Chuyên đề Một số vấn đề hoàn thiện chính sách sản phẩm trong sản xuất hàng Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu Kiêu Kỳ Gia Lâm Hà Nội

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần I: Một số lý luận về chính sách sản phẩm trong sản xuất và kinh .2

I. Sản phẩm và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. .2

1. Sản phẩm và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh 2

II. Các quyết định Marketing về chiến lược sản phẩm . 6

1. Các quyết định có liên quan đến nhãn hiêu: .6

2. Quyết định về bao gói và dịch vụ đối với sản phẩm- hàng hóa: .8

3. Quyết định về chủng loại và danh mục hàng hóa: 9

4. Thiết kế và marketing sản phẩm mới: .11

PHầN II: Đôi nét về quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp 11

I, Sơ lược quá trình hình thành và phát triển xí nghiệp: .13

1. Cơ cấu tổ chức của xí nghiệp: 15

2. Mục tiêu hoạt động của xí nghiệp .16

2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của xí nghiệp .17

II. Quá trình thực hiện chính sách sản phẩm . 24

3. Những tồn tại về chính sách sản phẩm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Xí nghiệp: .27

Phần III. một số giải pháp hoàn thiệnchính sách sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp sản xuất Mây Tre đan xuất khẩu .30

1. Nhận thức vấn đề về chính sách sản phẩm nói riêng Marketing nói chung . 30

2. Những vấn đề cần hoàn thiện để tăng cường mở rộng thị trường. .30

3. Các giải pháp về mặt kỹ thuật và tổ chức quản lý cần được sử dụng. 31

Kết luận . 33

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề hoàn thiện chính sách sản phẩm trong sản xuất hàng Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu Kiêu Kỳ Gia Lâm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm, lớp bảo vệ lớp tiếp xúc, bao bì vận chuyển, nhãn hiệu và các thông tin mô tả hàng hóa trên bao gói. Ngày nay bao gói trở thành công cụ đắc lực của hoạt động marketing bởi vì: Một là sự phát triển của hệ thống cửa hàng tự phục vụ, tự chọn ngày càng tăng; hai là, mức giàu sang và khả năng mua sắm của người tiêu dùng càng tăng; ba là, bao bì góp phần tạo ra hình ảnh về công ty và nhãn hiệu; bốn là, tạo ra khả năng và ý niệm về sự cải tiến sản phẩm hàng hóa. Để tạo ra bao gói có hiệu quả cho một hàng hóa nhà quản trị marketing phải thông qua hàng loạt quyết định kế tiếp nhau như sau: Xây dựng quan niệm về bao gói: bao bì phải tuân thủ nguyên tắc nào? Nó đóng vai trò như thế nào đối với một mặt hàng cụ thể? Nó phải cung cấp những thông tin gì về hàng hóa?... Quyết định về các khía cạnh: kích thước, hình dáng, vật liệu, màu sắc nội dung trình bày và có gắn nhãn hiệu hay không? Khi thông qua các quyết định này phải gắn các công cụ khác của marketing. Quyết định về thử nghiệm bao gói bao gồm: thử nghiệm về kỹ thuật, thử nghiệm về hình thức, thử nghiệm về kinh doanh, thử nghiệm về khả năng chấp nhận của người tiêu dùng. Cân nhắc các khía cạnh lợi ích xã hội, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của bản thân công ty. Quyết định về các thông tin trên bao gói. Tuỳ vào những điều kiện cụ thể mà các nhà sản xuất bao gói quyết định đưa thông tin gì lên bao gói và đưa chúng lên như thế nào? Trong trường hợp những thông tin chủ yếu đựoc thể hiện qua bao gói là: * Thông tin về hàng hóa, chỉ rõ đó là hàng gì? * Thông tin về phẩm chất hàng hóa. * Thông tin về ngày tháng, người, nơi sản xuất và các đặc tính