MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI 3
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước đối với sự phát triển thương mại. 3
1.1.1. Thương mại và dịch vụ. 3
1.1.2.Lý luận chung về quản lý Nhà nước đối với sự phát triển thương mại. 4
1.2. Những nhân tố tác động tới quản lý Nhà Nước về thương mại trong giai đoạn mới. 8
1.2.1. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. 8
1.2.2. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá 9
1.2.3 Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 11
1.3 Sự cần thiết đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại 12
1.3.1 Vai trò của ngành thương mại đối với sụ phát triển kinh tế 12
1.3.1.1 Xuất khẩu với tăng trưởng kinh tế 13
1.3.1.2. Nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế. 14
1.3.1.3. Thương mại nội địa với tăng trưởng kinh tế 14
1.3.2. Tính tất yếu của quá trình đổi mới quản lý Nhà Nước về thương mại. 14
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI TỪ 1996 ĐẾN NAY. 18
2.1.Khái quát thực trạng phát triển thương mại Hà Nội giai đoạn 1996-nay. 18
2.1.1. Thương mại Hà Nội giai đoạn 1996-2000 18
2.1.2. Thương mại Hà Nội giai đoạn 2001-nay 19
2.1.2.1. Đánh giá tổng quan 19
2.1.2.2 Về thương mại nội địa của Hà Nội. 21
2.1.2.3. Về tổng kim nghạch xuất nhập khẩu của Hà Nội 24
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về thương mại giai đoạn 1996-nay. 29
2.2.1. Công tác xây dựng và triển khai chính sách. 29
2.2.2. Xây dựng cơ chế - tổ chức bộ máy – công tác cán bộ. 33
2.2.3. Cải cách thủ tục hành chính 37
2.3. Bài học kinh nghiệm về phát triển thương mại và quản lý Nhà Nước về thương mại giai đoan 1996-2006. 39
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được 39
2.3.1.1. Nguyên nhân bên ngoài: 39
2.3.1.2. Nguyên nhân bên trong. 40
2.3.2. Những tồn tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về thương mại của Thủ đô Hà Nội. 42
2.3.3. Một số bài học kinh nghiệm trong quản lý Nhà Nước đối với sự phát triển thương mại của thủ đô Hà Nội 46
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN TỚI. 49
3.1. Định hướng phát triển thương mại Hà Nội giai đoạn mới. 49
3.1.1. Những cơ hội – thách thức và điểm mạnh - điểm yếu của thương mại Hà Nội trong giai đoạn tới. 49
3.1.2. Định hướng phát triển thương mại Hà Nội đến năm 2020. 52
3.1.2.3. Đổi mới tổ chức quản lý. 55
3.2. Mục tiêu đổi mới công tác quản lý Nhà Nước đối với sự phát triển thương mại Hà Nội. 56
3.2.1. Ổn định nền kinh tế vĩ mô; Tạo lập môi trường kinh doanh 56
3.2.1.1. Ổn định nền kinh tế vĩ mô. 57
3.2.1.2. Xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh và công bằng. 57
3.2.1.3. Đổi mới tư duy quản lý 59
3.2.2. Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường. 59
3.2.3. Nâng cao năng lực quản lý Nhà Nước nhằm hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 61
3.3. Một số giải pháp đổi mới quản lý Nhà Nước đối với sự phát triển thương mại của thủ đô Hà Nội trong giai đoạn tới. 64
3.3.1. Đổi mới công tác hoạch định và thực thi chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của ngành thương mại Hà Nội. 64
3.3.2. Đổi mới công tác tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về thương mại của thành phố Hà Nội. 67
3.3.3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước hỗ trợ sự phát triển của thương mại Hà Nội 69
3.3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển thương mại 69
3.3.3.2. Thực hiện chiến lược ưu tiên xuất khẩu, phát triển các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. 71
3.3.3.4. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại. 74
3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. 76
KẾT LUẬN 78
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3143 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về đổi mới quản lý Nhà Nước đối với sự phát triển thương mại của thủ đô Hà Nội giai đoạn 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước, xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thương mại điện tử, quản lý thị trường, quản lý cạnh trạnh, chống độc quyền, chống bán phá giá, xúc tiến thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế; quản lý Nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành thương mại trên địa bàn Thành Phố. Sở thương mại Hà Nội chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế hoạt động của UBND Thành Phố Hà Nội; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ về thương mại của Bộ Thương mại
Song song với công cuộc đổi mới Nhà Nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà Nước của ngành thì còn nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà Nước trong thời kỳ mới. Năm 2004, Hà nội đã thành lập Tổng công ty thương mại Hà Nội trên cơ sở hợp nhất 17 doanh nghiệp trực thuộc Sở thương mại quản lý và Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội là công ty mẹ. Tuy nhiên, sau 2 năm hoạt động không thấy có sự đổi mới và hiệu quả rõ nét đã cho thấy rằng mặc dù chủ trương thành lập các tập đoàn và các tổng công ty lớn là chủ trương đúng đắn nhưng phải dựa trên lợi ích kinh tế chứ không bằng các biện pháp hành chính, phải làm thay đổi hành vi kinh doanh để nâng cao tính cạnh tranh của ngành chứ không phải tạo nên một vỏ bọc mới cho tổ chức hiện hành mà không thay đổi được bản chất.
