số lượng (tấn) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Bạch tuộc đông lạnh 35688.49 71103642 2.96168783 Cá đông lạnh 165596.33 464727235 19.3573347 Cá khô 14755.54 47916251 1.99586088 Cá ngừ 20783.76 55054959 2.29321027 Mặt hàng khác 108802.32 322501820 13.4332038 Mực đông lạnh 26726.62 96517102 4.02023747 Mực khô 9793.97 65420451 2.72496525 Ruốc khô 6972.17 5208457 0.21694843 Tôm đông lạnh 141122.03 1268038595 52.8177512 Tôm khô 1084.62 4292603 0.17880027 Total 531325.85 2400781115 100 Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ Thuỷ sản. Bảng 8: Xuất khẩu thuỷ sản tháng 12/2005 theo nhóm sản phẩm Sản phẩm Tháng 12/2005 So với cùng kỳ 2004 (%) 2005 So với cùng kỳ 2004 (%) KL GT KL GT KL GT KL GT Tôm đông lạnh 11.696 104,252 -1,9 -1,6 159.191 1371,556 +12,7 +8,8 Cá tươi/Đ.lạnh Trong đó -Cá da trờn -Cá ngừ 28.396 16.962 2.546 65,533 38,505 5,878 +79,5 +132,7 +50,2 +58,2 +100,6 +36,1 140.707 29.756 61.944 687,659 328,153 81,199 +31,4 +69,6 +45,1 +24,5 +43,3 +48,2 Mực và bạch tuộc đông lạnh 5.244 15,683 +47,5 +58,6 35.910 182,253 +2,3 +12,2 Hàng khô 2.333 11,728 +48,4 +62,3 35.910 130,354 +19,3 +28,0 Hải sản khác 27.070 109,836 +74,7 25,5 95.214 367,178 22,3 +13,7 Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương Mại Nguồn: Tạp chí Thương mại số tháng 2/2006. Biểu đồ 5: Tỷ trọng sản phẩm chính năm 2005 theo giá trị. Năm 2005, được đánh giá là năm có nhiều sự nỗ lực của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản. Đó là những doanh nghiệp như: Minh Phú Seafood Corp.; hay Camimex… Bảng 9: Tốp 10 doanh nghiệp XKTS năm 2005 DOANH NGHIỆP KL (tấn) GT( triệu USD) MINH PHÚ SEAFOOD CORP. 10.986 121,471 CAMIMEX 8.505 86,777 KIM ANH CO., LTD. 9.252 78,463 NAVICO 29.180 59,976 FIMEX Việt Nam 5.867 59,698 AMNADA FOODS (Việt Nam) LTD. 6.566 56,007 UTXI CO., LTD. 6.167 52,380 CAFATEX CORP. 7.921 51,715 SEA MINH HAI 4.701 49,990 CADOVIMEX 5.805 48,808 TỔNG CỘNG 94.949 665,284 Nguồn: Tạp chí Thương mại Thuỷ sản số tháng 2/2006. 2.2. Xuất khẩu tôm: Tôm là mặt hàng chủ lực của Việt Nam, đây là mặt hàng đem lại giá trị gia tăng và có khối lượng xuất khẩu lớn nhất của toàn ngành. Hơn nữa tôm Việt Nam được người tiêu dùng đánh giá là có chất lượng khá, thịt chắc ngon thơm. Nên việc thị trường tôm của Việt Nam mở rộng là điều không có gì đáng ngạc nhiên. Trong năm 2005, tỷ trọng sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ cũng đã có sự gia tăng, tuy nhiên vẫn ở mức thấp so với thị trường Nhật Bản. Có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ dưới: Nguồn: Tạp chí thương mại số tháng 2/2006 2.3. Mặt hàng cá: Năm 2005, xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ đã bắt đầu có sự gia tăng trở lại, nhất là mặt hàng cá tra, cá basa. Đây là mặt hàng phải gánh chịu vụ kiện bán phá giá của hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ, bên cạnh đó là việc ba bang của Mỹ thực hiện cấm không nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam đã gây nên hậu quả lớn đối với ngành thuỷ sản Việt Nam nói chung và những bà con đồng bằng sông Cửu Long nuôi cá tra và cá basa nói riêng. Thêm vào đó là vụ kiện tranh chấp tên gọi “catfish” cũng gây không ít khó khăn, cản trở cho hoạt động quay trở lại thị trường Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn:Tạp chí Thương mại tháng 2/2006. Có thể thấy tỷ trọng xuất khẩu cá các loại năm 2005 (giá trị) vào các thị trường qua biều đồ dưới. Qua biểu đồ này cũng cho thấy thị trường EU vẫn là