của hàng hóa. * Thông tin về kỹ thuật an toàn khi sử dụng. * Thông tin về nhãn hiệu thương mại và các hình thức hấp dẫn để kích thước tiêu thụ. * Các thông tin do luật định. Các thông tin được đưa ra có thể bằng cách in trực tiếp lên bao bì hoặc in rời phôi dán lên bao bì. Gần đây cách thứ nhất được sử dụng phổ biến hơn. Quyết định về dịch vụ khách hàng: Một yếu tố khác cấu thành sản phẩm- hàng hóa hoàn chỉnh là dịch vụ khách hàng. Tuỳ vào từng loại hàng mà tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng sẽ khác nhau. Các nhà quản trị marketing phải quyết định ba vấn đề liên quan đến việc cụng cấp dịch vụ cho khách hàng. Nội dung hay các yếu tố dịch vụ mà khách hàng đòi hỏi và khả năng công ty có thể cung cấp là gì? Tầm quan trọng tương đối của từng yếu tố dịch vụ đó. Chất lượng dịch vụ và công ty phải đảm bảo cho khách hàng đến mức nào so với các đối thủ cạnh tranh. Chi phí dịch vụ, tức là khách hàng được cung cấp dịch vụ miễn phí hay theo mức giá cả nào. Lựa chọn hình thức cung cấp dịch vụ: Công ty tự tổ chức lực lượng cung cấp dịch vụ, dịch vụ được cung cấp bởi các trung gian buôn bán, dịch vụ do tổ chức độc lập bên ngoài công ty cung cấp. 3. Quyết định về chủng loại và danh mục hàng hóa: Định nghĩa về chủng loại hàng hóa: Chủng loại hàng hóa là một nhóm hàng hóa có liên quan chặt chẽ với nhau do giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng một nhóm khách hàng, hay thông qua cùng những kiểu tổ chức thương mại, hay trong khuôn khổ cùng một dãy giá. Quyết định về bề rộng của chủng loại hàng hóa: Mỗi công ty thường có cách thức lựa chọn bể rộng chủng loại hàng hóa khác nhau. Những tuỳ chọn này tuỳ thuộc vào mục đích mà công ty theo đuổi. Các công ty thiên về mục tiêu cung cấp một chủng loại đầy đủ hay phấn đấu để chiếm lĩnh phần lớn thị trường hoặc mở rộng thị trường thường có chủng loại hàng hóa rộng. Trong trường hợp này họ sản xuất khẩu những chủng loại hàng hóa sinh lời ít. Ngược lại có những công ty quan tâm đến sinh lời cao của hàng hóa. Nhưng dù quyết định ban đầu của công ty như thế nào , thì hiện tại công ty cũng gặp phải vấn đề đặt ra là mở rộng và duy trì bề rộng của chủng loại hàng hóa bằng cách nào? Giải quyết được vấn đề này công ty có hai hướng lựa chọn. Một là, phát triển chủng loại. Phát triển chủng loại có thể được thực hiện bằng các cách thức khác nhau: Phát triển hướng xuông dưới. Phát triển hướng lên trên. Phát triển theo cả hai hướng trên. Hai là, bổ sung chủng loại hàng hóa. Cách làm này có nghĩa là theo bề rộng mà công ty đã lựa chọn, công ty cố gắng đưa thêm những mặt hàng trong khuôn khổ đó. Việc bổ sung hàng hóa được xuất phát từ các mục đích sau: Mong muốn có thể thêm lợi nhuận. Để lấp chỗ trống trong chủng loại hiện có. Tận dụng năng lực sản xuất dư thừa. Mưu toan trở thành công ty chủ chốt với chủng loại đầy đủ. Khi bổ sung những sản phẩm mới trong cùng một chủng loại công ty phải tính đến khả năng giảm mức tiêu thụ của sản phẩm khác. Để làm giảm bớt ảnh hưởng này công ty phải đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm mới khác hẳn so với sản phẩm đã có. Quyết định về danh mục hàng hóa: Danh mục hàng hóa là tập hợp tất cả các nhóm chủng loại hàng hóa và các đơn vị hàng hóa do một nhóm người bán cụ thể đem chào bán cho người mua. Danh mục hàng hóa được phản ánh qua bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài hoà của nó. Bề rộng của danh mục hàng