MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Vốn tín dụng
1.1. Khái niệm
1.2. Tín dụng ngân hàng
1.3. Phân loại
1.3.1. Phân theo thành phần kinh tế
1.3.2. Phân theo mục đích cho vay
1.3.3. Phân loại theo thời hạn cho vay
1.3.4. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
2. Đặc điểm của vốn tín dụng
2.1. Đặc trưng của quan hệ tín dụng
2.2. Đặc điểm đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn
3. Vai trò của vốn tín dụng đối với sản xuất nông nghiệp
3.1.Vài trò của tín dụng
3.2. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của hộ sản xuất kinh doanh
3.3. Tín dụng ngân hàng giúp vấn đề việc làm được giải quyết một cách tích cực
3.4. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất
3.5. Tín dụng ngân hàng giúp giải quyết các vấn đề chính trị – xã hội
3.6. Tín dụng ngân hàng đưa tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào từng hộ sản xuất kinh doanh
4. Sự cần thiết hình thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔNG VIỆT NAM
I. Thực trạng tạo vốn (huy động vốn)
1. Yêu cầu đặt ra đối với công tác huy động vốn
2. Thực trạng huy động vốn tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3. Các hình thức huy động vốn
3.1. Huy động vốn tiền gửi
3.2. Huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn
3.3. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn
4.1. Nhân tố khách quan
4.2. Nhóm nhân tố chủ quan
5. Các chỉ tiêu đánh giá huy động vốn của Ngân hàng thương mại
II. Thực trạng kết quả và hiệu quả tín dụng
1. Kết quả cho vay vốn
2. Hiệu quả tín dụng
III. Đánh giá chung thành tích, hạn chế và nguyên nhân
1. Những kết quả đạt được
2. Những hạn chế trong công tác huy động vốn của Sở Giao dịch NHNo&PTNT
3. Nguyên nhân của những hạn chế
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TẠO VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu chính sách vấn đề tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng
1.1. Quan điểm
1.2. Phương hướng
1.3. Mục tiêu
2. Các giải pháp tạo vốn
2.1. Giải pháp trực tiếp
2.1.1. Hoàn thiện cơ sở vật chất
2.1.2. Sử dụng lãi suất linh hoạt, đáp ứng sự biến động của thị trường
2.1.3. Đẩy mạnh chính sách khách hàng
2.1.4. Mở rộng màng lưới hoạt động và đa dạng hoá các hình thức huy động, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng
2.2. Giải pháp hỗ trợ
2.2.1. Tiếp tục đổi mới phong cách phục vụ, nâng cao trình độ nhân viên
2.2.2. Tuyên truyền quảng cáo
2.2.3. Thường xuyên làm tốt công tác thi đua khen thưởng để hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn
3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng
4. Một số kinh nghiệm trong việc tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày giúy Ngân hàng chủ động trong huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn và vốn này có tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất.
Theo kinh nghiệm tại Đức, trái phiếu Ngân hàng được phát hành với mức lãi suất cố định và mức lãi suất này được xác định theo mức lãi suất trên thị trường vốn tại thời điểm phát hành. Hầu hết các trái phiếu Ngân hàng đều được đưa vào giao dịch chính thức hay giao dịch tự do ở một hay nhiều Sở Giao dịch chứng khoán Đức. Do đó những người đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng đều có thể thu hồi vốn vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, điều đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong việc thu hút vốn mà còn tạo thuận lợi kể cả cho khách hàng. Ngoài ra kinh nghiệm cho thấy: việc huy động vốn từ trái phiếu khá phổ biến ở các nước, nó được xuất hiện và phát triển từ các nước Châu Âu trong những năm 60 của thế kỷ 20 và ngày nay giao dịch này đã phát triển tới quy mô quốc tế bao gồm nhiều Ngân hàng và công ty tài chính tham gia. Nghiệp vụ huy động vốn qua trái phiếu đã đem đến cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao bởi khả năng “ tiêu thụ “ các khoản vốn huy động này đã được nhanh chóng chuyển đến các nước đang “khát vốn” để phát triển nhất là ở Châu Á, Nam Mỹ.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động của rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô đến các yếu tố vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính các NHNo&PTNT.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn
Trong quá trình huy động vốn của NHNo&PTNT có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô các nguồn vốn huy động. Các nhân tố này bao gồm cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
4.1. Nhân tố khách quan
* Pháp luật, chính sách của Nhà nước
Mọi hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt động Ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Có những bộ luật can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của Ngân hàng so với vốn tự có, quy định phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của Ngân hàng đối với một khách hàng... Có những bộ luật tác động gián tiếp đến hoạt động Ngân hàng như luật đầu tư nước ngoài... Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHNo&PTNT. Khi nền kinh tế lạm phát cao, nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHNo&PTNT huy động vốn dễ dàng, ngược lại khi nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì Ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi Ngân hàng.
