Chuyên đề Một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh việc áp dụng mô hình hợp tác Nhà nước – Tư nhân (PPP) trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 4

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC NHÀ NƯỚC - TƯ NHÂN TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CSHT 7

1. Một số vấn đề cơ bản về Cơ sở hạ tầng 7

1.1. Khái niệm và phân loại CSHT 7

1.1.1. Khái niệm CSHT 7

1.1.2. Phân loại CSHT 8

1.2. Đặc điểm của CSHT và huy động vốn trong đầu tư CSHT 8

1.2.1. Đặc điểm của CSHT 8

1.2.2. Huy động vốn trong đầu tư CSHT 9

1.3. Vai trò của CSHT trong phát triển – tăng trưởng Kinh tế Xã hội 11

1.3.1. Mối liên hệ giữa Cơ sở hạ tầng, tăng trưởng và đói nghèo 11

1.3.1.1. Cơ sở hạ tầng và tăng trưởng 11

1.3.1.2. Cơ sở hạ tầng và đói nghèo 15

2. Một số vấn đề cơ bản về mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong lĩnh vực Cơ sở hạ tầng (PPP) 16

2.1. Khái niệm PPP 16

2.2. Các hình thức PPP chính và đặc điểm 16

2.2.1. Các đặc điểm của Nhượng quyền Tư nhân 19

2.2.2. Các đặc điểm của Nhượng quyền Nhà nước 20

2.2.3. Các đặc điểm của Nhượng quyền hỗn hợp 21

2.3. Điều kiện áp dụng PPP cho một dự án 22

2.4. Những ưu điểm chính của PPP 22

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ÁP DỤNG MÔ HÌNH PPP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CSHT TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 26

1. Một vài nét sơ lược về đầu tư PPP trong lĩnh vực CSHT trên thế giới 26

1.1. Đầu tư lĩnh vực CSHT trên thế giới hiện nay 26

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực trong việc áp dụng mô hình PPP trong lĩnh vực đầu tư Cơ sở hạ tầng 29

1.2.1. Philippines 30

1.2.1.1. Sơ lược về quá trình áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT tại Philippines 30

1.2.1.2. Nghiên cứu điển hình - Dự án đường cao tốc Luzon (NLEX) 31

1.2.2. Lào 34

1.2.2.1. Sơ lược về quá trình áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT tại Lào 34

1.2.2.2. Nghiên cứu điển hình: Dự án Thủy điện Nam Theun 2 (NT2) 34

1.2.3. Bài học cho Việt Nam 37

1.3. Quá trình áp dụng triển khai PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam 37

1.3.1. Bối cảnh áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam 37

1.3.1.1 Tính cấp thiết của việc áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam 37

1.3.1.2. Những chuẩn bị của Việt Nam trong việc áp dụng PPP trong đầu tư CSHT giai đoạn tới 39

1.3.2. Những kết quả ban đầu khi áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT ở Việt Nam thời gian qua 41

1.3.3. Hạn chế trong việc áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT thời gian qua và nguyên nhân của chúng 42

1.3.3.1. Hạn chế 42

1.3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế 42

CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC ÁP DỤNG MÔ HÌNH PPP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CSHT TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 45

1. Triển vọng đầu tư CSHT tại Việt Nam giai đoạn tới 45

1.1. Hạ tầng GTVT 45

1.2. Hạ tầng Năng lượng – Điện Nước 51

1.3. Hạ tầng Viễn thông 52

2. Một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh việc áp dụng mô hình PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT tại Việt Nam thời gian tới 53

2.1. Giải quyết các Vấn đề Pháp lý và Quản lý Nhà nước về PPP 53

2.1.1. Xây dựng khung pháp lý cho phát triển khu vực tư nhân và PPP 53

2.1.2. Sự rõ ràng trong pháp luật về PPP 54

2.1.3. Các vấn đề quản lý nhà nước 54

2.1.3.1. Thành lập một ủy ban quản lý PPP cấp trung ương. 55

2.1.3.2. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của khu vực Nhà nước 55

2.2. Nâng cao năng lực thực hiện và quản lý 56

KẾT LUẬN 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO 58

 