hóa là tổng số các nhóm chủng loại hàng hóa do công ty sản xuất. Mức độ phong phú của danh mục hàng hóa là tổng số những mặt hàng thành phẩm của nó. Bề sâu của danh mục hàng hóa là tổng số các hàng hóa cụ thể được chào bán trong từng mặt hàng riêng của nhóm chủng loại. Ví dụ: thuốc đánh răng “Crest” là mặt hàng thuộc nhóm chủng loại thuốc đánh răng. Thuốc đánh răng “Crest” được chào bán trong ba kiểu đóng gói với hai loại hương vị (loại thường và bạc hà). Khi đó bề sâu của danh mục hàng hóa có sáu hàng hóa cụ thể. Mức độ hài hòa của danh mục hàng hóa phản ánh mức độ gần gũi của hàng hóa thuộc các chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích sử dụng cuối cùng, hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối hay một tiêu chuẩn nào đó. Bốn thông số đặc trưng cho danh mục hàng hóa mở ra cho công ty bốn hướng chiến lược mở rông danh mục hàng hóa. 4. Thiết kế và marketing sản phẩm mới: Khái quát về sản phẩm mới: Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh công ty không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào những hàng hóa hiện có. Vì vậy, mỗi công ty đều phải quan tâm đến chương trình phát triển với uy tín ngày càng tăng. Để có được sản phẩm mới công ty có thể có hai cách: + Mua toàn bộ công ty đó, mua bằng sáng chế hay giấy phép sản xuất hàng hóa của người khác. + Tự thành lập bộ phận nghiên cứu marketing và thiết kế sản phẩm mới. Ta sẽ tập trung nghiên cứu. Theo quan niệm marketing sản phẩm mới có thể là những sản phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm mới hiện có hoặc những nhãn hiệu mới do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất đánh giá sản phẩm đó là sản phẩm mới hay không phải là sự thừa nhận của khách hàng. Thiết kế, sản xuất sản phẩm mới là một việc làm cần thiết nhưng có thể mạo hiểm đối với doanh nghiệp. Bởi vì chúng cóthể thất bại do những nguyên nhân khác nhau. Để hạn chế bớt rủi ro, các chuyên gia- những người sáng tạo sản phẩm mới phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước trong quá trình tạo ra sản phẩm mới và đưa nó vào thị trường. 5. Chu kỳ sống của sản phẩm hàng hóa: Khi đem bán sản phẩm của mình trên thị trường công ty nào cũng mong muốn nó được bán chạy và tồn tại lâu dài, khối lượng buôn bán đạt ở mức cao. Nhưng đó chỉ là kỳ vọng. Bởi vì hoàn cảnh môi trường và thị trường luôn biến đổi. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới sản phẩm và đựoc phản ánh qua sự biến đổi của khối lượng và doanh số tiêu thụ sản phẩm. Để mô tả hiện tượng này người ta dùng thuật ngữ chu kỳ sống của sản phẩm. Chu kỳ sống của sản phẩm là thuật ngữ mô tả sự biến đổi của doanh số tiêu thụ kể từ khi sản phẩm được tung ra thị trường cho đến khi nó phải rút ra khỏi thị trường. Chu kỳ sống của sản phẩm có thể được xem xét cho từng mặt hàng cụ thể, từng nhóm chủng loại, thậm chí từng nhãn hiệu hàng hóa. Sự tồn tại chu kỳ sống của sản phẩm là hiển nhiên, hy vọng về sự tồn tại lâu dài với doanh số cao đối với một hàng hóa, chủng loại hàng hóa hoặc nhãn hiệu hàng hóa là chính đáng. Nhưng hy vọng đó chỉ đạt được khi công ty biết được sự diễn biến của chu kỳ sống, đặc điểm của nó, đồng thời có những điều chỉnh marekting thích hợp. Đối với từng sản phẩm, nhóm chủng loại hoặc nhãn hiệu hàng hóa có thể có số lượng và độ dài từng giai đoạn khác nhau. Nhưng dạng khái quát về mặt lý thuyết thì chu kỳ sống của sản phẩm có bốn giai đoạn. Giai