* Sự ổn định kinh tế, chính trị xã hội
Một xã hội, một nền kinh tế được đánh giá là ổn định khi nền kinh tế phát triển với một tốc độ ổn định lâu dài và duy trì qua các năm, tỷ lệ lạm phát ở mức cho phép, có thể chế chính trị ổn định, quốc gia bền vững và đảm bảo an toàn xã hội. Nền kinh tế xã hội ổn định và có hiệu quả, tích luỹ ngày càng cao. Người dân có việc làm và thu nhập ổn định, đời sống ngày càng cao. Do đó lượng tiền gửi vào Ngân hàng ngày càng cao. Nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, tích luỹ nhiều hơn do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của Ngân hàng thuận lợi. Mặt khác nó cũng tạo ra môi trường đầu tư cho Ngân hàng, từ đó Ngân hàng phải tìm ra biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của mình. Khi môi trường đầu tư Ngân hàng được mở rộng thì thu nhập của Ngân hàng tăng lên tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng vốn tự có của Ngân hàng.
Khi tình hình kinh tế chính trị xã hội của một nước không ổn định, tỷ lệ lạm phát cao, nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người lao động ngày càng giảm, xu hướng người dân thường giữ ngoại tệ mạnh hoặc là hàng hoá thay cho việc gửi tiền vào Ngân hàng. Điều này gây ảnh hưởng đến nghiệp vụ huy động vốn của NHNo&PTNT. Nền kinh tế không tăng trưởng, sản xuất bị kìm hãm, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của Ngân hàng bị thu hẹp lại do sản xuất đình trệ, thua lỗ nên không doanh nghiệp nào vay vốn của Ngân hàng để sản xuất. Do đó thu nhập của Ngân hàng giảm làm cho quá trình huy động vốn của Ngân hàng gặp khó khăn. Như vậy hoạt động của NHNo&PTNT trên các địa bàn phải luôn bám sát các chương trình mục tiêu kinh tế của từng địa phương, từng vùng, nghiên cứu thăm dò thị trường. Từ đó đưa ra các giải pháp, các sản phẩm cho phù hợp để thu hút được nhiều khách hàng.
* Tâm lý, thói quen của người gửi tiền
Hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT chủ yếu được hình thành từ việc huy động các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư. Đây là lượng tiền nhàn rỗi chủ yếu có được do việc tiết kiệm trong tiêu dùng của dân cư, do đó công tác huy động vốn của Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của nhân tố này. Nếu không có tiết kiệm thì sẽ không có đủ vốn đầu tư cho sản xuất và ngược lại nếu tỷ lệ tiết kiệm trong nước lớn thì làm tăng quy mô huy động vốn của Ngân hàng.
Thói quen tiêu dùng ảnh hưởng tới nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng. Nếu ở những vùng dân cư quen sử dụng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của Ngân hàng gặp khó khăn. Còn khi người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ gửi tiền vào Ngân hàng nhiều hơn, do đó cơ hội huy động vốn của Ngân hàng tăng lên.
Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch qua Ngân hàng rất phát triển. Hầu hết người dân có thu nhập đều mở tài khoản Séc để thanh toán qua Ngân hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân thấp, nhu cầu giao dịch thanh toán qua Ngân hàng còn hạn chế nên ít mở tài khoản tại Ngân hàng. Có thể nói đây không phải là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng nhưng nó có giá trị là nó khiến cho gần hết tiền nhàn rỗi của dân cư luân chuyển vào Ngân hàng.
Bên cạnh đó, mức thu nhập của người dân cũng là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định đến lượng tiền gửi vào Ngân hàng.
Như vậy về phía người gửi tiền, Ngân hàng phải quan tâm đến hai yếu tố quan trọng là thu nhập và tâm lý. Thu nhập ảnh hưởng đến số vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của Ngân hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào và rút ra, còn trong điều kiện nền kinh tế mất ổn định sự phổ biến của tâm lý lo lắng sẽ gây hiện tượng rút tiền hàng loạt. Nhìn chung khi nền kinh tế không ổn định, giá trị của đồng tiền thay đổi thì có xu hướng chung dân cư thường đổi ra các đồng tiền mạnh (ngoại tệ) có tính chất ổn định cao hơn thay vì đem số tiền đó gửi vào Ngân hàng.
Do vậy các NHNo&PTNT phải nắm bắt được yếu tố tâm lý của Ngân hàng, từ đó đưa ra các hình thức huy động phù hợp để thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
4.2. Nhóm nhân tố chủ quan
* Chính sách lãi suất của NHNo&PTNT
Lãi suất huy động là mối quan tâm hàng đầu chủ yếu khi một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào đó muốn gửi tiền vào Ngân hàng. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì trong nền kinh tế ngành nào có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư. Chính vì vậy để tạo được nhiều vốn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của mình, các Ngân hàng phải có chính sách lãi suất hợp lý sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh tình trạng vốn huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp.
Chính sách lãi suất có ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân hàng. Do đó NHNo&PTNT phải hoạch định chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với tín hiệu thị trường, tiếp tục thực hiện lãi suất dương trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, Ngân hàng và người sử dụng vốn. Mức lãi suất huy động cần phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng và cũng phải thấp hơn lợi nhuận của doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi cho người vay nhưng mức lãi suất này không được thấp hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo cho người gửi tiền vẫn có một tỷ lệ thu nhập hợp lý. Có như vậy người gửi tiền mới thấy việc gửi tiền vào Ngân hàng là có lợi.
Như vậy lãi suất huy động vốn là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới quy mô nguồn vốn của Ngân hàng. Người dân thường quan tâm đến lãi suất tiền gửi tiết kiệm để so sánh với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lời của các hình thức đầu tư khác. Từ đó Ngân hàng có quyết định có gửi tiền vào Ngân hàng hay không, gửi bao nhiêu và với hình thức nào. Khi các NHNo&PTNT đưa ra các mức huy động vốn phù hợp với yêu cầu của thị trường đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thì nó là đòn bẩy mạnh mẽ thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng, ngược lại khi đưa ra mức lãi suất quá thấp thì người có tiền sẽ chọn các hình thức đầu tư khác có lợi hơn gửi tiền vào Ngân hàng.
Do đó các NHNo&PTNT cần phải duy trì một chính sách lãi suất nhạy cảm phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế để thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng.
* Các hình thức huy động vốn, chất lượng các dịch vụ Ngân hàng cung ứng và các hệ thống màng lưới Ngân hàng
Hình thức huy động vốn của Ngân hàng đưa ra càng phong phú, càng đa dạng, linh hoạt và thuận lợi thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn. Nó còn phải xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư. Chính sự đa dạng hoá các hình thức huy động của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý. Các NHNo&PTNT đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng các màng lưới hoạt động và nâng cao chất lượng các hoạt động các dịch vụ Ngân hàng, thì sẽ tạo điều kiện thuận tiện cho Ngân hàng về huy động vốn. Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của Ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt động các dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn ít, chưa tiện lợi cho khách hàng về việc giao dịch với Ngân hàng thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng huy động vốn của Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn các Ngân hàng khác có dịch vụ giới hạn.
Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đậu xe, nếu Ngân hàng có bãi đậu xe, tiện nghi rộng rãi cũng là một lợi thế. Ta cũng có thể nói như thế về các Ngân hàng có quầy thu cạnh đường, dịch vụ Ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động, làm việc suốt ngày đêm và các dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời gian.
Với những Ngân hàng sát với địa bàn dân cư hoặc gần với trung tâm thương mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Màng lưới huy động của Ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có tiền nhàn rỗi họ thường mang tiền ra quầy tiết kiệm gần nhà họ nhất để gửi. Màng lưới huy động cần rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Màng lưới không chỉ mở ở những vùng đông dân cư mà cần được mở ra ở những nơi cách xa trung tâm kinh tế như nông thôn, vùng sâu vùng xa.
* Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền gửi vào hệ thống Ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thì nghiệp vụ sử dụng vốn được thực hiện sử dụng các nguồn vốn đó vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ…để đem lại khả năng sinh lời, thu lợi nhuận về cho Ngân hàng. Do vậy nếu hoạt động sử dụng vốn không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại. Khi sử dụng vốn kém hiệu quả làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin của dân chúng vào Ngân hàng bị giảm đi, tiền vốn huy động vào Ngân hàng cũng bị giảm. Từ đó rất khó khăn trong việc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi. Nếu hoạt động tín dụng có hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời sống dân cư ngày càng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng nhiều, tạo nguồn vốn cho Ngân hàng huy động ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ tiếp theo.
* Hoạt động Marketing Ngân hàng
Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhằm giúp cho Ngân hàng nắm bắt được yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng. Từ đó Ngân hàng mới đưa ra các hình thức huy động vốn, chính sách lãi suất, chính sách tín dụng... cho phù hợp. Đồng thời các NHNo&PTNT phải có thông tin đầy đủ kịp thời giúp cho người có tiền nhàn rỗi hiểu rõ nên gửi tiền vào đâu và gửi như thế nào là có lợi nhất, từ đó có thể giúp cho khách hàng lựa chọn hình thức gửi tiền vào Ngân hàng phù hợp nhất và Ngân hàng có thể khai thác tối đa các nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư.
* Đổi mới công nghệ Ngân hàng nhất là khâu thanh toán
Cùng với việc đổi mới hoạt động Ngân hàng, các NHNo&PTNT ngày càng trang bị các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, nhất là khâu thanh toán, làm cho vốn luân chuyển nhanh, thuận tiện, đảm bảo an toàn cho khách hàng trong quan hệ gửi tiền, rút tiền, vay vốn. Nếu thực hiện tốt khâu này thì sẽ giảm bớt lưu thông tiền mặt vừa không hiệu quả, vừa không an toàn. Nếu tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên thì Ngân hàng thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế vào hệ thống Ngân hàng. Để thực hiện tốt vấn đề này Ngân hàng cần phải trang bị những công nghệ hiện đại nhất, nhất là khâu thanh toán. Mặt khác Ngân hàng cần nghiên cứu đưa ra các hình thức huy động vốn thích hợp, chặt chẽ. Từ đó tạo khâu thanh toán nhanh và kiểm soát được thuận tiện.
* Trình độ nghiệp vụ, thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng cao thì trong quá trình hoạt động kinh doanh, mọi thao tác nghiệp vụ đều được thực hiện nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả, từ đó giúp Ngân hàng có điều kiện mở rộng kinh doanh, giảm thấp chi phí hoạt động và thu hút được khách hàng.
Bên cạnh đó thái độ phục vụ của cán bộ Ngân hàng cũng là yếu tố tác động đến quy mô tiền gửi. Nếu Ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên Ngân hàng luôn cởi mở, nhiệt tình đối với khách hàng, luôn tạo thuận lợi cho khách hàng thì sẽ gây được uy tín lớn đối với khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi tiền. Thêm vào đó một Ngân hàng có cơ sở vật chất kỹ thuật vững mạnh, một trụ sở làm việc khang trang, sạch đẹp, phương tiện làm việc hiện đại sẽ gây cho người gửi tiền cảm giác an tâm, từ đó giúp cho Ngân hàng huy động nhiều vốn hơn.
