Ngày nay, nếu đi trên các đường phố các bạn sẽ bắt gặp rất nhiều quán cà phê Trung Nguyên và nó luôn có phong cách riêng. Nhiều chuyên gia kinh tế đã công nhận cà phê Trung Nguyên là một thành công kỳ diệu của việc xây dựng thương hiệu tại Việt Nam. Chỉ trong vài năm từ 1999 là một xưởng sản xuất nhỏ tại Buôn Mê Thuật, hiện nay Trung Ngưyên đã khẳng định sự có mặt của mình khắp mọi miền đất nước.
Thế mới biết Trung Nguyên, một thương hiệu mới xuất hiện mà có sức hấp dẫn biết dường nào. Đến năm 2001, đã có trên 400 quán cà phê trong cả nước bởi vì ông chủ Trung Nguyên – Đặng Lê Nguyên Vũ rất biết chiều lòng khách hàng khi đã biết khám phá và trình làng trên 30 loại cà phê có những hương vị độc đáo riêng. Với tính đa dạng của sản phẩm đã tạo cho người thưởng thức có dịp làm quen với nhiều cà phê độc đáo, rất riêng chỉ tìm thấy ở Trung Nguyên. Không chỉ dừng lại ở đó, vào năm 2002 tại Tokyo, quán cà phê Trung Nguyên lần đầu tiên xuất hiện. Ở đây cà phê Trung Nguyên có sức cạnh tranh lớn, mỗi tách cà phê chính hiệu của Trung Nguyên cao hơn cà phê của Nhật 25% và cao hơn cả tập đoàn cà phê Mỹ Sarrbucks đầy uy lực 50%. Đặc biệt cà phê Trung Nguyên thực sự bước vào hành lang Đông Tây mà bước đột phá ngoạn mục là G7. Đó chính là mũi tên nhằm hướng vào G7, những quốc gia giàu có, phát triển nhất thế giới và chiếm lĩnh được thị trường của các đại gia lừng danh thế giới này. Cà phê Trung Nguyên sẽ làm cho vị thế cà phê Việt Nam trở nên vững chắc, tạo lập một thế đứng cho cà phê Việt trên thị trường quốc tế rộng lớn, đầy tiềm năng. Đến nay, cà phê Trung Nguyên đã có vị thế ở thị trường Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Séc
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam trong điều kiện hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn cả là công ty Olam (100% vốn nước ngoài) xuất khẩu 21.326 tấn; công ty Dakman (liên doanh) xuất khẩu 18.076 tấn; VINAFIMEX xuất khẩu 13.719 tấn.
Với tổng diện tích đạt trên 500.000 ha và sản lượng trên 10 triệu tấn mỗi năm, cà phê hiện nay được xếp sau gạo trong danh mục hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Để đạt được sản lượng cao như vậy, ngành cà phê Việt Nam thu hút được khoảng 300 nghìn hộ gia đình với trên 600 nghìn lao động, đặc biệt vào tháng 3 thu hoạch con số này có thể lên tới 700.000 - 800.000. Như vậy, số lao động của ngành cà phê đã đạt 7,83% tổng số lao động của toàn quốc nói chung và 2,93% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp nói riêng.