đoạn tung sản phẩm vào thị trường. Giai đoạn phát triển. Giai đoạn chín muồi. Giai đoạn suy thoái. PHầN II: ĐÔI NéT Về QUá TRìNH HìNH THàNH Và PHáT TRIểN Xí NGHệP I, Sơ lược quá trình hình thành và phát triển xí nghiệp: Xí nghiệp sản xuất gia công bằng mây tre xuất khẩu trực thuộc Tổng công ty Mây tre xuất nhập khẩu Việt Nam. Xí nghiệp được thành lập vào ngày 31/3/1990 theo quyết định số 170 KTĐN/TCCB của Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Xí nghiệp sản xuất gia công hàng mây tre là doanh nghiệp Nhà nước có: + Tên giao dịch: Baortex. + Trụ sở xí nghiệp: Xã Kiêu Kỵ- Gia Lâm- Hà Nội. Chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh, hách toán độc lập, tự chủ về tàI chính, có tư cách pháp nhân, có tàI khoản tạI ngân hàng và con dấu riêng. Tổng số vốn kinh doanh: Xí nghiệp hiện có 12,350 Vốn đIũu lệ: 6,750 Vốn cố định: 4620 Vốn lưu động: 3540 Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất gia công chế biến các sản phẩm song, mây tre để xuất khẩu liên doanh, liên kết, hợp tác và đầu tư sản xuất với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Xí nghiệp sản xuất gia công hàng mây tre mới thành lập, nên cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ công nhân viên còn bị ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, năng lực trình độ quản lý yếu, tay nghề của công nhân thấp. Quá trình sản xuất kinh doanh trong vàI năm trở lạI đây xí nghiệp đã đạt được những thành tích như: + Liên tục thay đổi chất lượng mẫu mã sản phẩm của mình, xí nghiệp đã xuất khẩu được nhiều lô hàng có giá trị cho thị trường trong nước và quốc tế. + Xí nghiệp đã khuyến khích cán bộ công nhân nên đưa ra những sáng kiến trong sản xuất làm giảm tối đa hao phí trong sản xuất cũng như trong quản lý. + Thực hiện hiện đạI hoá xi snghiệp bằng cách bỏ vốn ra đầu tư trang thiết bị máy móc cho các phân xưởng sản xuất chế biến, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan, môI trường bên trong và bên ngoài… + Điều kiện lao động được nâng cao tốt nên sức khoẻ của cán bộ công nhân viên được bảo đảm, mức thu nhập cao, các phúc lợi xã hội được giải quyết có lợi cho người lao động. Có được những thành tích trên xí nghiệp đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Xí nghiệp đã từng bước khẳng định được vị trí và vươn lên trong nền kinh tế thị trường. Ngày 31/4/1995 Bộ Thương Mại đánh giá Xí nghiệp là một doanh nghiệp kihn doanh có hiệu quả và có triển vọng phát triển trong tương lai. 1. Cơ cấu tổ chức của xí nghiệp: Sự phát triển của xí nghiệp về chiều sâu và chiều rộng trong tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp đã hình thành được bộ máy quản lý phù hợp với cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh của mình, các phòng ban liên kết chặt chẽ với nhau và chịu sự quản lý giám sát của giám đốc xí nghiệp. Trong sử dụng hệ thống điều hành tương đối tập trung nhưng vẫn phát huy được tính sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của các phòng ban, phân xưởng sản xuất của mình. Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ, được trực tiếp quan hệ với các ngành các cấp quản lý Nhà nước, với các Ngân hàng, với khách hàng trong và ngoài nước, được trực tiếp ký kết các hợp đồng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất hàng để xuất khẩu, ngoìa ra địa bàn hoạt động của xí nghiệp tương đối rộng, với số lượng cán bộ công nhân viên chỉ có 100 người, do đó việc tổ chức bộ máy quản lý và điều chnhr của xí nghiệp đồi hỏi phải rất năng động để làm sao quản lý một cách hiệu quả nhất.Vì thế bộ máy quản lý của xí nghiệp được tổ chức theo kiểu thực tuyến chức năng. - Kiểu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất này đảm bảo sự gọn nhẹ, xử lý nhanh ác thông tin cho Ban lãnh đạo một cách kịp thời và đầy đủ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho Ban lãnh đạo nắm vững được tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và có những định hướng chỉ đạo sát sao phù hợp với thực tế. Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phòng Kế toán tài chính Kế toán trưởng Phó Giám đốc điều hành sản xuất đời sống Phó Giám đốc điều hành kỹ thuật Phòng kinh doanh Phòng tài chính Phòng kỹ thuật Phòng KCS Công nhân Tổ trưởng tổ Quản đốc các phân xưởng 2. Mục tiêu hoạt động của xí nghiệp - Là 1 xí nghiệp nhỏ chuyên sản xuất nhiều loại sản phẩm song, mây,tre khác nhau nhằm đáp ứng cho nhiều kĩnh vực tiêu dùng, do vậy yếu tố chất lượng mẫu mã sản phẩm là hết sức quan trọng. Xí nghiệp xem chất lượng, uy tín là điều kiện sống còn của mình. - Cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, xí nghiệp lấy mục tiêu lơi nhuận là hàng đầu. - Do sự sụp đổ của thị trường truyền thống là các nước Đông Âu và Liên Xô làm xí nghiệp mất đi một thị trường thuyền thống khá lớn, điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải khắc phục khó khăn trong việc đi tìm thị trường mới càng nhiều càng tốt. - Thực tế khó khăn đó đòi hỏi xí nghiệp phải tăng cường phát triển mở rộng sản xuất, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao tay nghề cho người lao động và quá trình quản lý. Đứng vững trước được sự biến động của thị trường để có đầu vào xí nghiệp luôn luôn có đủ điều kiện về tài chính để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh . 2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Trang thiết bị máy moác cho sản xuất : - Trang thiết bị máy móc cho sản xuất là một nguồn lực quan trọng của xí nghiệp, nó là yếu tố đảm bảo cho mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm theo sự thay đổi phức tạp trong dự kiến của người tiêu dùng hiện đại. Từ những năm đầu máy móc của xí nghiệp quá cồng kềnh, hao phí nhiên liệu cao, năng suất thấp, tạo ra sản phẩm có độ chính xác thấp, máy móc của xí nghiệp ban đầu có rất ít, chủ yếu là do nhà máy công cụ số 1 sản xuất và phần còn lại của Liên Xô. Các linh kiện của các loại máy này lại không đồng bộ, thiếu phụ tùng. Cho đến năm 1994 trang thiết bị đã cũ, lac hậu, không còn đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất, làm ảnh hưởng đến người lao động, mặc dù trong quá trình sản xuất trang thiết bị trên cũng được tu sửa, thay thế nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. - Đến đầu năm 1995, xí nghiệp đã tự đề ra biện pháp quan trọng nhất là phương án đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới thiết bị máy móc gần như toàn bộ cho các xưởng sản xuất chế biến. - Cuối năm 1995 xí nghiệp đã trang bị máy móc mới thay thế vào các máy móc cũ lạc hậu. Xí nghiệp đã nhập các máy móc của Đài Loan, Hàn Quốc… BảNG GIá TRị THIếT Bị MáY MóC TT Tên thiết bị, phương tiện máy móc sản xuất Nhãn hiệu Số lượng Công suất Giá trị % còn lại Mức độ 1 Máy bóc vỏ song Đài Loan 1 1 tấn/h 80 Khá 2 Máy chẻ mây Đài Loan 1 8,5 tạ/h 90 Khá 3 Máy đánh bóng Đài Loan 1 8 tạ/h 70 Khá 4 Máy