MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 : Đầu tư và đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 3
1.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 3
1.1.1. Cơ sở hạ tầng và phân loại cơ sở hạ tầng 3
1.1.1.1. Khái niệm chung về cơ sở hạ tầng. 3
1.1.1.2. Phân loại cơ sở hạ tầng 5
1.1.2. Cơ sở hạ tầng đô thị và phân loại cơ sở hạ tầng đô thị 7
1.1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng đô thị 7
1.1.2.2. Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị 8
1.1.3. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 9
1.1.3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 9
1.1.3.2. Vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 9
1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 12
1.2.1. Một số quan niệm về đầu tư và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 12
1.2.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển 12
1.2.1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 13
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 14
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 15
1.2.3.1. Vốn Ngân sách Nhà nước 16
1.2.3.2. Vốn ODA 17
1.2.3.3. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 18
1.2.3.4. Vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân và các nguồn khác. 18
1.3. Sự cần thiết của đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 19
1.3.1. Đặc điểm của sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 19
1.3.2. Chủ trương đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sơ hạ tầng cấp nước đô thị. 20
1.3.3.Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngành nước. 22
Chương II: Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam 25
2.1. Tổng quan về vốn đầu tư và các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 25
2.1.1.Thực trạng vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 25
2.1.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 29
2.2. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 31
2.2.1. Thực trạng quy mô và tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 31
2.2.2.Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 32
2.2.3. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các hình thức đầu tư. 35
2.2.3.1. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án. 35
2.2.3.2. Đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức BOT 37
2.2.3.3. Đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức PPP ( Public private partnerships) 41
2.3. Đánh giá chung về đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 45
2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu: 45
2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 48
Chương 3: Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 50
3.1. Phương hướng, mục tiêu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 50
3.1.1. Cơ sở xác định phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 50
3.1.1.1. Quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 50
3.1.1.2. Phương hướng, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 51
3.1.1.3. Dự báo nhu cầu nguồn vốn đến năm 2015 cho việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị 52
3.2. Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 55
3.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 55
3.2.1.1. Chính sách giá nước : 55
3.2.1.2. Môi trường pháp lý: 56
3.2.1.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: 58
3.2.2. Hoàn thiện môi trường kinh doanh của ngành nước 58
3.2.2.1. Công tác quy hoạch và điều phối cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 58
3.2.2.2. Đổi mới cơ chế tổ chức quản lý: 59
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngành: 61
3.2.3. Đa dạng và mở rộng các phương thức đầu tư. 67
KẾT LUẬN 70
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thôn còn lạc hậu và thiếu thốn nhiều mà đến năm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân… vì vậy sau năm 2005, sau khi ra một loạt các nghị định, văn bản mới thì nguồn vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA có chuyển dịch sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Nhưng hai nguồn vốn này lại chiếm tỷ trọng nguồn vốn rất cao, nó cao hơn nhiều so với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển và nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân. Do đó khi hai nguồn vốn này chuyển sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì sự giảm đi về tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều dễ hiều.
` Nhưng đến năm 2007, do chính sách huy động của Nhà nước trong việc thu hút của Nhà nước đã phát huy hiệu quả, nên nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển tăng với quy mô và tốc độ rất cao, do đó nó đóng góp lớn vào việc tăng quy mô tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Trong giai đoạn 2001- 2007 nhìn chung quy mô các nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều tăng, nhưng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển là có tốc độ tăng cao nhất. So với năm 2001, năm 2002 tốc độ tăng là 278,26%, năm 2007 tốc độ tăng là 7986,95%. Tiếp đến là đến tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân. So với năm 2001, thì đến năm 2002 tốc độ tăng là 206,98%, đến năm 2005 tốc độ tăng còn đạt đến 1411,63%. Sau đó là đến tốc độ tăng của vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA. Điều này cũng đi đúng chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị .
2.1.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung cũng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói thường được thực hiện qua các dự án. Thời gian vừa qua, các dự án cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau:
Bảng 2.3 : Quy mô và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2001- 2007
Tổng
Dự án nhóm A
Dự án nhóm B
Dự án nhóm C
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số lượng
Tỷ trọng
(%)
Số lượng
Tỷ trọng
(%)
Số lượng
Tỷ trọng
(%)
Tổng dự án
703
100
85
100
190
100
431
100
Các dự án khởi công mới
290
41,25
39
45,89
75
39,47
179
41,53
Các dự án hoàn thành
245
34,85
27
31,76
66
34,74
152
35,27
Các dự án chuyển tiếp
168
23,90
19
22,53
49
25,79
100
23,20
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị
Qua bảng số liệu trên, ta thấy các dự án nhóm C là chiếm số lượng dự án lớn nhất, với số lượng là 431 dự án và chiếm 61,3% tổng số dự án, dẫn đầu về cả các dự án khởi công mới, các dự án hoàn thành cũng như các dự án chuyển tiếp. Dự án nhóm A có số lượng các dự án nhỏ hơn, chỉ có 85 dự án, chiếm tỷ trọng 12,09% tổng số dự án. Tổng số dự án nhóm B có số lượng 190 dự án, tương ứng với tỷ trọng 26,61% trong số tổng số dự án. Như vậy so với số dự án nhóm C và dự án nhóm A thì dự án nhóm C đứng vị trí thứ 2 về số lượng. Điều này cũng dễ hiểu vì đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án nhóm C thì số vốn đầu tư là nhỏ hơn, thường là dưới 20 tỷ đồng, mà thời gian triển khai là ngắn hơn, đó cũng là lý do tại sao mà con số dự án nhóm C đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước là nhiều hơn cả. Trong khi đó, dự án nhóm A với số vốn cần đầu tư là lớn hơn 200 tỷ đồng nên việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự nhóm nhóm A thường ít hơn. Với dự án nhóm B, thì số vốn đầu tư vào là từ 20 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, do vậy mà việc đầu tư cho các dự án này chiếm vị trí thứ 2 trong số 3 loại dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Nhìn vào bảng ta cũng nhận thấy, số các dự án khởi công mới ở cả các dự án nhóm A, B, C đều chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giai đoạn 2001-2007. Năm 2007, chiếm tỷ trọng là 41,25% , tiếp theo là số các dự án hoàn thành chiếm tỷ trọng 34,85%, đứng ở vị trí thứ hai. Số dự án chuyển tiếp sang kỳ sau chiếm tỷ trọng nhỏ nhất khoảng 23,90% tổng số dự án. Số các dự án chuyển tiếp này là các dự án mới triển khai trong giai đoạn nhưng chưa kịp hoàn thành trong cùng kỳ nên phải chuyển sang giai đoạn sau
Qua phân tích ở trên đã phần nào sơ lược thực trạng vốn đầu tư và các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay, qua đó cũng cho thấy phần nào sự đóng góp của vốn đầu tư tư nhân vào tổng số vốn đầu tư chung, vậy cụ thể thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào?
2.2. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
2.2.1. Thực trạng quy mô và tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Dựa vào bảng 2 ta thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nhìn chung là tăng dần lên qua các năm, năm 2001 nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn rất thấp, mới chỉ đầu tư 86 tỷ đồng, năm 2002 tăng lên 264 tỷ đồng tức là tăng 178 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 206,98% so với năm 2001, và số vốn này liên tục tăng vào các năm 2003, năm 2004. Đến năm 2005, số vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đạt mức 1300 tỷ đồng, tức là gấp gần 15 lần so với năm 2001, và tăng 786 tỷ đồng so với năm 2004, tương ứng với mức tăng 152,925%, sở dĩ có sự tăng nhanh vậy là do trong năm này chính sách xã hội hóa đầu tư được triển khai khá tốt, mở rộng về quy mô các kênh như phát hành trái phiếu, việc phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khóan vì vậy đã thu hút được một nguồn lực đáng kể cho đầu tư, đã có một số dự án lớn đã được triển khai như dự án cấp nước của nhà máy nước Bình An, nhà máy nước Thủ Đức…
Tuy nhiên, đến năm 2006, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm, so với năm 2005 số vốn đầu tư tư nhân giảm xuống chỉ còn 714 tỷ đồng, tức là giảm 45, 08 % so với năm 2005. Và đến năm 2007 nguồn vốn này lại giảm so với năm 2006 là 3,36%. Nguyên nhân có sự giảm xuống của nguồn vốn này là do việc đa dạng hóa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mới bắt đầu thực hiện, do đó có một số hạn chế trong việc thực thi, và đó cũng là nguyên nhân có sự giảm đi của nguồn vốn này. Tuy trong 2006 và năm 2007, nguồn vốn này có xu hướng giảm đi, nhưng cũng không thể khẳng định là xu hướng trong thời gian tới nguồn vốn này lại tiếp tục giảm xuống tiếp vì với những chính sách mà Chính phủ đưa ra như việc chuyển bớt đầu tư bằng vốn Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, đồng thời sự giảm đi của nguồn vốn ODA, xu hướng nguồn vốn đầu tư tư nhân có thể sẽ tăng lên, có thể nó còn vượt xa con số 1300 tỷ đồng của năm 2005.
Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào ta xem xét bảng sau:
2.2.2.Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Như trên đã nói, nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị gồm có 4 loại vốn: vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, và các nguồn vốn khác (doanh nghiệp, cổ phần…). Để xét xem tỷ trọng các nguồn vốn đó như thế nào cũng như xem xét sự biến động của các nguồn vốn đó ra sao, chúng ta xem xét qua bảng sau:
Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2001 – 2007
Đơn vị : %
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
Vốn Ngân sách Nhà nước
22,69
23,61
23,19
20,56
13,33
8,97
15
Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
1,24
3,96
7,41
13,04
19,51
29,18
40,43
Vốn ODA
71,46
60,87
54,50
50,34
38,27
43,54
29.57
Các nguồn vốn khác ( DN, cổ phần)
4,61
12,01
14,90
16,06
28,89
18,31
15
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua các năm, chúng ta xem xét xu hướng biến động của các nguồn vốn này dựa vào hình:
Hình 2.1 : Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị qua các năm từ 2001 – 2007:
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tâng và đô thị. Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu về cơ cấu nguồn vốn đầu tư qua các năm từ năm 2001 đến năm 2007, vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 22893 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,85 %, vốn Ngân sách Nhà nước là 20.08%, vốn tín dụng đầu tư phát triển là 17,29%, vốn đầu tư tư nhân là 16,68%. Cụ thể tỷ trọng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là :
Trong 4 năm đầu từ năm 2001 đến năm 2004 hai nguồn vốn Ngân sách Nhà nước và vốn ODA là hai nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn, còn hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân …chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng đến mấy năm gần đây từ năm 2005 đến năm 2007, hai nguồn vốn này giảm dần, ngược lại hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân… có xu hướng tăng dần. Như vậy có thể thấy được sự chuyển biến về cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cụ thể sự chuyển biến thế nào, ta xem xét qua phân tích cụ thể sau:
Qua bảng và qua biểu đồ trên ta quan sát thấy tỷ trọng của vốn ODA ngày càng giảm dần, năm 2001 nguồn vốn này chiếm 71,46% về tỷ trọng nhưng đến năm 2007 nó giảm rất nhanh xuống còn 29,57%. Nguồn vốn ngân sách cũng giảm nhanh, từ 22,69% vào năm 2001, giảm xuống còn 15% vào năm 2007.
Nhưng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân thì lại khác. Năm 2001, tổng hai nguồn vốn nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân là 109 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 5,68%, tỷ trọng này rất nhỏ. Nhưng đến năm 2007 tổng hai nguồn vốn này đã lên tới 2550 tỷ đồng chiếm 55,43% tổng số vốn. Có thể dự đoán xu hướng hai nguồn vốn này còn tiếp tục tăng nữa do chính sách xã hội hóa đầu tư, cùng với việc chuyển dịch vốn Ngân sách và vốn ODA về cho vùng nông thôn.
Dựa vào bảng và hình trên, ta thấy nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân so với tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng, năm 2002 tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng số vốn đầu tư là 12,01%, đến năm 2004 tỷ trọng này lại tăng lên chiếm tới 16,06% tổng vốn và tăng cao nhất vào năm 2005, chiếm tới 28,89%. Nhưng lại giảm dần liên tục 2 năm 2006 và năm 2007. Đến năm 2006, tỷ trọng vốn chỉ còn chiếm 18,3%, tức là giảm 10,59% so với năm 2005, đến năm 2007 tỷ trọng lại giảm xuống mức 15%, so với năm 2006 thì giảm đi là 3,3%. Nguyên nhân có sự biến động đó như ở trên đã phân tích, đó là do sự kém hiệu quả của các văn bản, chính sách của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân.