1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê Việt Nam
Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra với nhưng bước khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn 2 tỉnh Đăclăk và Gia Lai Kom Tum. Ở Tây Nguyên vào thời gian này, cả nước mới chỉ có không đầy 20.000 ha tăng trưởng kém, năng suất thấp, với sản lượng chỉ khoảng 4.000 - 5.000 tấn. Đế nay vào năm 2000 cả nước có 500.000 ha cà phê, hầu hết sinh trưởng khoẻ năng suất cao, tổng sản lượng đạt 80 vạn tấn. Những con số đó vượt xa mọi suy nghĩ, mọi mục tiêu chiến lược của ngành. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến nay, năm 1992 giá cà phê thế giới tụt xuống rất thấp do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung lượng cà phê tồn kho từ những năm trước do tổ chức cà phê thế giới quốc tế còn áp dụng chế độ hạn ngạch xuất khẩu. Sau năm 1992 giá cà phê lại phục hồi dần đạt tới đỉnh cao năm 1994, 1995. Lúc này, người nông dân, gia đình cán bộ công nhân viên ở Tây Nguyên và cả những người ở thành phố Nha Trang đến thành phố Hồ Chí Minh xô đi tìm đất, mua vườn làm trang trại trồng cà phê, dẫn đến sản lượng cà phê qua từng năm. Nhưng sau đó vào năm niên vụ 2000/2001 thì giá cà phê lại giảm mạnh chỉ còn hơn 400 USD/tấn và ngay lập tức phản ứng của người dân đã phá bỏ cà phê để trồng các cây khác làm diện tích cà phê bắt đầu giảm từ 556.000 ha niên vụ 2000/2001 còn 491.100 niên vụ 2005/2006. Và đến niên vụ vừa qua thì diện tích cà phê lại tăng trên 500.000 ha. Ta có thể thấy sự biến động quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam qua con số diện tích, sản lượng và năng suất cà phê sau:
Bảng 4: Diễn biến diện tích, năng suất, sản lượng cà phê Việt Nam
qua các niên vụ như sau:
Niên vụ
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Năng suât (tấn/ha)
1993/1994
150.000
181.200
1,208
1994/1995
215.000
211.920
0,986
1995/1996
295.000
236.280
0,801
1996/1997
350.000
342.300
0,978
1997/1998
410.000
413.580
1,009
1998/1999
460.000
404.206
0,879
1999/2000
520.000
700.000
1,346
2000/2001
556.000
900.000
1,590
2002/2003
522.200
699.500
1,340
2003/2004
510.200
739.700
1,445
2004/2005
496.800
896.000
1,805
2005/2006
491.400
890.700
1,812
2006/2007
501.300
813.100
1,622
Nguồn: Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam
Cùng với sự biến động của diện tích trồng cà phê thì sản lượng và năng suất cà phê cũng có biến động mạnh. Khi diện tích trồng cà phê lớn nhất vào niên vụ 2000/2001 cũng là lúc sản lượng cà phê cũng đạt được những con số cao nhất tương ứng là: 900.000 tấn và năng suất đạt cao nhất và niên vụ 2005/2006 là:1,812 tấn/ha.
1.3. Chế biến và chất lượng cà phê
Về chế biến, sau năm 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có ít xưởng chế biến cũ kĩ, chắp vá, ở phía Bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ 1960 - 1962 do Cộng Hoà Dân Chủ Đức chế tạo, ở phía nam có một số xưởng của doanh điện cũ như Rissi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta đã bắt tay và xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây truyên sản xuất sao chép của nhà máy cơ khí 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghệ ở Thủ Đức – Tp Hồ Chí Minh. Gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ Đức và Brazil. Một loạt hơn chục dây truyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense - Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó, lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở Công Nghệ Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil.
Cơ sở chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây dựng trong vòng 5,7 năm trở lại đây đảm bảo chế biến được khoảng 150.000 tấn đến 200.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu.
Hiện nay, sản lượng cà phê chủ yếu là cà phê vối Rusbuta với phương pháp chế biến chủ yếu là chế biền khô, cà phê thu hái về được phơi khô nhờ tận dụng năng lượng mặt trời. Đối với những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch người ta phải sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi…cũng có một số doanh nghiệp dùng máy đánh nhớt một phần nhỏ sản lượng cà phê là cà phê Arabica các doanh nghiệp nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt. Không ít nơi dùng máy chọn màu Sarbex trong khâu phân koại, loại bỏ cà phê hạt đen, nâu…góp phần nâng cao chất lượng cà phê.
Về chất lượng, Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất thơm ngon vốn có của giống nội địa. Tuy nhiên, cà phê hạt xuất khẩu lai không có chất lượng tương xứng và vì vậy thua thiệt về giá cả sản xuất so với các nước khác. Một thời gian dài trước đây, công nghệ chế biến cà phê không được quan tâm đầy đủ, có sự thiếu sót về nhận thức, có khó khăn về vốn đầu tư, trình độ thấp kém chậm đổi mới…Làm cho tổn thất sau thu hoạch khá lớn (không dưới 10%) và có những cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng thất thu hàng chục tỷ đồng vì chất lượng hạt xấu. Mặt khác, hơn 80% cà phê sản xuất ra là từ hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu điều kiện sơ chế tối thiểu. Đồng thời, cà phê xuất khẩu nước ta chủ yếu là cà phê nhân, thô chưa thật sự là cà phê thành phẩm nên giá trị xuất khẩu chưa cao.