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh việc áp dụng mô hình hợp tác Nhà nước – Tư nhân (PPP) trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c áp dụng: Phổ biến trong lĩnh vực điện, năng lượng và cấp nước sạch Hình 1.7: Sơ đồ cấu trúc của Nhượng quyền hỗn hợp (Nguồn: tự tổng hợp – sinh viên) Đặc điểm: Nhượng quyền hỗn hợp không đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư xây dựng cơ bản. Nhà nước mua đầu ra từ đơn vị được nhượng quyền và bán lại cho người sử dụng tư nhân. Đơn vị được nhượng quyền chịu rủi ro chính sách và rủi ro tín dụng do mưc phí sử dụng thường bị áp đặt ở mức thấp, không đủ bù đắp chi phí. Chi phí giao dịch cao, đàm phán hợp đồng kéo dài. Điều kiện áp dụng: Được sử dụng khi đơn vị được nhượng quyền không thể dự báo một cách rõ ràng và cũng không được phép áp đặt mức phí sử dụng đủ để bù đắp mức phí dịch vụ. Lượng cầu có thể không vượt mức tối thiểu để đảm bảo kinh doanh có lãi. Có thể thấy, PPP là một mô hình hợp tác cho phép chia sẻ lợi ích và rủi ro một cách công bằng và hợp lý cho các bên tham gia. Tuy nhiên, thực tế chi ra rằng, những ưu điểm đã được thừa nhận của PPP không đồng nghĩa với việc PPP sẽ là hình thức tối ưu nhất cho mọi dự án. Điều kiện áp dụng PPP cho một dự án Thứ nhất, dự án phải đủ lớn tương thích với giao dịch có chi phí cao. Các tính toán chỉ ra rằng chi phí đấu thầu trong các dự án PPP lên tới 3%, trong khi phương thức đấu thầu truyền thống chỉ là 1%. Các dự án PPP hầu hết là các dự án có tầm cỡ quốc gia hoặc khu vực. Thứ hai, khu vực tư nhân phải đủ năng lực cạnh tranh để tham gia đấu thầu và cung ứng dịch vụ một cách đáng tin cậy. Đảm bảo kỹ năng tiến hành tổ chức đấu thầu tốt của Nhà nước. Thứ ba, trong thiết kế dự án cần xác định rõ yêu cầu đối với đầu.ra. Phải có khả năng chứng minh rằng PPP sẽ tối đa hóa hiệu quả sử dụng chi phí cho dự án đó. Thứ tư, rủi ro phải được phân bổ, chuyển giao trên nguyên tắc bên nhận rủi ro là bên có khả năng kiểm soát, quản lý rủi ro đó một cách tốt nhất. Những ưu điểm chính của PPP PPP giúp tối đa hóa giá trị từ đồng tiền đầu tư Việc bắt tay giữa Nhà nước và tư nhân cho phép cộng hưởng tốt nhất thế mạnh của các bên tham gia, thông qua việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong thiết kế, thi công và kinh doanh và quản lý. PPP cũng khuyến khích sáng tạo trong hợp tác và phổ biến những cách làm tốt nhất Nguồn vốn cho dự án PPP không bị ảnh hưởng bởi các chu trình chính sách cũng như các dự toán ngân sách nhà nước hàng năm , đảm bảo duy trì chất lượng, chi phí và tiến độ của dự án PPP xây dựng một cách tiếp cận dài hạn trong việc cung ứng dịch vụ công, đảm bảo tiêu chuẩn dịch vụ trong suốt vòng đời của dự án, hạ tầng được cung cấp một cách có hiệu quả. Phương thức tiếp cận linh hoạt, có thể cân nhắc sử dụng cho mọi loại hạ tầng. Hình 1.8: So sánh tỷ lệ dự án hoàn tất đúng thời hạn và muộn ở Anh (nguồn: HM Treasury; NAO: PFI Construction Performance 2002 HC 371, Session February 2002-03; NAO: Modernising Construction, 2001, HC 87, Session 2000-01) Hình 1.6 cho thấy tỷ lệ các dự án hoàn tất đúng thời hạn ở Anh cao gấp 2-3 lần khi có sự tham gia của khu vực tư nhân. Ở một góc độ khác thì khi không có sự tham gia của khu vực tư nhân, tỷ lệ các dự án bị chậm tiến độ chiếm tới 70% tổng số dự án, trong khi đó, số các dự án bị chậm tiến độ chỉ chiếm khoảng 10%-20% khi có vốn tư nhân. Hình 1.9: So sánh mức điều chỉnh giá (%) sau khi ký kết hợp đồng thầu (Nguồn: HM Treasury; NAO: PFI Construction Performance 2002 HC 371, Session February 2002-03; NAO: Modernising Construction, 2001, HC 87, Session 2000-01) ( Mức điều chỉnh giá ở mức thấp cho thấy tính ổn định về chi phí và chất lượng của dự án PPP) PPP đem lại những hợp đồng dài