Cách thức phục vụ của cán bộ Ngân hàng đối với khách hàng cũng có những ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho Ngân hàng. Hơn ai hết, nhân viên Ngân hàng là người trực tiếp giao tiếp với khách hàng. Nếu cán bộ Ngân hàng giao tiếp với khách hàng một cách lịch sự, nhã nhặn, nhiệt tình thì sẽ tạo được cảm tình tốt với khách hàng, tạo uy tín cho Ngân hàng về phục vụ khách hàng. Vì vậy để thu hút khách hàng gửi tiền thì trong quá trình phục vụ, cán bộ Ngân hàng không phải chỉ có trình độ chuyên môn về nghiệp vụ mà còn phải chú ý đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng.
* Uy tín của Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển, các NHNo&PTNT phải có uy tín trên thị trường. Uy tín phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của Ngân hàng, uy tín được thể hiện ở chất lượng hoạt động có hiệu quả của Ngân hàng. Chính vì vậy mà các NHNo&PTNT phải không ngừng nâng cao và đảm bảo uy tín của mình trên thương trường, từ đó có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp và dân cư. Ngoài ra một Ngân hàng có bề dày lịch sử hoạt động sẽ được nhiều khách hàng chọn lựa hơn các Ngân hàng ít kinh nghiệm và uy tín trên thị trường.
5. Các chỉ tiêu đánh giá huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Để đánh giá công tác huy động vốn các NHTM thường sử dụng một số các chỉ tiêu sau đây:
- Chỉ tiêu về quy mô nguồn vốn: quy mô nguồn vốn của Ngân hàng ngày càng tăng chứng tỏ Ngân hàng đã làm tốt công tác huy động vốn. Vốn huy động tăng trưởng qua các năm giúp cho Ngân hàng có khả năng tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình và nâng cao sức cạnh tranh của mình.
- Chỉ tiêu về kết cấu nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này cho biết trong kết cấu nguồn vốn huy động thì nguồn huy động từ các tổ chức tín dụng, từ các tổ chức kinh tế, cá nhân hay từ tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Chỉ tiêu về thời hạn nguồn vốn: Qua chỉ tiêu này cho ta biết được mức độ ổn định của nguồn vốn. Trên cơ sở này Ngân hàng đưa ra các quyết định về thời hạn cho vay. Vốn huy động càng có thời hạn dài thì mức độ ổn định của nó càng cao, Ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án trung và dài hạn
- Chỉ tiêu về chi phí huy động vốn: Nguồn vốn huy động có hiệu quả hay không có hiệu quả không chỉ là nguồn vốn đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của Ngân hàng mà còn phải là nguồn vốn có chi phí thấp. Nếu chi phí huy động quá thấp sẽ không thu hút được khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, nếu quá cao thì nó sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
Tóm lại trong chương 1 đã chỉ ra vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, những nhân tố ảnh hưởng tới nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng và các hình thức huy động vốn. Dựa vào phần lý luận chung này làm cơ sở cho việc đánh giá công tác huy động vốn và đề ra các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn trong các chương tiếp theo.
II. Thực trạng kết quả và hiệu quả tín dụng
1. Kết quả cho vay vốn
Trong hoạt động kinh doanh của mình, Sở Giao dịch hết sức quan tâm đến công tác sử dụng vốn đặc biệt là hoạt động tín dụng được coi là mũi nhọn, là nhiệm vụ hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của mình. Thực hiện sự chỉ đạo của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Sở Giao dịch đã xác định hướng hoạt động tín dụng là:
+ Tích cực mở rộng đầu tư trong hoạt động cho phép, đảm bảo an toàn và có hiệu quả, phục vụ tốt nhu cầu kinh tế địa phương, gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển nông thôn kiên trì thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
+ Thực hiện hoạt động tín dụng theo cơ chế thị trường và quan hệ cung cầu vốn, áp dụng lãi suất thực dương, đảm bảo thu bù chi và có lãi.
Tìm kiếm và chuyển dần sang đầu tư theo dự án, các chương trình phát triển kinh tế có hiệu quả.