thị trường lớn, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngành xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam.Tuy nhiên qua đây cũng cho thấy chỉ riêng 5 khu vực thị trường là Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Mỹ và EU đã chiếm đến 3/4 tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành. Đây là một bất cập lớn vì nếu không đa dạng thị trường thì ngành thuỷ sản nước ta sẽ không thể đứng vững được trước sự cạnh tranh của các đối thủ. Nguồn: Tạp chí Thương mại Thuỷ sản số tháng 2/2006. Thêm vào đó cũng cần thấy rằng trong thời gian tới, chúng ta không nên chỉ tập trung khai thác vào hai mặt hàng là cá tra, cá basa và tôm đông lạnh mà còn cần tập trung vào việc xây dựng thương hiệu và củng cố mặt hàng cá ngừ. Nguồn: Tạp chí Thương mại số tháng 2/2006. Đây là mặt hàng mới, có giá trị gia tăng cao, đây cũng là mặt hàng mà thị trường Mỹ chiếm ưu thế mạnh nhất, trong thời gian tới cần có biện pháp xúc tiến nhằm tăng thị phần mặt hàng này, đồng thời xây dựng một thương hiệu mạnh, thân quen với người tiêu dùng Mỹ, được đánh giá là có chất lượng tốt, an toàn, đảm bảo các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, hợp lệ về bao bì. 3. Phương thức xuất khẩu Tại Hoa Kỳ có nhiều loại công ty lớn, vừa và nhỏ với các kênh thị trường khác nhau. Các công ty lớn thường có hệ thống phân phối riêng và họ từ làm lấy tất cả các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu. Các tập đoàn và công ty lớn có tác động mạnh tới các chính sách của Chính phủ. Còn các công ty vừa và nhỏ vận động xung quanh hệ thống thị trường và được Chính phủ hỗ trợ. Đối với loại công ty vừa và nhỏ họ có nhiều cách bán hàng nhập khẩu tại Mỹ. Họ thường nhập khẩu hàng hoá về để bán tại Mỹ theo các cách phổ biến sau: 1- Bán sỉ cho các cửa hàng bán lẻ. Hầu hết các loại hàng hoá như: Trang sức, quần áo, đồ chơi, mỹ nghệ, tạp hoá đều có thể bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ thông qua các nhà nhập khẩu hay các người bán hàng có tính chất cá nhân và các công ty nhập khẩu hay các tổ chức buôn bán hàng hoá chuyên nghiệp. Cách bán hàng này rất có hiệu quả khi hàng hoá có nhu cầu tăng mạnh và có lợi nhuận cao. Nhìn chung nếu ngành hàng đa dạng đủ đáp ứng hết các chủng loại liên quan thì càng có hiệu quả hơn. 2- Bán cho các nhà phân phối. Thay bằng bán hàng cho người bán lẻ ta có thể bán hàng cho các nhà phân phối vì họ có hệ thống phân phối rộng khắp khu vực nào đó hoặc nằm trong nhóm ngành công nghiệp nào đó. Họ có khả năng bán hàng nhanh chóng trong thời gian ngắn. Nhưng cách này ta phải chia sẻ bớt lợi nhuận của mình cho các nhà phân phối. 3- Bán trực tiếp cho các nhà công nghiệp. Cách này có thể làm được khi các nhà máy công xưởng trực tiếp mua hàng của một số thương nhân nhỏ ở nước sở tại khi họ không có điều kiện để mua trực tiếp của các nhà xuất khẩu nước ngoài hoặc mua qua các nhà nhập khẩu trong nước. 4- Bán sỉ qua đường bưu điện. Có một số sản phẩm nhỏ và không đắt lắm có thể bán theo cách này qua một số trung gian bán buôn. Cách này có lợi là bán hàng trên diện rộng và không phải qua khâu trung gian phân phối hay bán buôn. 5- Bán lẻ qua đường bưu điện. Có một số nhà nhập khẩu không cần qua trung gian mà họ có thể trực tiếp gửi bưu kiện tới cho người mua. Để làm được cách này phải có hệ thống nghiên cứu thị trường chuẩn xác và có hiệu quả cao. Thiết kế được thị trường một cách chi tiết. 6- Có một số nhà nhập khẩu bán hàng theo catalog qua các nhà buôn theo kiểu này hay trực tiếp lập ra công ty để bán hàng theo catalog. Chìa khoá cho phương thức này là phải biết được địa chỉ của người hay công ty có nhu cầu thường xuyên về mặt hàng mình kinh doanh. 