Việc đầu tư của tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức thì hiệu quả thu được là khác nhau, tiếp theo ta xem xét xem thực trạng thu hút vốn đầu tư tư nhân ra sao? và hiệu quả đạt được từ việc thu hút thêm vốn đầu tư tư nhân như thế nào?
2.2.3. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các hình thức đầu tư.
2.2.3.1. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án.
Trong những năm qua, việc đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường được thực hiện qua các dự án, cụ thể tình hình thực hiện qua các dự án được thể hiện ở bảng 5:
Bảng 2.5 : Số dự án và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nguồn vốn giai đoạn 2001- 2007
Đơn vị :Số dự án, %
Dự án nhóm A
Dự án nhómB
Dự án nhóm C
Tổng
Tổng số
85
190
431
703
Tỷ trọng
100
100
100
100
1. Vốn NSNN
-
21
55
76
Tỷ trọng
-
11,05
12,76
10,81
2. Vốn tín dụng ĐTPT
35
62
121
218
Tỷ trọng
41,17
32,63
28,07
31,01
3. Vốn ODA
41
68
126
235
Tỷ trọng
48,23
35,79
29,23
33,03
4. Vốn khác ( doanh nghiệp, tư nhân….)
9
39
129
177
Tỷ trọng
10,50
20,52
29,94
25,15
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị
Như vậy, qua bảng trên ta có thể thấy trong giai đoạn 2001-2007 không có một dự án nhóm A nào được đầu tư bởi nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn này chủ yếu đầu tư cho các dự án thuộc nhóm B, C. Số dự án được đầu tư bằng vốn này cũng ít, chỉ có 76 dự án chiếm 10,81% tổng số dự án trong giai đoạn này.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vào các dự án cấp nước đô thị chiếm tỷ trọng cũng lớn, có 218 dự án, chiếm khoảng 31,01% tổng số dự án. Nguồn vốn này được đầu tư cho các dự án nhóm A là lớn nhất, tiếp theo đó là nhóm B và nhóm C.
Nguồn vốn ODA đầu tư cho dự án là nhiều nhất, trong thời kỳ này nguồn vốn đã đầu tư 235 dự án, chiếm 33,03 % tổng số dự án. Vốn dự án đầu tư cho các dự án thuộc nhóm A chiếm 48,23% tổng số dự án, dự án nhóm B chiếm 35,79% và dự án nhóm C chiếm 29,23%.
Có 177 dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn tư nhân, chiếm tỷ trọng 25,15% tổng số dự án. Nguồn vốn này đầu tư chủ yếu cho các dự án thuộc nhóm C, vì các dự án loại này thì quy mô vốn nhỏ hơn, phù hợp hơn với các doanh nghiệp tư nhân.
2.2.3.2. Đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức BOT
Khái niệm và đặc điểm :
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (hợp đồng BOT- building operation transfer) là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định ( thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý ) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nhà nước để tiếp tục quản lý và sử dụng . Hầu hết các dự án BOT đều được thực hiện Chính phủ đề nghị. Thông qua các danh sách được đề xuất công bố, Chính phủ sẽ gọi thầu cho một số dự án cụ thể được thực hiện trên cơ sở BOT. Các dự án này được tài trợ trên cơ sở bảo lãnh có hạn chế và được xây dựng, vận hành như là một doanh nghiệp tư nhân theo một thoả thuận dự án với Chính phủ. Sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng thì chương trình đó được chuyển giao không bồi hòan cho Nhà nước để tiếp tục quản lý và sử .
Tính chất của việc đầu tư theo dự án BOT là một nhà đầu tư được giao quyền đầu tư để xây dựng, khai thác và kinh doanh một công trình theo phương án đã được duyệt trong một thời gian cụ thể. Sau đó đến thời hạn thì quyền sở hữu công trình lại được chuyển giao cho cơ quan nhà nước, kết quả cuối cùng của dự án BOT là sẽ xây dựng nên được một công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế.