Để thực hiện định hướng trên trong những năm qua Sở Giao dịch đã thực hiện tốt việc cho vay các thành phần kinh tế phục vụ phát triển các ngành kinh tế – xã hội. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Sở đã cho vay tới các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn công ty cổ phần, các tổ chức tín dụng và các hộ sản xuất.
Bảng 3: Tình hình dư nợ Sở Giao dịch
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Số tiền (tỷ đồng)
(%)
Số tiền (tỷ đồng)
(%)
Số tiền (tỷ đồng)
(%)
1. Tổng dư nợ
Trong đó:
454
100
862
100
930
100
- Doanh nghiệp nhà nước
264
58,15
727
84,34
598
64,30
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
187
41,19
127
14,73
305
32,80
- Hộ tư nhân cá thể
3
0,66
8
0,92
27
2,90
2. Dư nợ quá hạn
Nợ quá hạn khó đòi
8,60
8,30
1,90
1,83
5,70
1,81
0,66
0,21
45,50
5,20
4,89
0,56
Nguồn: Báo cáo sử dụng vốn Sở Giao dịch
Quả bảng trên cho ta thấy tình hình cho vay vốn tại Sở Giao dịch. Khách hàng của Sở Giao dịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ cá thể chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn vay. Năm 2001 dư nợ của doanh nghiệp nhà nước là 264 tỷ đồng chiếm 58,15% tổng dư nợ cho vay, năm 2002 là 727 tỷ đồng chiếm 84,34% tổng dư nợ cho vay và năm 2003 là 598 tỷ đồng giảm so với năm 2002 và chiếm 64,30% tổng dư nợ.
Ngoài cho vay các doanh nghiệp nhà nước thì Sở Giao dịch còn cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng với số lượng tương đối lớn. Năm 2001 là 187 tỷ đồng chiếm 41,19%, năm 2002 là 127 tỷ đồng chiếm 14,73%, năm 2003 là 305 tỷ đồng chiếm 32,80%.
Số còn lại Sở đã cho vay các hộ tư nhân với một lượng rất nhỏ so với tổng dư nợ cho vay. Năm 2001 chỉ có 3 tỷ đồng chiếm 0,66% tổng dư nợ, năm 2002 là 8 tỷ đồng chiếm 0,92% và năm 2003 tăng lên đến 27 tỷ đồng nhưng cũng chỉ chiếm 2,9% tổng dư nợ.
Tuy nhiên, cơ cấu tín dụng có sự thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước giảm dần từ 84,34% tổng dư nợ năm 2002 xuống còn 64,30% năm 2003. Dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên đáng kể từ 14,73% năm 2002 tăng lên 32,80% năm 2003. Dư nợ cho vay hộ cũng tăng lên đáng kể từ 0,66% năm 2001 lên 2,9% năm 2003. Đối với một ngân hàng thương mại đặt trung tâm tại thành phố thì việc tăng dư nợ cho vay hộ như vậy là một thành tựu rất đáng khích lệ. Việc tăng dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay hộ như trên là do Sở Giao dịch.
đã mạnh dạn chuyển hướng kinh doanh sang lĩnh vực này. Xu hướng đó cũng rất phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế 2000 – 2010 của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đó là “Một tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển hợp tác, lâu dài, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nhưng ta thấy cơ cấu cho vay có sự chênh lệch rất lớn giữa các thành phần kinh tế. Cho vay hộ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tổng dư nợ tập trung phần lớn cho các doanh nghiệp sản xuất có quy mô lớn còn sản xuất của các hộ rất ít. Do vậy, tỷ trọng cho vay hộ chiếm tỷ trọng nhỏ. Tuy nhiên ta thấy tình hình cho vay hộ có cải thiện rõ rệt tuy tỷ trọng cho vay không đáng kể nhưng dư nợ cho vay tăng cao năm 2003 tăng gấp 9 lần so với năm 2001. So với tổng dư nợ thì dư nợ cho vay hộ không đáng kể nhưng xét về mặt lượng thì đây cũng không phải là lượng nhỏ và đối với kinh tế hộ thì nó cũng có vai trò rất lớn vì quy mô sản xuất của hộ nhỏ không thể so sánh với các doanh nghiệp lớn với những khoản vay hàng trăm tỷ đồng còn đối với hộ do quy mô sản xuất nhỏ nên mỗi hộ vay chỉ khoảng vài chục triệu và cao cũng là trăm triệu.