uốn song mây Hàn Quốc 1 7,5 tạ/h 80 Khá 5 Máy nhuộm mây Hàn Quốc 1 8 tạ/h 50 Khá 6 Máy tẩy mây Hàn Quốc 1 8 tạ/h 70 Khá 7 Máy đan mặt mây Đài Loan 2 70m2/h 60 Khá 8 Máy bắn định Hàn Quốc 1 600tạ/h 70 Khá 9 Máy chẻ song Hàn Quốc 1 1tấn/h 70 Khá 10 Máy sấy song Đài Loan 1 8 tạ/h 70 Khá - Thời kỳ trước năm 1989 thị thường khu vực I ( Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa mua hàng mây che đan là chủ yếu. + Giai đoạn hàng hoá song mây chủ yếu là các sản phẩm đan lát hàng thủ công mỹ nghệ mây tre nhỏ, chất lượng không cao, chỉ cần bàn tay khéo léo của người thợ là chủ yếu mà chưa cần dùng đến năng lực máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất tiên tiến . Sau khi khối thị trường Đông Âu sụp đổ, đất nước ta đã mở cửa hoà nhập vào thị trường thế giới, đó là một thuận lợi cho các doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề vạch ra cho xí nghiệp là làm sao để xâm nhập vào các thị trường thế giới để cạnh tranh với các loại hàng hoá song mây tre của các nước trong khu vực Đông Nam á thì trước tiên phải có chất lượng, mẫu mã, đa dạng phong phú thì phải cần đến máy móc, công nghệ tiên tiến vì vậy việc đầu tư vào máy móc là điều tất yếu. Trứoc đây các loại máy móc phục vụ cho hàng mây tre chủ yếu do Việt Nam sản xuất hay Liên Xô, các loại máy móc này thô sơ, chủ yếu là dùng sức người, độ bóng không đẹp, độ chính xác thấp, sản xuất với công suất ít. So với các loại máy của Đài loan, Hàn quốc thì ta có thể thấy rõ, ví dụ như máy bóc vỏ song của Việt Nam cương độ sản xuất được2,5tạ/h, độ bóng kém, độ chính xác sai lệch nhiều thì máy bóc vỏ song của Đài Loan có công suất 1tấn/h, gấp 4 lần máy móc cũ, độ bóng đẹp, độ chính xác cao. - Thiết bị máy móc đóng vai trò to lớn trong xí nghiệp mây tre, giúp cho việc sản xuất ra những loại sản phẩm có độ bóng, bền, đẹp phù hợp với khách hàng, đựoc thị trường chấp nhận, máy móc làm giảm cường độ thời gian để tạo ra sản phẩm cho xí nghiệp đúng thời gian biểu. Vốn của xí nghiệp: - Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cần thiết dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp vì vậy bất cứ xí nghiệp nào cũng cần phát triển bảo toàn vốn vì nó là điều kiện cần cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. - Từ khi thành lập xí nghiệp cho đến nay số vốn của xí nghiệp không ngừng tăng trưởng. - Việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp chủ yếu dựa vào đơn đặt hàng của khách nước ngoài. Vốn kinh doanh của xí nghiệp được hình thành từ: + Ngân sách của nhà nước + Vốn vay ngân hàng + Vay của công nhân viên chức trong xí nghiệp + Xí nghiệp thường bổ sung vốn bằng nguồn vốn tự có trích từ lợi nhuận. Trong việc huy động vốn xí nghiệp luôn luôn tuân theo quy định của pháp luật về tài chính. Không thay đổi hình thức chủ sở hữu của xí nghiệp là sở hữu nhà nước. Xí nghiệp luôn thực hiện nộp thuế, nghĩa vụ của mình với nhà nước. Việc huy động vốn của xí nghiệp làm lợi cho sản xuất và tiêu thụ được khách hàng, người lao động tin tưởng và xí nghiệp chấp hành đúng quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của nhà nước. Bảng vốn của xí nghiệp qua các năm Năm Cơ cấu vốn Tổng số vốn Nguồn vốn Ghi chú Ngân sách Nhà nước cấp Vay Nhà nước Vốn tự có 1994 Tổng số vốn TSCĐ TSLĐ 608 484 214 0 0 0 38 25 10 570 459 204 1995 Tổng số vốn TSCĐ TSLĐ 0 0 0 410 426 10 2072 1490 550 1996 Tổng số vốn TSCĐ TSLĐ 2482 1490 560 0 0 0 200 200 0 