7- Bán lẻ. Nhà nhập khẩu tự tổ chức việc nhập khẩu và bán lẻ hàng hoá theo khả năng về thị trường của mình và tự gánh chịu mọi rủi ro về nhu cầu của thị trường cũng như là thu được toàn bộ lợi tức do nhập khẩu đem lại. Khi nhập khẩu họ phải biết được xu hướng của thị trường và phải tự làm lấy hết mọi việc trong mọi khâu buôn bán là điều chứa đựng nhiều rủi ro lớn. 8- Bán hàng qua các cuộc trưng bày hàng hoá trên các kênh truyền hình là hình thức mới và phải có hàng tức thời và bán theo giá công bố. 9- Bán hàng trực tiếp cho các nhà máy công xưởng với các điều kiện giống như ta bán cho các nhà bán buôn bán lẻ. 10- Làm đại lý bán hàng. Có một số người Mỹ có quan hệ tốt cả hai chiều với nhà xuất khẩu nước ngoài và hệ thống phân phối bán buôn bán lẻ trong nước thì họ thường làm đại lý cho nước ngoài để khỏi phải lo khâu tài chính cho kinh doanh. Họ chỉ cần đưa ra điều khoản LC chuyển nhượng là có thể giải quyết được việc này. 11- Bán hàng qua “ buổi tiệc giới thiệu bán hàng” (Bali Imports Party). MỘt số nhà nhập khẩu mua một số lượng hàng nhỏ về rồi mời người thân quen đến dự buổi giới thiệu bán hàng tại chỗ. Có một số nhà nhập khẩu trả hoa hồng cho ai đứng ra tổ chức và giới thiệu bạn hàng cho họ. 12- Bán ở chợ ngoài trời (Flea Market). Có hãng lớn đã từng tổ chức nhập khẩu và bán hàng ở ngoài trời với quy mô lớn và diện rộng khắp cả nước. Cách làm này đòi hỏi phải có diện quan hệ rộng với người bán hàng trong nhiều nước khác nhau và phải trả một phần lợi tức cho người bán hàng. Cách này yêu cầu phải đặt giá trực tiếp đến người tiêu dung. 13- Bán hàng qua các Hội chợ, triển lãm tại Mỹ. Có người mua hàng về kho của mình và quanh năm đi dự các hội chợ triển lãm khắp nước Mỹ để tìm kiếm các đơn đặt hàng tại quầy rồi về gửi hàng cho người mua theo đường bưu điện, các hãng chuyển phát nhanh Fedex hay UPS. Cách này chỉ có thể làm ở quy mô nhỏ với hàng đặc chủng, hàng mới và giá cao. 14- Bán hàng qua hệ thống Internet như dạng Amazon.com * Bán hàng cho các nguồn trung gian đặt hàng (soureing person). Người Mỹ hay làm nghề trung gian đi đặt hàng cho các tập đoàn hay các công ty lớn để nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Họ đến gõ cửa ta và đặt mua hàng hoá. Cách tiếp cận thị trường qua trung gian loại này có một số điểm lợi cho ta. Họ mang hàng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh chóng, ta không cần khâu nghiên cứu thị trường tốn kém và khó khăn khi ta ở nước khác. Tuy nhiên cách này có một số điểm không thuận: - Ai nắm được cơ cấu thị trường càng tốt thì người đó càng ở vào vị thế có lợi hơn và hay ép bên kia để ăn chênh lệch giá lớn. - Việc xác định giá cả rất phức tạp và mâu thuẫn nhau. Có khi giá bán lẻ và giá nhập khẩu chênh nhau hàng nhiều lần có khi lại rất sát nhau tuỳ thuộc vào cơ cấu giá thành ở nước sở tại. Thí dụ: Nếu thuế nhập khẩu và thuế nội địa lớn thì giá nhập khẩu và giá bán lẻ sẽ chênh nhau khá cao còn nếu hàng rào thuế thấp thì chênh lệch giá sẽ nhỏ. Thí dụ: Giá một xe ôtô con nhập khẩu vào Mỹ chỉ chênh với giá bán sỉ khoảng 10% vì thuế nhập khẩu chỉ có 3%. - Khách hàng hay đòi làm đại lý độc quyền có tâm lý sợ ta giao dịch với nhiều khách khác. Nên tính xem làm cách nào có lợi cho ta hơn. Trước khi quyết định cần đi khảo sát thị trường để nắm