Trong những năm đổi mới, công tác xúc tiến thương mại đã dần được cải thiện từng bước, từ tổ chức thực hiện cơ chế đến chính sách về công tác xúc tiến thương mại Thành Phố, tập trung tài chính và công sức cho công tác xúc tiến thương mại của Hà Nội, Sở thương mại Hà Nội đã tham mưu UBND Thành Phố Hà Nội thành lập Quỹ xúc tiến thương mại Thành phố Hà Nội vào năm 2005 với mục tiêu nhằm tạo đầu mối và cơ chế tài chính rõ ràng cho công tác xúc tiến thương mại Hà Nội.
Về công tác cán bộ:
Trong những năm đổi mới, đội ngũ cán bộ công chức của ngành thương mại Hà Nội đã có những tiến bộ tích cực toàn diện trên nhiều mặt: chất lượng của cán bộ ngày càng cao cả về trình độ chuyên môn lẫn nghiệp vụ và công tác quản lý, số lượng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của quá trình đổi mới, cơ cấu cơ bản đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Công tác cán bộ luôn được ngành quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và tinh giảm bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực.Thực tế là các cán bộ của Ngành từ chủ chốt đến các cán bộ đơn vị đều được đào tạo cơ bản, được nâng cao trình độ thường xuyên về nghiệp vụ quản lý, kinh doanh đến trình độ chính trị, hang năm có đến hang trăm cán bộ được cử đi học trong và ngoài nước.
Công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đã có nhiều cố gắng, dần đi vào nề nếp, đặc biệt là công tác đánh giá, quy hoạch, đề bạt và luân chuyển cán bộ được coi trọng và có nhiều chuyển biến mới. Công tác đánh giá, phân loại cán bộ được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy trình và mang lại những khích lệ to lớn cho cán bộ công nhân viên. Công tác cán bộ đã đạt được những kết quả nhất định, đội ngũ cán bộ công chức đã được trẻ hoá, trình độ tin học - ngoại ngữ tốt hơn, tư duy kinh tế tiến bộ hơn. Công tác thực hiện chế độ đãi ngộ được quan tâm hơn mang lại sự động viên to lớn nhằm khuến khích cán bộ hăng say đóng góp, công chức thương mại phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
2.2.3. Cải cách thủ tục hành chính
Thực hiện mục tiêu chung của chương trình cải cách thủ tục hành chính của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001- 2010 là: Xây dựng bộ máy hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác cải cách thủ tục hành chính của ngành thương mại đã có nhiều đổi mới trước hết là sự đổi mới trong tất cả các khâu liên quan đến đầu tư phát triển hạ tầng như cấp vốn, vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế có thể tiếp cận với nguồn lực đầu tư; thứ hai là quy định rõ trách nhiệm,quyền hạn của mỗi cán bộ,công chức khi thi hành công vụ; xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ cũng như khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ công chức; Nghiêm túc thực hiện triệt để chế độ một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Sở thương mại Hà Nội bắt đầu áp dụng cơ chế một cửa từ 1/1/2004 đến 30/6/2006 đã giải quyết được 3772 thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian hơn so với trước đây là 3 đến 5 ngày, năm 2004 đã thụ lý, giải quyết và cấp trên 1.650 giấy phép các loại(giấy phép kinh doanh rượu, thuốc lá, đủ điều kiện kinh doanh gas, đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu; cấp kế hoạch nhập khẩu cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài theo uỷ quyền của Bộ thương mại; Giấy phép tổ chức hội chợ, triển lãm, khuyến mại; Giấy phép thành lập văn phòng đại diện nước ngoài tại Hà Nội…) Tuy đã có nhiều thành quả trong việc thực hiện cơ chế một cửa nhưng thủ tục vẫn còn rườm rà, tốc độ còn chậm; Văn bản hướng dẫn còn chồng chéo nhau, thiếu tính cụ thể gây nên sự khó khăn trong công tác thực hiện; Việc xử lý sai phạm đối với cán bộ công chức trong quá trình thi hành công vụ chưa được nghiêm túc và chưa có các cơ chế rang buộc trách nhiệm.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà Nước, ngành Thương mại Hà Nội đã tách chức năng quản lý kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước của ngành; phân định rõ chức năng quản lý Nhà Nước của ngành thương mại, tách hoạt động quản lý doanh nghiệp ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của Sở thương mại. Do vậy, Sở thương mại Hà Nội chủ yếu làm công tác tham mưu giúp UBND thành phố Hà Nội, Bộ thương mại thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà Nước về thương mại cũng như cung cấp các dịch vụ công. Ngoài ra, Sở thương mại còn làm chức năng kiểm tra, giám sát thị trường, chống gian lận thương mại trên địa bàn Thành phố Hà Nội, và đơn vị trực thuộc trực tiếp triển khai là Chi cục quản lý thị trường Hà Nội .