hạn cho tư nhân, phù hợp với mong muốn đầu tư lâu dài và bền vững. PPP là cơ hội xây dựng năng lực với tư nhân và thúc đẩy những mối quan hệ có lợi với các cơ quan Nhà nước. PPP cho phép phân bổ, chuyển giao, kiếm soát rủi ro một cách tối ưu. Điều này tối ưu hơn phương pháp đấu thầu truyền thống, khi mà nhà nước phải gánh toàn bộ rủi ro hay vì phân bổ cho khu vực tư nhân. Có thể thấy rằng, CSHT là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trongtrong tăng trưởng và phát triển Kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đầu tư vào phát triển CSHT là một yêu cầu và đòi hỏi cấp bách đối với bất cứ quốc gia nào. Bên cạnh các hình thức huy động vốn đầu tư truyền thống, với những ưu điễm đã được thừa nhận của PPP trong đầu tư CSHT vẫn tiếp tục là động lực cho việc phát triển mô hình này trong thời điểm hiện tại và tương lai. CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ÁP DỤNG MÔ HÌNH PPP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CSHT TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM Một vài nét sơ lược về đầu tư PPP trong lĩnh vực CSHT trên thế giới Đầu tư lĩnh vực CSHT trên thế giới hiện nay Trên bình diện toàn cầu, đầu tư tư nhân trong CSHT chủ yếu hướng vào lĩnh vực viễn thông, sau đó là giao thông vận tải và năng lượng (hình 2.1) Hình 2.1: Đầu tư tư nhân vào CSHT theo các ngành (đơn vị: tỷ USD) (Nguồn: Ngân hàng thế giới – Dữ liệu đầu tư tư nhân trong CSHT) liệu PPIfĐ, Cơ sở dữ liệu PPI Ở khu vực Châu Á, theo dự báo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Viện Ngân hàng Phát triển châu Á (ADBI), khu vực này cần 800 tỷ USD cho đầu tư cơ sở hạ tầng giai đoạn 2010-2020, tức vào khoảng 750 tỷ USD/năm. 68% trong số đó là cho việc tạo mới, 32% còn lại là để thay thế CSHT hiện có. Đầu tư vào nhóm hạ tầng năng lượng ước cần 4000 tỷ USD, hạ tầng viễn thông 1000 tỷ, hạ tầng giao thông vận tải 2500 tỷ, và đầu tư vào nước sạch và môi trường là 380 nghìn tỷ (hình 2.2). Bảng 2.1: Nhu cầu đầu tư CSHT ở Châu Á theo giai đoạn 2010 – 2020 (đơn vị: tỷ USD) Lĩnh vực Hoàn thiện mới Thay thế Tổng Năng lượng (Điện) 3,176,437 912,202 4,088,639 Viễn thông 325,353 730,304 1,055,657 Mobile 181,763 509,151 690,914 Telephone 143,590 221,153 364,743 Giao thông vận tải 1,761,666 704,457 2,466,123 Hàng không 6,533 4,728 11,260 Cảng biển 50,275 25,416 75,691 Đường sắt 2,692 35,947 38,639 Đường bộ 1,702,166 638,366 2,340,532 Nước sạch và vệ sinh 155,493 225,797 381,290 Nước sạch 107,925 119,573 227,498 Vệ sinh 47,568 106,224 153,792 Tổng 2,572,760 7,991,709 (Nguồn : Sách “Infrastructure for a Seamless Asia” - ADB & ADBI 2009) Đầu tư PPP tại khu vực Châu Á chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng và giao thông vận tải , trong đó đầu tư vào giao thông vận tải đang tăng rất nhanh (hình 2.3). Hình 2.2: Đầu tư tư nhân vào CSHT theo các ngành (đơn vị: tỷ USD) tại Châu Á (Nguồn: Ngân hàng thế giới – Dữ liệu đầu tư tư nhân trong CSHT 2006) Nhu cầu đầu tư CSHT tại Châu Á vẫn chưa được đáp ứng. Thống kê năm 2007 cho thấy, đầu tư vào CSHT mới chỉ đạt 50% nhu cầu (hình 2.4) Hình 2.3: Tỷ trọng chi tiêu hàng năm cho CSHT/GDP năm 2007 khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Nguồn: Báo cáo nghiên cứu (điều tra) thị trường tài chính địa phương ở khu vực Châu Á –Thái Bình Dương) Thị trường toàn cầu đang dẫn hồi phục sau khủng hoảng tài chính Châu Á và suy giảm kinh tế thế giới những năm vừa qua, tuy nhiên đầu tư PPP vào CSHT vẫn thấp hơn nhiều so với nhu cầu. Dòng đầu tư tăng nhanh ở một số khu vực như Châu Á hay Châu Mỹ La tinh, tập trung vào lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải và viễn thông Kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực trong việc áp dụng mô hình PPP trong lĩnh vực