1.4. Chi phí sản xuất, chế biến, vận chuyển cà phê Việt Nam xuất khẩu
Sản lượng cà phê tăng nhanh nhưng tới nay ngành cà phê Việt Nam vẫn còn ít cơ sở chế biến vào loại hoàn chỉnh đó cũng là nguyên nhân làm cho chi phí chế biến cà phê xuất khẩu tăng nhanh (tổn thất hạt trên 10%). Tổng công suất của các cơ sở chế biến này cũng chỉ đảm bảo được khoảng từ 20 - 25% sản lượng cà phê. Số còn lại được chế biến phân tán thủ công hoặc bằng các nông trường nhỏ theo phương pháp thủ công hay các thiết bị không đồng bộ. Loại cà phê chế biến như vậy gọi là “cà phê xô”, được bán với giá thấp cho các nhà buôn nước ngoài có cơ sở tái chế để phân loại lại và trước khi cung cấp cho rang xay. Chi phí phân loại và chi phí bù đắp rủi ro phân loại thường khá lớn (khoảng 40USD/tấn) nên cà phê Việt Nam thường được bán với giá thấp hơn cà phê Inđônêxia - nơi có cơ sở chế biến và phân loại tốt hơn. Đó là chưa kể tới việc những năm mất mùa hoặc sâu bệnh có khi mất trắng gây không những tổn thất cho người nông dân mà khi đó còn gây ra tình trạng khan hiếm cà phê cho các cơ sở chế biến dẫn đến chi phí đầu vào ở các nới này cũng gia tăng. Mặt khác, chi phí vận chuyển cà phê Việt Nam cũng rất lớn vì giao thông khó khăn cho việc vận chuyển. Với tất cả lý do đó làm chi phí đầu vào tăng làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cà phê. Hiện tượng này được khắc phục dần gần đây khi Việt Nam bắt đầu đầu tư vào thiết bị chế biến, phân loại nên tỷ trọng cà phê có chất lượng cao tăng dần giúp giảm chi phí góp phần nâng cao giá trị xuất.
2. Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam
2.1. Thực trạng xuất khẩu của cà phê Việt Nam
2.1.1. Khối lượng, giá cả và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam
Trong vòng 20 năm trở lại đây ngành cà phê đã có nhiều chuyến biến nhanh chóng đưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Do nhờ chính sách mới của Nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình, dựa vào sức lao động cần cù của bản thân mình. Về nguyên nhân khách quan phải nói rằng là do giá cà phê trên thị trường thế giới những năm gần đây diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất, giá cà phê bán ra cũng cao hơn và thu nhập của người dân cũng tăng đáng kể. Sự kích thích của giá cả cũng đã thúc đẩy cà phê Việt Nam phát triển nhanh chóng và mắt trái của tác dụng đó là dẫn đến sự phát triển vượt mục tiêu của kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cà phê.
Bản kế hoạch về cà phê đầu tiên xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam chỉ có 180.000 ha với 200.000 tấn. Sau nhiều điều chỉnh con số đó cũng chỉ lên tới 350.000 ha với 450.000 tấn nhưng thực tế hoàn toàn khác. Những con số thống kê điều tra vào năm 2000 cho thấy diện tích cà phê cả nước lên tới trên 500.000 ha với sản lương 900.000 tấn đưa Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới về sản xuất cà phê. Đây là một con số gây bất ngờ cho nhiều người cả trong ngành cà phê Việt Nam. Nó góp một phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường đẩy giá cà phê về mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua, trong đó ngành cà phê Việt Nam chịu thiệt thòi vì sản lượng cà phê xuất khẩu lớn nên thua lỗ ngày càng nhiều.
Xem xét tình hình về lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu từ niên vụ 1997/1998 đến 2006/2007 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về lượng xuất khẩu của cà phê cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả.