vững cơ cấu giá cả và đàm phán với họ về chia sẻ lợi ích trên thị trường. * Tìm kiếm nguồn trung gian: Một trong những khó khăn nhất của ta là tìm ra người mua hàng vì tên công ty và việc làm của công ty là thuộc vào dạng thông tin bí mật không được tiết lộ ở Mỹ. Tuy nhiên có nhiều cách để tìm ra nhưng đều phải mất tiền mới có. Các kênh thông tin có ích cho việc tìm kiếm đối tác có nhiều và đa dạng. Như: Các bộ ngành chức năng, các đại sứ quán thương vụ của ta ở nước ngoài, phòng thương mại, cơ quan xúc tiến thương mại, các hiệp hội ngành hàng, ngân hàng, công ty tư vấn, sách vở, báo chí chuyên ngành, tổ chức quốc tế, thư viện, hội chợ triển lãm, và trên Internet. Có một số website chuyên để tìm kiếm khách hàng như: http:// www.pierspub.com, http:// www.buysellx.com... Trong các website này có hệ thống tra cứu tự động qua keyword hay gửi email rất thuận tiện. Tuy nhiên đối với mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam thì chúng ta mới chỉ tập trung vào các kênh phân phối dựa trên các phương thức như: tự các doanh nghiệp tìm kiếm trên Internet thông qua một số trang web, việc sử dụng các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm rất hạn chế; những nhà bán buôn trung gian thì rất khó tiếp cận. Các phương thức bán qua bưu điện, hay gửi bưu kiện là không phù hợp với mặt hàng thuỷ sản – sản phẩm yêu cầu phải được bảo quản trong điều kiện vệ sinh, lạnh. II. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC MẶT HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI 1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam Đến nay, hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 105 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có cả các thị trường lớn và khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đã có 171 doanh nghiệp Việt Nam đuợc cấp mã số xuất khẩu vào thị trường EU, 295 doanh nghiệp đuợc phép xuất khẩu vào Hàn Quốc và 300 doanh nghiệp áp dụng HACCP đủ điều kiện XK sang Mỹ. Như vậy sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, nhìn chung là có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới do sản phẩm của ta phong phú, có nhiều mặt hàng xuất khẩu giá trị cao và đặc thù như tôm sú, cá tra, cá basa, tôm hùm; trình độ công nghệ trong chế biến đã và sẽ làm ra ngày càng nhiều sản phẩm giá trị gia tăng và sản phẩm tiện ích phù hợp với xu hướng tiêu dùng của các nước. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh ở mức độ không cao và thiếu tính ổn định thể hiện qua các nhóm hàng sản phẩm chủ yếu sau: 1.1. Nhóm sản phẩm tôm: Do hầu hết các trại nuôi tôm của ta có quy mô nhỏ, nên giá thành tôm nuôi không cao, bình quân khoảng 50.000 đồng/kg tôm sú. Chất lượng tôm của ta tốt, tôm có thịt chắc, vị ngọt hơn và màu sắc đẹp hơn sản phẩm của các nước, nên giá tôm xuất khẩu của ta thường tương đương hoặc cao hơn giá tôm của các nước có xuất khẩu tôm lớn trên thế giới. Chẳng hạn, giá ngày 02/09/2005, tại thị trường Mỹ, giá tôm sú HLSO cỡ <15 con/kg của Thái Lan là 7,75 USD/PAO, Bangladesh là 7,25 USD/PAO và của Ấn Độ là 7,30 USD/PAO, và giá tôm sú của Việt Nam là 7,65 USD/kg; tương tự với cỡ 26/30 là 4,35 USD; 3,45 USD; 3,75 USD; 4,75 USD. 1.2. Nhóm sản phẩm cá: Riêng cá tra, cá basa là loài đặc sản riêng có của Việt Nam. Loài cá này không những cho thịt ngon, mà giá thành sản xuất các loại cá da trơn của Việt Nam thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của một số nước như Ấn Độ, Campuchia, Bangladesh, cộng với