Thông thường thì quy trình để thực hiện một dự án đầu tư theo hình thức BOT phải trải qua 3 giai đoạn chính:
- Xây dựng công trình : đây là giai đoạn nhà đầu tư (doanh nghiệp BOT) sử dụng vốn của mình và vốn đi vay để xây dựng công trình. Theo đó nhà đầu tư sẽ phải tổ chức xây dựng và quản lý việc xây dựng công trình theo thiết kế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Kinh doanh: Sau khi giai đoạn xây dựng công trình kết thúc, nhà đầu tư ( doanh nghiệp BOT) sẽ tiến hành vận hành, khai thác công trình và thu phí sử dụng công trình ( hoặc giá bán sản phẩm của công trình) trong một khoảng thời gian như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Thời gian vận hành công trình mà doanh nghiệp BOT được phép khai thác tùy thuộc vào từng tính chất của từng dự án, thường thì từ 10-50 năm. Đây là khoảng thời gian mà chủ đầu tư đã tính toán trong lúc lập dự án, thời gian này đủ để thu hồi đủ vốn và có lãi cho họ.
- Chuyển giao công trình : Sau khi kết thúc thời hạn vận hành, khai thác công trình BOT, doanh nghiệp BOT sẽ tiến hành xây dựng các thủ tục bàn giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước( không bồi hoàn vì doanh nghiệp BOT đã thu hồi đủ vốn và có lãi ). Nhưng trước khi bàn giao công trình BOT, doanh nghiệp BOT phải thực hiện đầy đủ công việc bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị công trình, bảo đảm công trình sẽ tiếp tục vận hành trong trạng thái tốt nhất có thể.
Hình thức tài trợ BOT cho các dự án cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có vai trò rất quan trọng, đó là :
- Sử dụng được nguồn tài trợ của khu vực tư nhân để cung cấp các nguồn vốn mới như vậy sẽ làm giảm đi các khoản vay của Nhà nước và các khoản chi trực tiếp nhằm củng cố mức độ tin cậy trong thanh toán của Chính phủ.
- Việc thực hiện dự án theo hình thức BOT sẽ phân bổ rủi ro của các dự án và các gánh nặng cho Nhà nước vì nếu không thì nó sẽ phải do khu vực Nhà nước gánh chịu. Khi khu vực tư nhân chịu trách nhiệm vận hành, bảo dưỡng và đối với đầu ra của dự án trong một giai đoạn được mở rộng ( Chính phủ sẽ chỉ nhận được bảo đảm cho giai đoạn xây dựng thông thường và bảo hành thiết bị ).
- Khi có sự tham gia của các nhà tài trợ tư nhân và các bên cho vay thương mại có kinh nghiệm vào đây sẽ đảm bảo có được sự đánh giá sâu sắc và tăng tính khả thi của dự án.
- Chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân sự của địa phương nơi mà dự án tiền hành, phát triển thị trường vốn quốc gia và khu vực cũng như các công cụ tài trợ khác.
- Có cơ hội để tạo ra được một phương pháp chuẩn của khu vực tư nhân, để qua phương pháp chuẩn này có thể tính toán được hiệu quả của các dự án tương tự thuộc khu vực Nhà nước và các cơ hội tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các dự án.
Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức BOT:
Ở Việt Nam, trong giai đọan vừa qua vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị chủ yếu được đầu tư theo hình thức BOT vì mục đích khu vực tư nhân đầu tư chủ yếu là lợi nhuận hoặc đầu tư với tiêu chí là thu được phí sử dụng để bù đắp chi phí, ít nhất là bù chi phí vận hành và duy tu nếu không kể đến chi phí đầu tư cơ bản. Chính vì thế, theo tiêu chí này thì các nhà đầu tư tư nhân chủ yếu tập trung đầu tư vào các nhà máy, các hệ thống... ở các đô thị lớn.
Một số dự án đã cam kết triển khai theo hình thức BOT hoàn thành và được đưa vào sử dụng như:
- Dự án cấp nước sông Đà : Có tổng công suất là 600.000 m3/ngđ, với tổng mức đầu tư khoảng 158 triệu USD. Dự án sẽ cấp nước cho chuỗi đô thị Sơn Tây, Xuân mai, Miếu Môn, Hà Đông và Hà Nội. Công trình này do Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam ( Vinaconex) đầu tư.