Bảng 5: Sản lượng xuất khẩu, đơn giá bình quân và kim ngạch xuất khẩu của cà phê Việt Nam qua các năm:
Niên vụ
Xuất (tấn)
Kim ngạch
(triệu USD)
Đơn giá BQ
(USD/MT)
1997/1998
395.481
500
1.521,0
1998/1999
404.206
593,8
1.373,0
1999/2000
653.678
585,3
823,0
2000/2001
874.676
381,9
436,6
2003/2004
749.400
504,9
673,7
2004/2005
877.600
641,0
772,9
2005/2006
822.400
735,5
894,3
2006/2007
798.100
950,0
1.190
Nguồn: Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam
Theo bảng trên ta thấy rằng lượng xuất khẩu của cà phê Việt Nam tăng qua từng niên vụ 1997/1998 từ 395.481 tấn đến 877.600 tấn tốc độ phát triển bình quân là 126,64% trong khi giá trị lại sụt giảm mạnh. Đặc biệt, thấp nhất vào niên vụ 2000/2001là 436,6 USD/MT cùng kì năm 5 về trước nó là 2.633 USD/MT tức giảm 6,301 lần. Và vào niên vụ tiếp sau đó thì lượng xuất bắt đầu giảm vào niên vụ 2006/2007 còn 798.100 tấn.
Cà phê Việt Nam đã có mặt từ lâu nhưng chỉ thực sự phát triển trong vùng 20 năm trở lại đây nhất là từ đầu thập kỷ 90 như bảng trên. Từ chỗ hàng năm chỉ xuất khẩu trên dưới 10.000 tấn, đến 1992 lượng cà phê xuất khẩu đã vượt qua mức đó và trở thành một trong những mặt hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm. Niên vụ 1995/1996 sản lượng xuất khẩu vượt mức 200.000 tấn là 221.496 tấn và chỉ sau 2 năm đã đạt 395.418 tấn, kết quả này đã đưa Việt Nam vượt qua Ugandar và Inđônêxia để trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Nếu tính tất cả các chủng loại cà phê Việt Nam đã vượt qua Mêxicô để chiếm vị trí 3, chỉ sau Brazil và Colombia. Tỷ trọng của Việt Nam trong thương mại cà phê quốc tế hiện nay khoảng 7%.
Còn vào niên vụ 2001/2002 cà phê xuất khẩu Việt Nam bắt đầu giảm do hạn hán, mất mùa nên xuất khẩu chỉ còn 711.000 tấn và đến niên vụ 2006/2007 đạt 13,3 triệu bao (mỗi bao 60 kg).
Về kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam còn phụ thuộc lớn vào giá cả, có năm cà phê Việt Nam đã thu được 560 triệu USD. Nếu tính theo năm từ 1/1/1997 đến 31/12/1997 Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 395.000 tấn tăng 56% so năm 1996, đạt giá trị xấp xỉ 500 triệu USD đứng thứ 6 (sau dầu thô đạt giá trị 3.270 triệu USD; dệt may đạt 2.750 triệu USD; thuỷ sản đạt 2.023 triệu USD, giày - dép đạt 1.867 triệu USD; gạo đạt 726 triệu USD) về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1998 đến 2000 dù giá cà phê giảm nhưng nhờ lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch xuất khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao: năm 1998 bằng 593,8 triệu USD, năm 1999 bằng 585,3 triệu USD và năm 2000 giá cà phê giảm sút mạnh nhưng nhờ sản lượng tăng 72% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt trên 500 triệu USD, năm 2002 đạt 317 triệu USD và niên vụ 2005/2006 đạt 735,5 triệu USD.