Ngành thương mại Hà Nội cũng đã nghiên cứu , rà soát, loại bỏ các giấy phép con không cần thiết, giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính. Chuẩn hoá các quy trình giải quyết các thủ tục hành chính, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9001:2000 vào giải quyết các thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và chất lượng các chính sách phù hợp voái tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Việc triển khai đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả cũng như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà Nước còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Về tổng thể thì các doanh nghiệp Nhà Nước quy mô còn nhỏ, chỉ một số ít hoạt động có hiệu quả và công tác cổ phần hoá doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Các doanh nghiệp quốc doanh tuy tốc độ tăng trưởng cũng tương đối cao nhưng quy mô nhỏ, tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực này đã không tăng mà lại còn giảm từ 27,8% năm 1990 xướng còn 21,7% năm 2004. Khu vực đầu tư nước ngoài tuy đã có những bước chuyển mình lớn lao nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thời kỳ tăng trưởng và phát triển như vũ bão hiện nay, Hà Nội chưa có sản xuất hàng xuất khẩu máy móc mà chủ yếu là gia công, lắp ráp cho nước ngoài là chính nên giá tri gia tăng vẫn còn thấp.
2.3. Bài học kinh nghiệm về phát triển thương mại và quản lý Nhà Nước về thương mại giai đoan 1996-2006.
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được
Mỗi sự thành công hay thất bại của bất cử công cuộc đổi mới và phát triển nào cũng có sự đóng góp của các cơ hội và thách thức của mội trường bên ngoài kết hợp với điểm mạnh và điểm yếu của bản than chủ thể đó tạo nên kết quả. Do đó, khi phân tích nguyên nhân thành công của thương mại Hà Nội giai đoạn vừa qua phải phân tích toàn diện trên cả hai yếu tố đó là yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong mà cụ thể ở đây là cơ hội của môi trường quốc tế tạo ra kết hợp với điểm mạnh của Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong giai đoạn vừa qua.
2.3.1.1. Nguyên nhân bên ngoài:
Do quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng.
Thực là quá trình toàn cầu hoá cũng như hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra trên khắp thế giới, Việt Nam cũng vậy và Hà Nội là địa phương tiêu biểu của cả nước chịu sự ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá. Tuy hội nhập mang lại cho Việt nam cũng như Hà Nội không ít thách thức nhưng mở ra cho Hà Nội cũng vô vàn cơ hội với nhiều lợi ích to lớn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhưng điều kiện tiên quyết để thành công trong việc tận dụng cơ hội đó chính là một Nhà Nước đủ năng lực quản lý. Đặc biệt, từ ngày 7/11/2006 khi Việt Nam gia nhập WTO thì cơ hội tăng trưởng nhanh đã mở ra đối với thương mại Hà Nội, sự tham gia với ít điều kiện rang buộc của Việt nam vào hệ thống thương mại thế giới sẽ tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng, có tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, thêm vào đó Chính phủ còn có thể nâng cao việc tập trung các nguồn lực vào phát triển kinh tế và sản sinh ra vừa là động lực vừa là áp lực cho đổi mới quản lý Nhà Nước về thương mại của thủ đô Hà Nội.