- Dự án cấp nước Kêng Đông : Dự án có tổng công suất 240.000m3/ngày, lấy nguồn nước từ kênh Đông, hồ Dầu Tiếng, với vốn đầu tư hơn 1.000 tỉ đồng. Nguồn nước này sẽ cung cấp cho các khu dân cư huyện Củ Chi, khu đô thị tây bắc TP, các khu công nghiệp thuộc huyện Củ Chi, Hóc Môn và huyện Đức Hòa (Long An)…
Đây là dự án cấp nước thực hiện theo qui chế xã hội hóa có qui mô lớn nhất từ trước đến nay, do Công ty cổ phần cấp nước Kênh Đông làm chủ đầu tư. Dự án sẽ triển khai năm 2005 và hoàn thành sau hai năm.
Nhà máy sẽ bắt đầu hòa mạng cấp nước của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) từ tháng 1/2008. Theo hợp đồng tiêu thụ đã được ký kết, Sawaco sẽ mua nước từ Nhà máy nước Kênh Đông với giá bán buôn 2.783 đồng/m3 và sau đó tăng dần lên 4.168 đồng/m3 vào năm 2027.Nhà máy nước Kênh Đông là một trong các dự án trọng điểm thuộc chiến lược đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở về nước sạch của TP HCM hiện nay.
- Dự án cấp nước Minh Đức: Dự án cấp nước Minh Đức do Chính phủ Phần Lan tài trợ, tổng mức đầu tư 14 tỷ 319 triệu đồng, triển khai trên diện tích 4.356 m2 , xây dựng nhà máy nước công suất 1300 m3/ngày, cấp nước cho khoảng 2900 hộ dân (năm 2015 sẽ nâng công suất lên 2.200 m3 ngày). Đến nay, dự án đã hoàn thành khoảng 90% khối lượng công việc.
- Dự án cấp nước Thái Bình : Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch xã Nguyên Xá huyện Vũ Thư được xây dựng tại địa điểm xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình với diện tích sử dụng đất là 1.856m2, trong đó: Diện tích đất xây dựng công trình thu, trạm bơm là 1: 200m2 và diện tích sử dụng xây dựng trạm xử lý là 1.656m2 do Ban Quản lý dự án cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn Thái Bình làm Chủ đầu tư, tổng mức đầu tư là 11.658.451.983 đồng từ nguồn tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB); Liên danh Công ty nước và môi trường Việt Nam với Công ty cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng hạ tầng Phương Đông là đơn vị tư vấn lập dự án. Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư có công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình cấp IV. Công suất của công trình là 800m3/ngày đêm, nguồn nước lấy từ nước mặt sông Hồng.
- Dự án đầu tư BOT của công ty cấp nước Bình An: Dự án được đầu tư xây dựng tại thành phố HCM. Với công suất khoản 100.000m3/ ngày, được thực hiện vào tháng 11 năm 1996 và kết thúc vào năm 1999 (33 tháng ). Những cơ quan liên quan như tập đoàn EMAS và SADEC ỏ Malaysia. Đầu tư theo hình thức BOT, tổng chi phí đầu tư của dự án khỏang 35,8 triệu USD, trong đó EMAS góp 90% trong số tổng chi phí và SADEC góp 10%. Dự án bước đầu đi vào hoạt động vào năm 2000 và hoạt động trong 20 năm.
2.2.3.3. Đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức PPP ( Public private partnerships)
Bên cạnh hình thức BOT, hiện nay đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam mới xuất hiện thêm một hình thức mới đó là hình thức hợp tác công tư, tức là hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân ( PPP). Theo Giáo sư Fukunari Kimura của trường Đại học Keio, Nhật Bản khuyến nghị mô hình hợp tác Nhà nước và tư nhân cần được áp dụng trong các trường hợp dự án không khả thi về mặt kinh tế ,bất ổn định quá lớn để bù đắp bảo hiểm cho tư nhân, sự tham gia của tư nhân giúp nâng cao hiệu quả. Theo truyền thống thì các dịch vụ công cộng vẫn do khu vực công cộng phân phối. Việc hợp tác công tư trong việc cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả tốt hơn cho nền kinh tế.