Đặc biệt, theo Intimex-News ngày 2/1/2007 cho rằng: “Giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 2006 đạt 950 triệu USD”. Trung tâm thông tin thương mại (Bộ thương mại ) cho biết: Sau khi giảm nhẹ vào giữa tháng 10, từ đầu tháng 11 đến nay, giá cà phê xuất khẩu Việt Nam đã tăng khoảng 40 USD/tấn. Hiện nay, giá cà phê xuất khẩu 5% đen và vỡ hoại 2 giao dịch ở mức 1.425 - 1.430 USD/tấn. Như vây, giá xuất khẩu cà phê của nước ta đã bám sát thế giới hiện chỉ thấp hơn 20USD/tấn so với giá giao dịch tại thị trường London, so với mức chênh lệch có lúc lên đến trên 400USD/tấn hồi tháng 8 trên thị trường nội địa, giá thu mua cà phê nhìn chung vẫn ổn định. Do vậy, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 950 triệu USD. Đó là một trong những thành công lớn nhất của cà phê xuất khẩu Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu cà phê, chủng loại xuất khẩu của Việt Nam
Về cơ cấu cà phê xuất khẩu Việt Nam thì cà phê vối (Robusta) chiếm tỷ trọng quá lớn - nước ta là nước có khối lượng cà phê Robusta xuất khẩu lớn nhất thế giới với 98% tổng khối lượng xuất khẩu. Trong khi đó, trên thị trường thế giới, khối lượng cà phê chè (Arabica) chiếm khoảng 65% còn cà phê Robusta chỉ chiếm 35%. Về giá cả, cà phê Arabica thường có giá trị cao hơn nhiều so với cà phê Robusta, thông thường gấp từ 2,25 lần. Sự chênh lệch về giá cả cà phê Arabica và cà phê Robusta ngày càng cao: năm 1995, giá cà phê Arabica là 3.240USD/tấn còn cà phê Robusta là 2.820USD/tấn (gấp 1,15 lần ) thì đến năm 1999, giá tương ứng là 1.628USD/tấn và 624USD/tấn (gấp 2,61 lần). Thời giá tháng 7/2005, trong khi giá cà phê Arabica là 2.681USD/tấn thì giá của cà phê Robusta là 1.112USD/tấn, tức gấp 2,41 lần.
Về cơ cấu chủng loại cà phê xuất khẩu, cho tới nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân, thô, chiếm tới 95% khối lượng cà phê xuất khẩu. Cà phê nhân thường có giá trị xuất khẩu không cao (cà phê qua chế biến có giá trị gia tăng và lợi nhuận rất cao). Ví dụ, năm 2001 trong lúc giá xuất khẩu cà phê nhân chỉ có khoảng 437 USD/tấn thì giá xuất khẩu cà phê hoà tan là 3.461 USD/tấn gấp 8 lần, trong khi giá thành của 1 tấn cà phê hoà tan là 1.331USD (tỷ lệ 2,6 nhân bằng 1hoà tan). Cà phê rang xay cũng vậy, giá xuất khẩu cao gấp 4,38 lần so với giá cà phê nhân , trong khi tỷ lệ chế biến qui đổi rất thấp (1 rang xay bằng 1,19 nhân).
2.1.3. Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
Hiện nay, bạn hàng chủ yếu của cà phê Việt Nam vẫn là Mỹ (chiếm tỷ trọng trên 20% lượng xuất khẩu), và Châu Âu chiếm 40% (riêng Đức chiếm 11,2%) còn lại là các thị trường khác (trong đó Nhật Bản vẫn nằm trong số 10 bạn hàng lớn nhất nhưng tỷ trọng tương đối nhỏ - khoảng trên 3% nên khủng hoảng kinh tế tại nước này không ảnh hưởng gì đến tiến độ xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Năm 2002 thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng từ 61 lên 64 nước. Và hiện nay, vào tháng 11/2006 vừa qua, khi nước ta gia nhập vào WTO thì cơ hội đó sẽ mở ra cho cà phê Việt Nam với 150 thị trường xuất khẩu.