994 559 284 1997 Tổng số vốn TSCĐ TSLĐ 6320 4620 3540 100 0 0 1002 870 357 5218 4620 3183 Nguyên liệu cho sản xuất: - Nguồn cung ứng nguyên liệu song mây tre ở nước ta chủ yếu là nguồn thiên nhiên, phần lớn tập trung ở các tỉnh miền núi có độ ẩm từ 60-80%. - Những năm trước đây Nhà nước chưa có chính sách bảo vệ nên việc khai thác còn tuỳ tiện bừa bãi. Ngày nay có chính sách bảo hộ trồng rừng, việc cung ứng nguyên liệu không chỉ đơn thuần theo chính sách của Nhà nước mà còn được cung cấp trực tiếp của những vùng có sẵn nguyên liệu khi xí nghiệp cần. Khi nhập nguyên liệu, xí nghiệp có thể mua của tư nhân hay các nông, lâm trường, đóng thuế cho tỉnh. Việc mua bán các nguyên liệu này cũng gây ra các tiêu cực đánh thuế nhiều lần qua các trạm thuế của các tỉnh dẫn đến giá cả không thực chất giữa nơi khai thác và nơi tiêu thụ. Theo chính sách của Nhà nước thì chỉ được quyết định khâu cuối cùng, khi xí nghiệp mua nguyên liệu này thì nghiệm thu chất lượng tại nơi mua rồi phân loại theo tính chất, độ bền của nguyên vật liệu rồi định ra giá cả khác nhau tuỳ theo yêu cầu của mặt hàng. - Để phục vụ sản xuất và theo đơn đặt hàng mà cần những loại nguyên vật liệu khác nhau. Xí nghiệp luôn có nhiều nơi để thu mua hàng một cách dễ dàng khi cần. Những việc đánh thuế nhiều lần làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm thì doanh thu ít, để có thể thuận lợi trong việc nhập nguyên vật liệu xí nghiệp và nơi cung cấp nguyên đã hợp tác về lâu dài để hai bên cùng có lợi về việc cung cấp nguyên vật liệu diễn ra suôn sẻ khi cần xí nghiệp có thể mua để phục vụ sản xuất bất cứ lúc nào, theo đúng luật pháp. Trong sản xuất của xí nghiệp luôn có đầy đủ nguyên liệu các loại song mây tre của các đơn vị lâm trường, tư nhân cung cấp cho, ngoài ra bao giờ xí nghiệp cũng luôn tích trữ nguyên vật liệu để đề phòng khi cần, nhưng với mức độ nguyên vật liệu tồn trong kho với số lượng ít để phòng khi thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất. Nguồn nhân lực (lao động): -Đội ngũ công nhân viên chức của xí nghiệp có 100 người trong đó: + Cán bộ chuyên môn hành chính : 18 + Cán bộ chuyên môn kỹ thuật : 10 +Công nhân kỹ thuật :62 +Lao động phụ trợ :10 - Ngoài ra còn có từ 50-80 người thợ thủ công khi xí nghiệp cần gọi để lao động tạm thời. - Là một xí nghịêp sản xuất song mây tre nên số lượng lao động tăng trưởng hàng năm gắn liền với xí nghiệp cả về qui mô lẫn hiệu quả kinh doanh để nâng cao trình độ quản lý và trìnhđộ tay nghề của cán bộ nhân viên, với nhữngviệc làm thiết thực, xí nghiệp đã không ngừng khuyến khích cử cán bộ công nhân đi học về nghiệp vụ quản lý, trình độ kỹ thuật ở trong và ngoài nước đối với những cá nhân có thành tích tốt trong mỗi công việc của mình. - Việc quản lý nguồn nhân lực của xí nghiệp được thực hiện một cách có hiệu quả từ việc kế hoạch hoá nguồn nhân lực, biết khai phá tận dụng triệt để nguồn nhân lực, cách làm này của xí nghiệp làm cho nhiều người lao động hăng say yêu nghề, gắn bó với xí nghiệp và đưa ra những phát kiến mà họ sáng tạo ra để ứng dụng vào quản lý cũng như trong sản xuất. - Ngoài những việc trên xí nghiệp còn quan tâm tới mức lương của mỗi công nhân viên, làm sao cho vật chất lẫn tinh thần của người lao động đầy đủ và các phúc lợi xã hội được giải quyết thoả đáng có lợi cho mọi người làm cho người lao động sẽ yên tâm trong sản xuất, sáng tạo công việc. Thuận lợi và khó khăn: * Thuận lợi: - Ngoài những chính sách của Đảng và nhà nước ưu tiên, khuyến khích sản xuất kinh doanh nhất là những ngành hàng nhất là những ngành hàng sản xuất từ nguyên vật liệu trong nước như chính sách thuế cho vay ưu đãi.,. thì trong sản xuất và chế biến mặt hàng song mây tre có một số thuận lợi. - Về lao động: Nước ta là nước nông nghiệp mới bắt đầu phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nên lao động còn dư thừa ở các vùng nông nghịêp,người lao động ở nước ta vốn cần cù, sáng tạo và khéo tay. Đây là điểm rất phù hợp với nghề thủ công,chúng ta có những làng nghề sản xuất, chế biến hàng song mây tre lâu đời,có nghệ nhân lành nghề, có kinh nghiệm nhiệt huyết với nghề… - Về nguyên liệu: Nguyên liệu để sản xuất chế biến hàng song mây tre có hầu hết ở các địa phương trong cả nước từ Bắc đến Nam, đây là điểm thuận lợi để phát triển sản xuất song mây tre - Về côngcụ sản xuất; công cụ dùng trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre là những; côngcụ đơn giản,dễ làm và rẻ tiền, ở đây chúngta có thể tự sản xuất và chế tạo được. - Về khí hậu: Với khí hậu ở nước ta là nước nhiệt đới nóng ẩm, mùa nắng có nắng nhiều, mùa rét thì khô hanh cũng là một điều kiền thuận lợi trong khai thác, chế biến và sản xuất hàng song mây tre. - Ngoài những thuận lợi chính nêu ở trên,trong sản xuất và chế bíên hàng song mây tre không cần vốn đầu tư nhiều và không gian rộng mà có thể sản xuất chế biến trong từng gia đình * Khó khăn: - Trong sản xuất và chế bíên hàng song mây tre ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn , những khó khăn này phải có thời gian thì chúng ta mới khắc phục được - Chúng ta chưa có chiến lược lâu dài trong ngành hàng mây tre xuất khẩu, chưa thấy hết được ý nghĩa xã hội trong việc phát triển ngành hàn mây tre sẽ tạo ra được nhiều việc làm cho số lượng lao động dư thừa. - Đội ngũ lao động của chúng ta có nhiều nhưng chưa tinh thông, năng lực sáng tạo còn hạn chế. Trong ngành chưa có đầu tư thích đáng về khoa học kỹ thuật cho sản xuất chế biến hàng mây tre. - Trong khai thác nguyên liệu song mây tre còn thô sơ,đơn giản chưa đưa ra những công cụ tiên tiến vào sản xuất chế biến. - Khí hậu nóng ẩm một mặt tạo điều kiện thuận lợi song mặt khác cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng hàng song mây, gây mốc hoặc làm biến màu hàng hoá. II. Quá trình thực hiện chính sách sản phẩm. 1. Có thể nói sản phẩm bằng song Mây, Tre, đay dần là mốt trên thế giới. Người tiêu dùng đã quá nhàm chán với những bộ bàn ghế đó dùng bằng gỗ và kim loại…. có kích thước lớn và thô trong khi đó lại tìm thấy sự mảnh mai, sang trọng ở những đồ dùng làm song mây tre mà cả những nước mới biết mặt hàng mây tre cũng đa dạng, các sản phẩm có kiểu cách đơn điệu vẩn ở dạng thô như hiện nay không được người tiêu dùng ưa chuộng. Sở thích của họ là gọn nhẹ bền đẹp tiện lợi trong sử dụng, đó là những sản phẩm có nhu cầu cao nhất. Trên thế giới buôn bán đồ dùng gia định đã chiếm 70-80% tổng lượng hàng mây tre. Theo tài liệu của trung tâm thông tin về song mây có trụ sở đặt tại Malaixia (viết tắt RIC) cho thấy: Kim ngạch trao đổi hàng năm trên thế giới Năm Của thế giới (1000 USD) Cước % 1997 1998 1999 23.020.964 23.087.724 23.173.148 0,4% 0,29% 0,37% Đối với Việt Nam sau đại hội Đảng VII: Thị trường chủ yếu của Việt Nam cũng như của Xí nghiệp là các n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24320.DOC
Tài liệu liên quan