đầu tư Cơ sở hạ tầng Hiện nay, nhu cầu cho đầu tư CSHT của Việt Nam khoảng 16 tỷ USD/năm trong khi khả năng đáp ứng của Nhà nước chỉ khoảng 7-8 tỷ USD. Từ nay đến năm 2020, vốn đầu tư cho phát triển CSHT ước tính chiếm khoảng từ 10% đến 11% GDP. Trong điều kiện tài chính hiện tại thì khả năng cân đối ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển cũng có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam đang kỳ vọng trong thời gian tới PPP sẽ là phương thuốc hiệu nghiệm để giải bài toán thiếu vốn cho đầu tư hạ tầng nói chung. Để tìm được tiếng nói chung giữa nhà nước với tư nhân trong mô hình PPP chính là bài toán khó nhất hiện nay. Hơn nữa, để mô hình PPP thành công, phải có những khung pháp lý đủ rộng vì thực tế trong suốt thời hạn của một dự án cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư tư nhân phải đối mặt với nhiều rủi ro mà họ cần xem xét như: rủi ro đấu thầu, rủi ro đàm phán, rủi ro xây dựng, rủi ro hoạt động và rủi ro từ Chính phủ… PPP còn rất mới ở Việt Nam, tuy nhiên đã được thực hiện thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới. Việc tham chiều các kinh nghiệm thực thi PPP của quốc tế sẽ giúp Việt Nam có được cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về PPP, góp phần đẩy nhanh việc áp dụng PPP vào thực tiễn. Lào và Philippins là hai quốc gia trong khu vực cho nhiều nét tương đồng về kinh tế - xã hội đối với Việt Nam, đã thực hiện thành công việc áp dụng PPP vào lĩnh vực đầu tư CSHT. Vậy yếu tố đã làm nên thành công của hai quốc gia này? Những phân tích dưới đây sẽ là cho chúng ta thấy được điều đó Philippines Sơ lược về quá trình áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT tại Philippines Philippines là quốc gia đi tiên phong trong việc áp dụng và triển khai đầu tư PPP trong cơ sở hạ tầng. Năm 1987, Philippin đã soạn thảo dự luật BOT, thông qua vào năm 1990 ( và sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1994 ) bao gồm các quy đinh liên quan tới đầu tư tư nhân trong lĩnh vực CSHT. Đây được coi là một động thái mở đường cho PPP, thừa nhận vai trò động lực tăng trưởng chính của khu vực tư nhân, đưa ra các biện pháp khuyến khích thích hợp nhằm thu hút nguồn lực tư nhân vào những dự án CSHT vốn lâu nay do một mình chính phủ đảm nhận. Đầu tư PPP tại Philippines tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: Năng lượng, Giao thông vận tải và nước sạch (hình 2.3) Bảng 2.2: Đầu tư PPP theo nhóm ngành tại Philippines giai đoạn 1990-2006 Số dự án Giá trị dự án ( triệu USD) Năng lượng 43 9,511 Giao thông vận tải 16 6,088 Công nghệ thông tin 10 341 Nước sạch 7 7,939 Phát triển hạ tầng bến bãi 13 228 Chăm sóc sức khỏe 1 1 Dự án khác 2 415 Tổng 92 24,525 (Nguồn: Dữ liệu đầu tư CSHT – Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Nghiên cứu điển hình - Dự án đường cao tốc Luzon (NLEX) Dự án Đường Cao tốc Bắc Luzon được coi là một điển hình thành công rất đáng được tham khảo về PPP trong lĩnh vực Cơ sở hạ tầng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có ý định tiến hành triển khai thí điểm một dự án đường cao tốc ưu tiên tương tự. Thông tin dự án NLEX là hành lang vận tải chính, kéo dài 84km từ khu đông dân cư Manila đến khu Bắc và Trung Luzon (bản đồ dự án). NLEX được ký kết vào tháng 6/1998, bắt đầu đưa vào khai thác kinh doanh tháng 2/2005 Yếu tố cho phép áp dụng PPP Tính cấp thiết và khả năng sinh lợi của dự án NLEX là hành lang vận tải chính từ khu đông dân cư Manila đến khu Bắc và Trung Luzon, cả hai khu này đang tụt hậu rất nhiều so với Nam Luzon – cần phát triển CSHT để thúc đẩy phát triển kinh tế trong vùng. Dân số gia tăng và các hoạt động kinh tế dọc theo hành lang NLEX đã gây ra sự quá tải lên CSHT đang xuống cấp – dự kiến nhu cầu vận chuyển