Hiện nay, cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị cao đứng thứ 2 sau gạo, giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngach xuất khẩu hàng năm. Niên vụ 2005/2006 Việt Nam đã xuất khẩu cà phê của mình đi 73 nước, trong đó 10 nhập khẩu cà phê hàng đầu - đó cũng chính là thị trường chính xuất khẩu cà phê của Việt Nam bao gồm:
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê Việt Nam lớn nhất niên vụ 2005/2006
STT
Tên nước
Số lượng (tấn)
Gía trị
( triệu USD)
Tỷ phần so với tổng xuất khẩu (%)
1
Mỹ
177.700
97,5
21,6%
2
Đức
92.100
76,1
11,2%
3
Tây Ban Nha
63.900
53,8
7,77%
4
Italia
62.600
54,2
7,612%
5
Anh
46.400
36,7
5,642%
6
Nhật Bản
29.400
25,9
3,575%
7
Pháp
27.500
22,7
3,344%
8
Thuỵ Sỹ
27.100
19,5
3,295%
9
Bỉ
23.400
19,3
2,845%
10
Hàn Quốc
23.000
18,2
2,797%
Nguồn: Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 20năm đổi mới
XB:Thống kê Hà Nội - 2006
2.1.4. Hoạt động Marketing cà phê xuất khẩu Việt Nam hiện nay
Marketing là hoạt động tiếp thị và bán hàng là một trong những khâu quan trọng nhất của các sản phẩm, nó được coi là khâu then chốt, khâu kết thúc của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp cà phê Việt Nam rất chú trọng đến hoạt động này vì điều đó nó khẳng định doanh nghiệp cà phê đó có làm ăn có lãi hay không.
Sơ đồ 1: Ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp cà phê
Thị trường tiêu thụ thế giới
Theo dõi và khuyếch trương bán (quảng cáo sp, thương hiệu cà phê của DN mình)
QĐịnh mặt hàng( cà phê hoà tan, cà phê nhân
Ấn định loại sp cà phê
Định sức bán( sức cạnh tranh của cà phê VN)
Giao tiếp thương mại(tìm đối tác nhập)
Chọn thị trường đích và mục tiêu
Định giá bán (có sự thông qua giá cà phê thế giới)
Định kênh phân phối
+-
Với cà phê Việt Nam, sản xuất ra chủ yếu là dùng cho xuất khẩu, mà xuất khẩu chủ yếu lại là cà phê chỉ qua chế biến sơ: cà phê nhân, cà phê thô. Chính vì vậy, hoạt động Marketing chủ yếu là hoạt động của doanh nghiệp thu mua cà phê của hộ gia đình, chủ trang trại (có thể là cà phê chưa qua chế biến hoặc đã qua chế biến sơ). Sau đó các doanh nghiệp này tiến hành chế biến tiếp cho đạt tiêu chuẩn Việt Nam.
Nhìn vào sơ đồ trên chung ta có thể thấy rõ hoạt động Marketing của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê diễn ra một cách rất linh hoạt và có trình tự. Đó là các khâu từ định giá, kênh phân phối, mặt hàng xuất khẩu…cho đến quảng bá, tìm đối tác, để xuất cà phê ra thị trường tiêu thụ - đó cũng là một thành công mang tính chiến lược của doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Vịêt Nam.
Để xuất khẩu ra thị trường thế giới, hoạt động Marketing của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê dẫ diễn ra theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Hoạt động Marketing của doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ra thị trường thế giới
Nông dân
Các cơ sở chế biến xay xát
Doanh nghiệp XK cà phê
DN chế biến cà phê trong nước
Doanh nghiệp XK cà phê trong Hiệp hội
Người bán buôn
Đại lý
Ngưòi bán lẻ
Người tiêu dùng
Doanh nghiệp XK cà phê ngoài Hiệp hội
Thị trường thế giới
90%
10%
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy:Việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam do hầu hết các doanh nghiệp trong Hiệp hội cà phê - ca cao xuất khẩu (chiếm tới 79%) và còn lại là do các doanh nghiệp ngoài Hiệp hội đảm nhận. Mặt khác, tiêu dùng cà phê trong nước của nước ta còn quá ít. Trong khi sản lượng cà phê Việt Nam hàng năm là 700.000 - 800.000 tấn thì lượng cà phê tiêu thụ nội địa chỉ đạt ở mức xấp xỉ 10%. Theo Hiệp hội cà phê thế giới, tiêu dùng nội địa cà phê của Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3,6% thấp nhất trong số các nước xuất khẩu cà phê. Mức chênh lệch ngày càng khập khiễng nếu so với sản lượng tiêu dùng nội địa trung bình của các nước thành viên Hiệp hội cà phê thế giới là 25,61%.