công nghệ chế biến tốt, nên cá da trơn của ta hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cần đảm bảo chất lượng đồng đều và thực hiện tốt công tác vệ sinh thực phẩm. Các loại sản phẩm từ cá biển, nhìn chung hiệu quả sản xuất không cao do kỹ thuật, công nghệ khai thác còn lạc hậu, năng suất thấp, tỷ lệ cá có giá trị kinh tế không cao. Công nghệ bảo quản lạc hậu, ảnh hưởng tới chất lượng và tỷ lệ nguyên liệu đưa vào chế biến xuất khẩu. Vì vậy, giá thành nguyên liệu đầu vào thường cao so với các nước trong khu vực. Cá rô phi đơn tính và nuôi biển các loài cá song, cá cam, cá giò… tuy đã được nuôi, nhưng chưa nhiều. Giá thành cao hơn các nước, nên khả năng cạnh tranh được coi là thấp, nếu không có công nghệ sản xuất giống tốt và công nghệ nuôi năng suất cao, kích cỡ lớn sẽ khó cạnh tranh với các nước Trung Quốc, Đài Loan… 1.3. Nhóm nhuyễn thể: Các loài nhuyễn thể chân đầu ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong khi sản lượng khó có thể gia tăng được do phụ thuộc vào khai thác tự nhiên. Nguồn mực của Việt Nam khá phong phú, chất lượng cao; nhiều doanh nghiệp đã chế biến các sản phẩm cao cấp từ mực, bạch tuộc như shushi, bánh nhân bạch tuộc… đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh, và thị hiếu của khách hàng khó tính như Nhật Bản. Vì vậy, khả năng cạnh tranh của nhóm sản phẩm này là khá cao. Tuy nhiên, khó tăng nhiều giá trị kim ngạch từ nhóm sản phẩm này do phụ thuộc vào nguyên liệu khai thác tự nhiên, mà chỉ có thể tăng khi có công nghệ bảo quản nguyên liệu tôt, và tăng tỷ lệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng. Nhóm nhuyễn thể hai vỏ (NTHMV) đang trở thành một trong những mặt hàng thuỷ sản được ưa chuộng rộng rãi trên thế giới. Thực tế cho thấy việc sản xuất, xuất khẩu NTHMV đang là một trong những đối tượng sản xuất có hiệu quả cao ở nước ta. Cần được quan tâm phát triển trong những năm tới. Như vậy, các sản phẩm thuỷ sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhưng còn ở mức độ không cao, cần được tổ chức sản xuất lại và quản lý xuyên suốt quá trình sản xuất, tiêu thụ với công nghệ tiên tiến, mới đảm bảo cho phát triển bền vững và hiệu quả. 2. Những vấn đề còn tồn tại So với những năm trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành hơn rất nhiều, song năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất thấp. Thời gian qua, sức cạnh tranh của doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã có bước cải thiện đáng kể song cũng đặt ra nhiều vấn đề còn tồn tại, những khó khăn, thách thức cũng như rủi ro đối với xuất khẩu thuỷ sản nói chung. Đó là: 1- Cạnh tranh về thuỷ sản trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản của ta còn thấp như đã nêu trên, cộng thêm các yếu tố đầu vào như điện, nước, thông tin, vận tải… của ta cao hơn so với các nước; tỷ trọng cơ giới hoá, tự động hoá trong sản xuất chưa cao. Vì vậy, giá thành một số loại sản phẩm cao hơn so với mặt hàng cùng loại của các nước. 2- Quy mô các loại nuôi thuỷ sản quá nhỏ; việc tổ chức liên kết lại và quản lý xuyên suốt quá trình sản xuất, tiêu thụ; và việc áp dụng công nghệ mới trong nuôi thuỷ sản còn nhiều bất cập, là những thách thức không nhỏ trước yêu cầu đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, ATVS của thị trường thế giới, và trước yêu cầu về thị trường thế giới, và trước yêu cầu về môi trường cho phát triển bền vững. 3- Việc các nước nhập khẩu luôn đưa ra những rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước, cùng với những bất cập và lúng túng trong quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm thuỷ sản ở các khẩu sản xuất nguyên liệu, bảo quản và dịch vụ, và thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm, là những thách thức không nhỏ và dễ xảy ra cho doanh nghiệp, ảnh hưởng tới tâm lý kinh doanh, và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. 