tăng từ 3-3,5% / năm. Hàng chục năm trước thời điểm tiến hành, NLEX không được quan tâm sửa chữa Hình 2.4: Bản đồ dự án NLEX (Nguồn: Báo cáo nghiên cứu về PPP - Alfredo E. Pascual – ADB) Yếu tố cho phép áp dụng PPP Tính cấp thiết và khả năng sinh lợi của dự án NLEX là hành lang vận tải chính từ khu đông dân cư Manila đến khu Bắc và Trung Luzon, cả hai khu này đang tụt hậu rất nhiều so với Nam Luzon – cần phát triển CSHT để thúc đẩy phát triển kinh tế trong vùng. Dân số gia tăng và các hoạt động kinh tế dọc theo hành lang NLEX đã gây ra sự quá tải lên CSHT đang xuống cấp – dự kiến nhu cầu vận chuyển tăng từ 3-3,5% / năm. Hàng chục năm trước thời điểm tiến hành, NLEX không được quan tâm sửa chữa Xây dựng khung Pháp lý và Chính sách đối với PPP Lần đầu tiên trong khu vực, Philippines ban hành luật BOT, thông qua vào năm 1990 và được sửa đổi vào năm 1994, bao gồm các quy định liên quan tới đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng Riêng trong lĩnh vực giao thong vận tải đường bộ Cho phép chính phủ ký kết các hợp đồng nhượng quyền với tư nhân Cho phép thu phí đường bộ theo mức thỏa thuận để thu hút đầu tư của tư nhân Không cho phép Chính phủ bảo lãnh tài chính Chính sách thừa nhận vai trò động lực tăng trưởng chính của khu vực tư nhân và đưa ra các biện pháp khuyến khích thích hợp nhằm thu hút nguồn lực tư nhân vào những dự án CSHT vốn lâu nay do một mình chính phủ đảm nhận Các chính sách khuyến khích bao gồm tạo ra một môi trường thủ tục, quy định thông thoáng và đưa ra một số cam kết của chính phủ ủng hộ cho khu vực tư nhân Chính phủ chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng và bàn giao đất cho nhà đầu tư; chỉ khi nào mặt bằng dự án được bàn giao, các công việc giải ngân và thi công mới triển khai DN tư nhân được nhượng quyền phải chịu toàn bộ rủi ro kinh doanh trên cơ sở các động cơ lợi nhuận hợp lý của họ Phân bổ rủi ro và nghĩa vụ một cách công bằng, hợp lý giữa Nhà nước và đối tác tư nhân Các yếu tố kinh tế của dự án đều mạnh (các dự báo về cầu, dòng tiền và doanh thu đều rất chắc chắn) Lào Sơ lược về quá trình áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT tại Lào Lào triển khai dự án đầu tiên về PPP trong lĩnh vực CSHT vào năm 2005. Để thúc đẩy PPP, Chính phủ Làođã ban hành những quy định hỗ trợ toàn bộ cho việc quản lý các rủi ro môi trường và xã hội, các điều khoản về bảo lãnh chính trị. Hiện tại, đầu tư tư nhân ở Lào chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng và điện lực. Nghiên cứu điển hình: Dự án Thủy điện Nam Theun 2 (NT2) Thông tin dự án NT là dự án phát triển, xây dựng và khai thác kinh doanh hạ tầng thủy điện sông Nam Theun với công suất 1.070MW, gồm các hạng mục: Đập nước cao 39m ; Hồ chứa nước 450 km2; Tuyến đường dây tải điện 130km để hòa vào lưới điện quốc gia Thái Lan ; Tuyến đường dây tải điện 70km để hòa vào lưới điện quốc gia Lào. Hình 2.5: Bản đồ dự án Thủy điện Nam Theun 2 (NT2) (Nguồn: Báo cáo nghiên cứu về đầu tư tư nhân - Alfredo E. Pascual – ADB) Khi đưa vào vận hành, 95% điện năng xuất khẩu sang Thái Lan, còn 5% tiêu dùng nội địa. Khai thác kinh doanh đúng thời hạn vào năm 2009, với thời hạn nhượng quyền là 25 năm. Hết thời hạn dự án (năm 2034), toàn bộ công trình sẽ chuyển giao cho Chính phủ Lào, không bồi hoàn đối với nhà đầu tư. Yếu tố cho phép áp dụng PPP Tính cấp thiết và khả năng sinh lời của dự án NT2 giúp Lào hiện thực hóa tiềm năng thủy điện của mình. Chính phủ Lào sẽ có được khoảng 2 tỷ USD từ NT2.Dự kiến trong 10 năm của dự án, khi NT2 phải thanh toán các khoản nợ thương mại, mỗi năm Chính phủ Lào thu được trung bình 30 triệu USD (giá trị danh nghĩa).Sau đó khoản thu tăng lên nhanh chóng, trung bình mỗi năm khoảng 110 triệu USD (giá trị danh nghĩa) trong