2.2. Kết quả đạt được của xuất khẩu cà phê Việt Nam
Cà phê Việt Nam đang đứng vị trí thứ 2 về lượng xuất khẩu chỉ sau Brazil (nhưng đứng thứ nhất về xuất khẩu cà phê Robusta). Diện tích, sản lượng, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê cuả không ngừng tăng lên. Chỉ trong thời kỳ từ 1994 - 2004, tốc độ bình quân hàng năm đạt được như sau: Về diện tích đạt: 15,04%, về sản lượng đạt: 16,58% với sản lượng xuất khẩu đạt: 43% và kim ngạch xuất khẩu đạt : 10,94%. Đặc biệt, về doanh số xuất khẩu cà phê qua một số năm như sau: Từ năm 1998 - 2000, dù giá cà phê xuất khẩu giảm do lượng tăng nên doanh số vẫn dữ mức cao: năm 1998 là 593,8 triệu USD; 1999 là 585,3 triệu USD. Vào năm 2000 giá cà phê giảm sút lớn nhưng nhờ lượng tăng 72% nên doanh số vẫn đạt 500 triệu USD; năm 2002 do mất mùa giá cà phê thế giới giảm mạnh nên đạt: 322 triệu USD. Đến niên vụ 2004/2005 đạt 641 triệu USD; niên vụ 2005/2006 đạt 735,5 triệu USD vừa qua năm 2006 doanh số đạt mức cao: 950 triệu USD.
3. Đánh giá kết quả và những vấn đề đặt ra cho ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
3.1. Đánh giá kết quả đạt được và sự thành công của thương hiệu cà phê Trung Nguyên - G7 Việt Nam
3.1.1. Đánh giá chung về kết quả đã đạt được
Với những thành tựu về sản xuất và xuất khẩu mà ngành cà phê đã mang lại cho đất nước những đóng góp đáng kể vừa giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người dân mà còn đóng góp vào tăng trưởng nền kinh tế quốc gia. Trồng cà phê ở Việt Nam tạo việc làm cho hơn 600 nghìn người nông dân vùng trung du, miền núi và số người có cuộc sống liên quan đến cà phê là trên 1 triệu người. Cà phê chiếm 8% giá trị sản lượng nông nghiệp, 25% giá trị xuất khẩu nông sản của đất nước.
Với sản phẩm chủ yếu hiện nay có cà phê Robusta và cà phê Arabica. Trong đó thì cà phê chè có giá trị xuất khẩu cao đã được mở rộng ra các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là đầu tư của nông dân đối với các yếu tố đầu vào như phân bón, tưới tiêu quá cao với mong muốn đạt được năng suất cao đã làm giảm hiệu quả đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất. Nên sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới không cao (cụ thể giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới thường thấp hơn trên các sàn giao dịch ở London, NewYork từ 30 - 40USD/tấn). Và sản xuất chủ yếu thực hiện ở các hộ nông dân và chủ trang trại nhỏ.
3.1.2. Đánh giá khả năng cạnh trạnh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới
- Về giá thành: Hầu hết sản phẩm cà phê xuất khẩu của ta đều thấp hơn giá của các sản phẩm cà phê cùng loại ở các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay cà phê Việt Nam(đã qua sơ chế) có giá 750 - 800USD/tấn, trong khi đó của Ấn Độ là 1.412USD/tấn cà phê chè; 962,9USD/tấn cà phê vối; của Colombia là 2.118USD/tấn cà phê chè và của Inđônêxia là 921,9USD/tấn cà phê vối.
- Về chất lượng: Đã đạt được tiêu chuẩn theo hệ thống quản lý tiêu chuẩn nhưng so với các nước khác trên thế giới thì vẫn chưa bằng.
- Về mẫu mã: Đã phong phú nhưng chưa bằng các nước trong khu vực và trên thế giới vì chúng ta xuất khẩu chủ yếu là cà phê nhân.
-Về bao bì: Cà phê là một trong 2 trong 10 sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng chưa có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
-Về điều kiện mua bán: Chưa đa dạng và thuận tiện như các nước trong khu vực mà thậm chí việc thanh toán của Việt Nam với một số nước còn gặp nhiều khó khăn.