4- Với diễn biến về giá và xu hướng tiêu dùng hiện nay, thì xuất khẩu dưới dạng sơ chế, đông block sẽ khó có hiệu quả. Đây là thách thức và ảnh hưởng đáng kể tới khả năng duy trì và tăng cường xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa đầu tư công nghệ và thiết bị mới. 5- Yếu kém trong công tác quản lý cũng như hệ thống cơ chế chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, là một khó khăn chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn để động viên tính năng động và thu hút nhanh vốn đầu tư trong và ngoài nước. Phần lớn các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo bài bản về khả năng quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 6- Tình hình thiếu nguyên liệu vẫn thường xuyên xảy ra, đặc biệt là ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn nguyên liệu từ khai thác ngày càng giảm, nguồn nguyên liệu từ khai thác ngày càng suy giảm, nguồn nguyên liệu từ nuôi trồng có thời vụ. 7- Bước sang năm 2006, một năm được dự báo là có khá nhiều cơ hội và thách thức đối với ngành thuỷ sản Việt Nam khi Việt Nam thực sự trở thành thành viên của WTO. Những thách thức và cơ hội đối với thuỷ sản Việt Nam đều liên quan đến thị trường. Đây luôn là một trong những vấn đề quan trọng đối với ngành thuỷ sản nước nhà, cũng như đối với hầu hết các lĩnh vực xuất khẩu chủ lực nói chung. Khi mà nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng thì vấn đề thị trường càng nổi lên như một trong những nhân tố quyết định đến hiệu quả sản xuất và kinh doanh. Trên thực tế, trong thời gian qua, ngành thuỷ sản Việt Nam đã phải đối mặt với vấn đề này. Bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với giá xăng dầu trong nước, cũng như thế giới tăng mạnh (trong năm vừa qua nhà nước đã 3 lần tăng giá xăng dầu). Trong khi đó giá cá lại không tăng, thậm chí còn giảm theo xu hướng chung của thị trường thế giới, điều này khiến nhiều tàu đánh cá đã phải ngưng sản xuất trong một số thời điểm. Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu thuỷ sản, nhất là các tháng không phải vụ mùa thu hoạch. Diễn biến bất lợi của thời tiết và khí hậu cũng là một khó khăn không nhỏ. Trong khi đó, các nước tiếp tục có những rào cản thương mại đối với hàng nhập khẩu, áp đặt các quy định khắt khe về dư lượng kháng sinh cũng như thiết bị kiểm tra phát hiện dư lượng. Riêng đối với thị trường Mỹ, các nhà nhập khẩu và phân phối nơi đây đang lo ngại nhiều về mức tiền đặt cọc phải đóng để nhập khẩu tôm. Bên cạnh thuế chống phá giá và khoản tiền đặt cọc do Bộ Thương mại Mỹ đặt ra, các công ty bảo hiểm cho các nhà nhập khẩu tôm vào thị trường Mỹ còn đang đòi mức phí bảo hiểm và các khoản ký quỹ cao hơn nhiều nhằm tránh bị mắc kẹt trong các nghĩa vụ tài chính phát sinh. Vì vậy, các đối tác đều e ngại nhập khẩu tôm từ nước bị kiện như Việt Nam. Xuất phát từ những khó khăn, những thách thức cũng như cơ hội và những tồn tại của ngành thuỷ sản Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể và triệt để nhằm từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32294.doc
Tài liệu liên quan