giai đoạn 2020-2034 Chính phủ Lào đã từng phát triển một số dự án điện xuyên biên giới, nhưng chưa tiếp cận được các nguồn vốn nước ngoài để tự xây dựng NT2 NT2 giúp Lào hiện thực hóa tiềm năng thủy điện còn bỏ ngỏ của mình NT2 là dự án có khả năng gọi vốn cao, khi Chính phủ Lào hỗ trợ toàn bộ cho việc quản lý các rủi ro môi trường và xã hội. Chính phủ thuê các hãng luật nước ngoài (kinh phí do các nhà tài trợ đa phương giúp) soạn thảo Hợp đồng nhượng quyền, hợp đồng mua bán điện. Xây dựng khung Pháp lý và Chính sách đối với PPP Chính phủ Lào hỗ trợ toàn bộ cho việc quản lý các rủi ro môi trường và xã hội. Cùng với nguồn vốn vay của ADB và WB, Chính phủ Lào góp cổ phần vào Doanh nghiệp dự án NT2 để được trực tiếp chia lợi ích kinh tế của dự án. Phối hợp với ADB, Chính phủ Lào cam kết bảo lãnh các rủi ro về chính trị như: Bảo dảm thanh toán cho các tổ chức cho vay trong các trường hợp như: Đồng tiền mất khả năng chuyển đổi hoặc bị hạn chế chuyển ra nước ngoài; Bạo lực chính trị, chiến tranh, khủng bố và/hoặc bạo động dân sự… Bài học cho Việt Nam Xem xét kinh nghiệm áp dụng PPP của một số quốc ra trong khu vực, phân tích các yếu tố chính đảm bảo thành công cho việc áp dụng PPP,có thể rút ra những bài học sau đây: (i). Cần có quy hoạch cụ thể về nhóm các dự án CSHT tiềm năng: Như đã phân tích trong chương I, PPP không thể áp dụng cho mọi dự án. Kinh nghiệm quốc tế nói chung cho thấy, Chính phủ Việt Nam cần có quy hoạch cụ thể về CSHT nói chung và nhóm các dự án CSHT tiềm năng – tức là các dự án có quy mô lớn, cấp thiết và khả năng sinh lời cao nói riêng để thí điểm áp dụng PPP trên nhóm này. (ii). Cần xây dựng khung pháp lý và chính sách cho PPP Chính phủ cần xây dựng một khung chính sách pháp lý hoàn thiện, rõ ràng, minh bạch, có tính chất khuyến khích. Xây dựng một hệ thống các cảm kết, hay phân bổ rủi ro hiệu quả, công bằng và hợp lý giữa Nhà nước, nhà đầu tư và các bên liên quan. Quá trình áp dụng triển khai PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam Bối cảnh áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam Tính cấp thiết của việc áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT ở Việt Nam Theo đánh giá của các chuyên gia tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – tháng 1/2009, nhu cầu vốn cho cơ sở hạ tầng từ nay đến năm 2020 ước tính chiếm khoảng từ 10% đến 11% GDP. Trong khi đó tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển chung trong giai đoạn 2001 2010 chỉ chiếm khoảng 8,4% so với GDP; trong đó chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông thủy lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản khoảng 50%. Điều này cho thấy khả năng nguồn vốn của Chính phủ khó có thể đáp ứng hết được nhu cầu cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Nhu cầu về điện tiếp tục tăng ở mức 17% một năm; Việt Nam sẽ cần khoảng đến 6 tỷ USD mỗi năm để đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện nhằm bắt kịp nhu cầu; và đến năm 2028 phải mất 60 tỷ USD. Sau 4 năm tăng trưởng ấn tượng, với số lượng thuê bao điện thoại di động từ 5 triệu lên 50 triệu, nhu cầu tăng trưởng của ngành viễn thông vẫn duy trì ở mức hơn 20% một năm, chủ yếu tập trung tại hai lĩnh vực, dịch vụ thông tin di động và internet băng thông rộng. Khách hàng ngày càng đòi hỏi chất lượng dịch vụ tốt hơn, nhiều loại hình dịch vụ hơn, Nhu cầu đầu tư vào viễn thông, cảng biển, sân bay, đường bộ, đường sắt và vận tải hàng không tăng nhanh chóng. Bộ Kế hoạch Đầu tư dự tính trong giai đoạn 2010 – 2015 Việt Nam cần 139 tỷ USD để đầu tư vào những ngành này. Nguồn đầu tư từ Chính phủ bị hạn chế do các khó khăn về kinh tế vĩ mô. Việt Nam đang chuyển dần sang nước có thu nhập trung bình và phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh lớn hơn. Mặt khác, do sức suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, nguồn vốn FDI có thể không còn dồi dào như một vài năm trước đây Việc cho vay sẽ khó khăn hơn vì khủng hoảng tín dụng đã hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng. Những cam kết bảo lãnh lớn từ các ngân hàng thương mại quốc tế sẽ không còn nữa. Sự co cụm của thị trường ngân hàng sẽ thu hẹp nguồn vốn và hạn chế tính thanh khoản;. Các ngân hàng thương mại có thể chỉ chấp thuận cho vay khi nhận thấy dự án có sự tham gia của các định chế đa phương và các khoản vay thương mại đã được bảo lãnh khi có những rủi ro chính trị và rủi ro tín dụng của đối tác; kể cả khi có đã có tiền thì các điều khoản cho vay sẽ bị siết chặt hơn nhiều Các vấn đề này nhấn mạnh thêm sự cần thiết cho Việt Nam phải phát triển các phương thức huy động vốn thay thế để huy động các nguồn tài chính dài hạn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Kinh nghiệm cho thấy PPP chính là chìa khóa giúp nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng, làm giảm gánh nặng cho chính quyền trung ương và địa phương. Những chuẩn bị của Việt Nam trong việc áp dụng PPP trong đầu tư CSHT giai đoạn tới Nằm trong lộ trình thí điểm triển khai các dự án PPP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang xây dựng Quy chế thí điểm các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP. Quy chế này sẽ quy định các điều kiện, thủ tục và một số chính sách thí điểm đối với các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP. Các vấn đề cụ thể về lĩnh vực dự án thí điểm, một số tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm, cũng như các quy định về sự tham gia của Nhà nước trong các dự án PPP; quy trình thực hiện dự án… nằm trong dự thảo PPP đang được Trung tâm Hỗ trợ đấu thầu hoàn tất và trình Chính phủ phê duyệt. Sau khi được phê duyệt, PPP sẽ được áp dụng thí điểm tại Việt Nam ngay trong năm 2010. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang đề xuất thành lập Ủy ban Quốc gia về đầu tư theo hình thức PPP, nhằm giúp Thủ tướng Chính phủ trong việc chỉ đạo, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, thuộc chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP. Chính phủ cũng đang kêu gọi sự giúp đỡ của các đối tác nước ngoài trong việc triển khai PPP ở Việt Nam. Ngày 2/3/2010, Hội thảo Hợp tác PPP trong các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công đã được UBND TP. Hà Nội phối hợp với Tập đoàn VEOLIA và Gide Loyrette Nouel, một công ty luật, tổ chức. Một hội thảo khác, với chủ đề Phát triển khu vực trọng điểm (CND) và mô hình PPP cũng đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Kinh tế - Thương mại - Công nghiệp Nhật Bản (METI) tiến hành. Tại Hội thảo, ông Katsuhiko Murayama, Vụ trưởng Vụ Hợp tác nguồn vốn, Thư ký Bộ trưởng METI đã đề xuất ý tưởng hợp tác Nhật - Việt trong phát triển CND tại Hà Nội và các vùng lân cận. Các ý tưởng này bao gồm việc hình thành hành lang kinh tế dọc bờ biển Bắc - Nam Việt Nam, trong đó Vùng Thủ đô Hà Nội là một điểm nút phía Bắc. Theo đó, hàng loạt các dự án cơ sở hạ tầng trong khu vực này sẽ được triển khai. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ Tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với METI triển khai chương trình nghiên cứu chung về PPP. Mục đích cơ bản của chương trình là để tăng cường hiểu biết chung về PPP cũng như năng lực thực hiện các dự án PPP tại Việt Nam; Trong khuôn khổ chương trình này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Kinh tế, thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã thống nhất đưa ra một số dự án đề xuất hình thức PPP thí điểm trong ngành điện, nước và giao thông. Có 04 dự án được chọn