3.1.3. Sự thành công của thương hiệu cà phê Trung Nguyên - G7 Việt Nam.
Ngày nay, nếu đi trên các đường phố các bạn sẽ bắt gặp rất nhiều quán cà phê Trung Nguyên và nó luôn có phong cách riêng. Nhiều chuyên gia kinh tế đã công nhận cà phê Trung Nguyên là một thành công kỳ diệu của việc xây dựng thương hiệu tại Việt Nam. Chỉ trong vài năm từ 1999 là một xưởng sản xuất nhỏ tại Buôn Mê Thuật, hiện nay Trung Ngưyên đã khẳng định sự có mặt của mình khắp mọi miền đất nước.
Thế mới biết Trung Nguyên, một thương hiệu mới xuất hiện mà có sức hấp dẫn biết dường nào. Đến năm 2001, đã có trên 400 quán cà phê trong cả nước bởi vì ông chủ Trung Nguyên – Đặng Lê Nguyên Vũ rất biết chiều lòng khách hàng khi đã biết khám phá và trình làng trên 30 loại cà phê có những hương vị độc đáo riêng. Với tính đa dạng của sản phẩm đã tạo cho người thưởng thức có dịp làm quen với nhiều cà phê độc đáo, rất riêng chỉ tìm thấy ở Trung Nguyên. Không chỉ dừng lại ở đó, vào năm 2002 tại Tokyo, quán cà phê Trung Nguyên lần đầu tiên xuất hiện. Ở đây cà phê Trung Nguyên có sức cạnh tranh lớn, mỗi tách cà phê chính hiệu của Trung Nguyên cao hơn cà phê của Nhật 25% và cao hơn cả tập đoàn cà phê Mỹ Sarrbucks đầy uy lực 50%. Đặc biệt cà phê Trung Nguyên thực sự bước vào hành lang Đông Tây mà bước đột phá ngoạn mục là G7. Đó chính là mũi tên nhằm hướng vào G7, những quốc gia giàu có, phát triển nhất thế giới và chiếm lĩnh được thị trường của các đại gia lừng danh thế giới này. Cà phê Trung Nguyên sẽ làm cho vị thế cà phê Việt Nam trở nên vững chắc, tạo lập một thế đứng cho cà phê Việt trên thị trường quốc tế rộng lớn, đầy tiềm năng. Đến nay, cà phê Trung Nguyên đã có vị thế ở thị trường Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Séc… Cà phê hột Trung Nguyên cũng đã hiện diện đầy sức thu hút tại Đức, Canada, Australia và nhiều quốc gia khác. Hy vọng rằng với kinh nghiệm ngành cà phê Brazil và sự thành công của thương hiệu cà phê Trung Nguyên – G7 thì cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế cuả mình trên trường quốc tế.
Hiện nay, Trung Nguyên là thương hiệu duy nhất của Việt Nam được cấp chứng chỉ Eurograp quốc tế về thực hành nông nghiệp tốt và chất lượng cà phê ngon.
Theo Tổng giảm đốc ông Đặng Lê Nguyên Vũ cho biết 8 bí quyết dẫn đến thành công là:
Luôn lấy sự hài lòng của người tiêu dùng làm trọng tâm cho mọi hoạt động.
Khơi nguồn sáng tạo - chính là logo của cà phê Trung Nguyên.
Phát triển và bảo vệ thương hiệu.
Xây dựng phong cách Trung Nguyên đậm nét đặc trưng văn hoá Tây Nguyên và dân tộc.
Gây dựng sự thành công cùng đối tác.
Phát triển nguồn nhân lực mạnh.
Và luôn tích cực góp phần xây dựng cộng đồng.
Sự thành công của Trung Nguyên là bài học cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam xây dựng được thương hiệu cũng như xác định được chiến lược phát triển của mình trong tương lai.
3.2. Những vấn đề còn tồn tại của ngành cà phê Việt Nam:
Một là, với diện tích và sản lượng liên tục tăng, bản kế hoạch đầu tiên về cà phê xây dựng năm 1980 đạt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam chỉ có 180.000 ha với sản lượng 200.000 tấn qua điều chỉnh tăng lên 350.000 ha với 450.000 tấn. Nhưng theo con số điều tra thực tế vào năm 2000 cho thấy diện t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31881.doc