Do sự phát triển như vũ bảo của cách mạng khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ mà cụ thể như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,… đã đưa con người bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thời đại thông tin và kỷ thuật số, kỷ nguyên của nền kinh tế trin thức; cạnh tranh không chỉ dựa trên những lý thuyết về tài nguyên và chi phí lao động như học thuyết về lợi thế so sánh tương đối và tuyệt đối của David Ricardo mà chủ yếu cạnh tranh bằng hàm lượng tri thức và chất xám có trong mỗi sản phẩm. Theo Michael Porter (1990a và 1990b) cho rằng sự gia tăng mức sống và sự thịnh vượng của quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào khả năng đổi mới, khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu ứng lan truyền công nghệ của nền kinh tế cũng như đề cao vai trò của Chính Phủ và doanh nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành và rộng hơn là nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Theo mô hình Kim Cương thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc khả năng cạnh tranh của các ngành trong nền kinh tế. Thêm vào đó sự đóng góp của công nghệ thông tin và sự ra đời của Internet đã làm biến đổi sâu sắc vai trò của công nghệ của quy trình quản lý Nhà Nước, Internet đã sinh ra thương mại điện tử, một ngành thương mại mới đầy triển vọng giúp con người có thể tiến hành các hoạt động thương mại qua Internat, tiết kiệm rất nhiều chi phí cho quá trình lưu thông và cũng là một bước biến đổi so với hoạt động thương mại truyền thống; Internet lại sinh ra Chính Phủ điện tử quản lý Nhà Nước thông qua mạng Internet nâng cao khả năng cũng như hiệu quả của quản lý Nhà Nước.
Ngoài hai nguyên nhân chính tác động sâu sắc và toàn diện này thì còn phải kể đến một số yếu tố khác như tình hình ổn định về Chính trị của Việt Nam tạo nên một môi trường đầu tư an toàn, sự nâng cao uy tín của Việt nam trên trương quốc tế…
2.3.1.2. Nguyên nhân bên trong.
Đường lối và chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà Nước và sự thực hiện cương quyết của UBND Thành Phố Hà Nội
Tất cả những thành tựu đã đạt được trước hết phải bắt nguồn từ những đổi mới về tư duy và nhận thức của Đảng và Nhà Nước, do đó đã đề ra được những đường lối chủ trương đúng đắn, bên cạnh đó lại kết hợp với sự cương quyết thực hiện của UBND Thành Phố Hà Nội và Sở thương mại Hà Nội. Hơn nữa, Hà Nội lại nhận được sự quan tâm ưu ái của Đảng và Nhà Nước đối với sự phát triển kinh tế, cụ thể đó là Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15/12/2000 về phương hướng phát triển thủ đô giai đoạn 2001 – 2010, Pháp lệnh thủ đô Hà Nội và quyết tâm đổi mới của lãnh đạo Thành phố Hà Nội nhằm đạt các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, xác định thương mại là một phần quan trọng trong cơ cấu GDP của Thành phố nên đổi mới quản lý Nhà Nước là một công việc cần thiết, tất yếu trước sự đòi hỏi của yếu tố khách quan.
Hà Nội thực sự có nhiều lợi thế hơn các địa phương khác trong cả nước
Thứ nhất, Hà Nội có nhiều lợi thế về khả năng cung ứng hàng hoá
Hà Nội là thủ đô của cả nước, là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước nên cũng là trung tâm giáo dục- đào tạo của cả nước, là cái nôi của nước nhà về cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao. Thực tế tại Hà Nội có đến 50 trường đại học, trên 230 viện, Trung tâm nghiên cứu khoa học chuyên ngành do các Bộ, Ngành thành lập. Chính điều đó đã giúp Hà Nội trở thành nơi tập trung nguồn nhân lực với trình độ cao dồi dào, đủ sức đáp ứng nhu cầu đào tạo và phát triển của Hà Nội.
Hà Nội là trung tâm văn hoá của cả nước, là nơi đặt đại sứ quán của nhiều nước và tập trung của các cơ quan ngoại giao của nước ngoài nên sẽ là nơi thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, Hà Nội lại có lợi thế về giảm chi phí dịch vụ trong xuất khẩu, nắm bắt nhanh chóng các thông tin đầu vào sản xuất, có lợi thế về cơ cấu hơn các địa phương khác về quy mô thị trường nội địa, cơ sở hạ tầng kinh tế, khả năng tiếp cận thông tin.
Hà Nội lại có lợi thế trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào phát triển kinh tế, đẩy mạnh các sản phẩm có hàm lượng chất xám và các ngành công nghiệp chế biến.
Thứ hai, Hà Nội có nhiều lợi thế về phía cầu hàng hoá
Quy mô thị trường nội địa Hà Nội có thể vẫn nhỏ so với tổng giá trị hàng hoá sản xuất ra nhưng đã rất lớn so với các địa phương khác, để phát triển có hiệu quả thì Hà Nội đã đẩy mạnh xuất khẩu kéo theo sự phát triển của dịch vụ; thêm vào đó, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội là khá cao do đó cầu thị trường cũng như nhu cầu tiêu dùng cũng ngày càng tăng.