ra bao gồm: - Dự án điện trấu - Cần Thơ - Dự án thuỷ điện Hồi Xuân, Thanh Hoá - Dự án cấp nước từ sông Đuống, Hà Nội - Dự án vận hành bảo dưỡng đường cao tốc Bắc Nam (trên một số đoạn); Chương trình có sự tham gia của Bộ ngành liên quan như Bộ xây dựng, Bộ tài chính, Bộ Công thương, các tổ chức quốc tế như JICA, JETRO, cùng các Cục, Vụ chuyên môn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư như Cục Đầu tư nước ngoài, Vụ Pháp chế, Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Vụ Kinh tế đối ngoại, Vụ Kết cấu hạ tầng & đô thị và Cục Quản lý đấu thầu (đơn vị được giao nhiệm vụ điều phối và tổ chức); Nhóm chuyên gia với đại diện là các Bộ ngành và các Cục, Vụ chuyên môn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với phía Nhật Bản và đơn vị tư vấn để bắt tay vào nhiệm vụ đánh giá các dự án nhằm sớm có báo cáo với Chính phủ cho những bước đi tiếp theo. Những kết quả ban đầu khi áp dụng PPP trong lĩnh vực CSHT ở Việt Nam thời gian qua Ngày 9.9.2008, Thủ tướng Chính phủ đã giao Tập đoàn Bitexco lập dự án đầu tư dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết - với tổng mức kinh phí lên tới 14.355 tỉ đồng, thời gian thi công 36 tháng. Đây mới được coi là dự án thí điểm PPP đầu tiên tại Việt Nam. Đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết nằm trong hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, tổng chiều dài 100km, có điểm đầu dự kiến kết nối với đường cao tốc TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, điểm cuối nằm trên QL1A đi Ba Bàu - Bình Thuận. Đây là đường cao tốc loại A vận tốc thiết kế 120km/h, mặt cắt ngang đường 33 mét gồm 6 làn xe, phân kì đầu tư giai đoạn 1 là 4 làn xe. Dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết nằm trong danh mục Các công trình cao tốc ưu tiên đầu tư (hoàn thành trước năm 2015) của Chính phủ. Đây mới là dự án đầu tiên áp dụng mô hình PPP trong lĩnh vực CSHT ở Việt Nam. Ngoài dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, một số dự án đang được quy hoạch để triển khai theo hình thức PPP trong thời gian tới là đường cao tốc Ninh Bình- Thanh Hóa, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Mỹ Thuận - Cần Thơ, Nội Bài - Hạ Long, Hạ Long - Móng Cái, Dầu Giây - Đà Lạt, Bến Lức - Long Thành, cảng quốc tế Hải Phòng, đường sắt tốc độ cao TP.HCM - Cần Thơ. Mới đây Bộ GTVT đã chủ động đưa ra danh sách kêu gọi đầu tư theo mô hình PPP đối với khoảng 10 dự án lớn về đầu tư xây dựng đường cao tốc, với tổng số vốn lên đến trên 10 tỉ USD. Hạn chế trong việc áp dụng PPP trong lĩnh vực đầu tư CSHT thời gian qua và nguyên nhân của chúng Hạn chế Hạn chế trong vấn đề này là tiến độ áp dụng còn chậm. PPP đã trở nên phổ biến ở trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam, PPP còn là quá mới mẻ. Chính phủ đã tiếp cận với PPP vào năm 2005, tuy nhiên, tới thời điểm này, việc áp dụng PPP mới dừng lại ở mức độ ý tưởng và chuẩn bị thí điểm. Rõ rang sự chậm chạp trong việc áp dụng PPP đã gây ra những hiệu ứng không tốt cho phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay. Mặc dù xuất phát từ một yếu tố khách quan là, cũng như kết cấu hạ tầng Việt Nam ở những năm 80 của thế kỷ 20, điểm xuất phát về khung pháp lý và kinh nghiệm của Việt Nam rất ít, nghiên cứu đi từ những khái niệm ban đầu, đề xuất những tiêu chí lựa chọn dự án PPP, nhà đầu tư PPP, sự phù hợp về tỷ lệ góp vốn công - tư phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, doanh nghiệp, đặc điểm vùng, ngành, lãnh thổ, phương thức tổ chức thực hiện... , tuy nhiên cũng cần phải thừa nhận rằng, Chính phủ và các nhà quản lý đang ít nhiều còn gặp lúng túng với việc áp dụng PPP trong các dự án, kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31529.doc
Tài liệu liên quan