2. Hiệu quả tín dụng
Về hiệu quả tín dụng có sự cải thiện nhưng không ổn định. Tỷ lệ dư nợ quá hạn năm 2001 là 1,9% trong đó chủ yếu là dư nợ khó đòi tập trung ở các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 2002 tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống còn 0,66% do Sở Giao dịch đã ngừng cấp tín dụng cho một số doanh nghiệp để thu hồi nợ quá hạn nên đã giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Nhưng đến năm 2003 tỷ lệ nợ quá hạn trả nợ lại tăng cao 4,89% do một số doanh nghiệp Nhà nước vay đã đến hạn trả nợ nhưng chưa trả được nợ như công ty Xuất nhập khẩu vật tư đường biển, tổng công ty mía đường I. Sở Giao dịch càn có kế hoạch tăng cường công tác thu hồi nợ, có biện pháp xử lý nợ tồn đọng, cơ cấu lại nợ theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
III. Đánh giá chung thành tích, hạn chế và nguyên nhân
1. Những kết quả đạt được
Qua 7 năm hoạt động, thời gian tuy chưa lâu nhưng Sở Giao dịch NHNo&PTNT đã tạo được những bước tiến vững chắc trong hoạt động kinh doanh của mình. Tổng nguồn vốn cũng như tổng dư nợ của Sở Giao dịch không ngừng tăng trưởng qua các năm, Sở Giao dịch NHNo&PTNT đã tích cực sử dụng nhiều biện pháp để thu hút nguồn vốn lớn, rẻ góp phần tăng trưởng nguồn vốn để kinh doanh và huy động hộ trung ương, đặc biệt là đầu tư cho phát triển sản xuất và phục vụ đời sống. Trong những năm qua Sở Giao dịch đã đạt được những kết quả sau:
* Về khách hàng:
Ngân hàng một mặt duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, mở cửa giao dịch với khách hàng cả ngày thứ bảy. Thái độ làm việc của nhân viên của Ngân hàng với khách hàng vui vẻ, tế nhị. Chính vì vậy đã thu hút được số lượng khách hàng đến giao dịch và mở tài khoản tiền gửi cũng như tài khoản tiền vay tại Ngân hàng ngày càng tăng. Điều này khẳng định uy tín của Ngân hàng ngày càng được nhân rộng.
* Về nguồn vốn :
Trong ba năm gần đây, nguồn vốn của Sở Giao dịch NHNo&PTNT liên tục tăng, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng trưởng trong tổng cơ cấu tài sản nợ. Với cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng cho thấy nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn ổn định nhất. Đây cũng là nguồn vốn có lãi suất đầu vào thấp. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì tỷ trọng vốn huy động có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn đặc biệt là tỷ trọng vốn huy động có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ trọng vốn huy động không kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động ngày càng giảm. Điều này chứng tỏ nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch NHNo&PTNT có tính chất ổn định cao, Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư cho những dự án trung và dài hạn.
Đạt được những kết quả trên là do:
- Sở Giao dịch NHNo&PTNT đã không ngừng chú trọng giáo dục đạo đức, phong cách nghề nghiệp cho đội ngũ nhân viên, đổi mới phong cách giao dịch, nên tạo được uy tín và lòng tin đối với khách hàng.
- Tăng cường vận động các đơn vị, cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng, tài khoản tiền gửi cá nhân tại Ngân hàng ngày một tăng, thực hiện giao khoán đến từng cán bộ Ngân hàng.
- Sở Giao dịch đã mở rộng nhiều hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng: Chuyển tiền nhanh qua màng vi tính, thực hiện mua bán ngoại tệ, thanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 74.doc