Thuật ngữ PPP được sử dụng để miêu tả một loạt các sắp xếp công việc, từ các mối quan hệ đối tác không chính thức và lỏng lẻo đến các hợp đồng dịch vụ thiết kế - xây dựng – tài trợ - vận hành và chuyển giao( DBFOT) và các công ty liên doanh chính thức hơn. Các dự án PPP thường có nét đặc trưng sau:
- Có mối quan hệ tương đối lâu dài, việc hợp tác giữa đối tác công cộng và đối tác tư nhân được xây dựng dựa trên những khía cạnh khác nhau của một dự án đã được lập kế hoạch từ trước.
- Xuât hiện các cơ cấu vốn, liên kết các nguồn vốn của khu vực tư nhân và công cộng.
- Cơ quan vận hành đóng một vai trò quan trọng trong mỗi giai đoạn của dự án ( thiết kế, hoàn thiện, thực hiện, cấp vốn ).
- Khi tham gia hợp tác với đối tác tư nhân thì đối tác công cộng thường chú trọng vào việc xác định các mục tiêu mà mình cần đạt được. Tùy theo cách thức hợp tác khác nhau mà các mục tiêu đó là khác nhau.
- Khi hợp tác giữa nhà nước và tư nhân thì có sự phân chia rủi ro giữa các đối tác thuộc khu vực công cộng và các đối tác thuộc khu vực tư nhân.
Những hình thức kết hợp khác nhau giữa khu vực công cộng – tư nhân trong cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay là :
Xây dựng, sở hữu và điều hành BOO ( Build operate own): Là một sự hợp tác giữa Nhà nước và Tư nhân, khi một công ty tư nhân thông qua hình thức chìa khóa trao tay, có thể xây dựng, sở hữu và điều hành một cơ sở công cộng. Việc một hệ thống như vậy cho thấy khu vực tư nhân hài long với việc những rủi ro và lợi ích kinh tế có thể được điều hòa.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp cấp nước: là việc tạo ra loại hình doanh nghiệp vốn chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động và tư nhân tham gia. Mục tiêu của việc cổ phần hóa không phải là xóa bỏ DNNN, mà là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh; vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức PPP là :
Đối với mô hình đầu tư PPP thì tình hình thực hiện đầu tư tư nhân theo hình thức này mới chỉ là dự định, thực tế mô hình PPP vẫn còn rất mới ở Việt Nam. Tuy nhiên hợp tác Nhà nước và tư nhân sẽ tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và giúp cung cấp được các dịch vụ chất lượng cao, sự hợp tác này ngòai việc tổng hợp nguồn vốn còn là sự chia sẻ vai trò, rủi ro trong đầu tư và đạt hiệu quả cao hơn nhờ mô hình quản lý ngắn gọn và tính cạnh tranh cao.
Cho đến nay vẫn chưa có chuẩn mực nào để lựa chọn dự án áp dụng mô hình PPP mà tùy theo tính chất của dự án có thể phối hợp nguồn vốn công. Việc hợp tác này mới chỉ được thực hiện trong các mô hình thí điểm và một số dự án BOO, cụ thể như sau:
- Trong thời gian qua, một số dự án thí điểm cấp nước thị trấn theo mô hình DBL sẽ được thực hiện như :
Ngân hàng thế giới tài trợ Dự án phát triển hệ thống cấp nước đô thị - các thị trấn: Dự án này đầu tư 56 triệu $ vào hệ thống cấp nước thị trấn, áp dụng thiết kế kỹ thuật – xã hội theo mô hình DBL. Hạ tầng của hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị này thuộc sở hữu của khu vực công cộng ( PWSCs) nhưng việc vận hành và bảo dưỡng sẽ được ký hợp đồng với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tại địa phương
Chương trình vệ sinh và cấp nước đô thị nhỏ được sự tài trợ của Bộ ngoại giao Phần Lan : Khoản tài trợ 20 triệu Euro từ Bộ ngoại giao Phần Lan với phạm vi bao phủ 12 huyện thị của bốn tỉnh là Thái Bình, Hưng yên, Hải phòng và Bắc Kạn. Việc vận hành và bảo dưỡng hệ thống cấp nước và vệ sinh tại thị trấn sẽ được ký hợp đồng với các doanh nghiệp tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28529.doc