Dân số Việt Nam tương đối trẻ và sức tiêu dùng lớn; thực tế tốc độ tăng giá trong những năm vừa qua cũng phần nào cho thấy sức mua hàng hoá đã tăng nhanh chóng cũng như sự ra đời một dãy tập đoàn và siêu thị bán lẻ lớn ra đời như BIG C, METRO,PARSON, Nguyễn Kim … chứng tỏ thị trường bán lẻ Hà Nội đầy sức hấp dẫn và nhiều tiềm năng.
Kinh tế ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các hộ kinh doanh cá thể đang là điểm sáng trong phát triển thương mại Hà Nội trong thời gian qua lại có rất nhiều khả năng đóng vai trò rất lớn trong tương lai không xa.
2.3.2. Những tồn tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về thương mại của Thủ đô Hà Nội.
Về xây dựng và triển khai quy hoạch
Công tác triển khai quy hoạch thương mại còn yếu cả về nhận thức cũng như thực thi, công tác quy hoạch và triển khai không đồng bộ và nhất quán. Quy hoạch thương mại chưa được quan tâm đúng mức và xứng với tầm quan trọng của nó, dễ bị điều chỉnh gây nên sự bị động cho nhà quản lý. Mặt khác, quy hoạch chưa được xem là văn bản pháp quy nên tính pháp lý không cao, dẫn đến quản lý sau quy hoạch gặp rất nhiều khó khăn; hơn nữa trong khi nền kinh tế thị trường thay đổi từng ngày thị có nhiều quy hoạch không còn phù hợp nhưng không được điều chỉnh kịp thời nên quy hoạch chưa trở thành công cụ hay giải pháp hữư hiệu cho quản lý Nhà Nước.
Quy hoạch phát triển thương mại chưa được thực hiện thống nhất, Sở Thương mại Hà Nội chưa thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, chưa có bộ phận chuyên môn theo dõi việc thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quy hoạch chưa được phân công rõ ràng và rộng rãi đến các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nên thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và các địa phương lân cận trong việc xây dựng kế hoạch do đó chưa có sự thống nhất giữa quy hoạch thương mại Hà Nội với các tỉnh/thành phố lận cận để tạo nên liên kết và hiệu ứng vùng cũng như không pphát huy hiệu quả của công trình thương mại
Thành phố chưa có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển thương mại theo quy hoạch trên địa bàn, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về sử dụng đất, tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, thuế, áp dụng công nghệ…cho các doanh nghiệp thương mại; chưa có chính sách thu hút đầu tư vào phát triển thương mại hiện đại.
Công tác điều tra thông tin phực vụ cho việc quản lý quy hoạch chưa được thực hiện có hiệu quả, công tác dự báo liên ngành, liên vùng chưa được tổ chức; Các biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch chưa được xây dựng.
Quy hoạch Hà Nội quá chú trọng đến xuất khẩu trong khi thương mại nội địa lại không được quan tâm đúng mức.Thực tế, thị trường nội địa còn tự phát, thiếu sự bền vững, có sự chênh lệch không nhỏ giữa thương mại nội thành và ngoại thành; Sản phẩm hang hoá dịch vụ của Hà Nội chưa được quảng bá rộng rãi, chưa khẳng định được thương hiệu và chất lượng với người tiêu dung trong nước.
Về công tác xây dựng thể chế - tổ chức bộ máy – công tác cán bộ
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được xây dựng hoàn thiện nên vẫn còn thiếu tính đồng bộ và hệ thống, do đó gây nên sự lung túng và khó khăn trong việc hoạt động dưới khung pháp lý đó. Thêm vào đó, tốc độ đổi mới và xây dựng thể chế thị trường của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc triển khai, sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm trong khi các doanh nghiệp tư nhân lại nhỏ lẻ và yếu sức cạnh tranh. Kết cấu hạ tầng thương mại Hà Nội còn yếu, thiếu tính liên kết và sự chặt chẽ, chính vì thế nên khi Việt nam gia nhập WTO thì các doanh nghiệp Hà Nội không đủ lớn mạnh cũng như năng lực để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài; Đây là một vấn đề rất đáng lo ngại.
Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa được xây dựng đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm túc, cải cách thủ tục hành chính diễn ra chậm và không có hiệu quả cao nên chưa tạo ra được một hành lang pháp lý an toàn, môi trường đầu tư lành mạnh và minh bạch cho các doanh nghiệp nước ngoài, chính vì thế đầu tư nước ngoài vẫn còn hạn chế trong khi hoạt động của các doanh nghiệp trong nước nhỏ cả về quy mô và năng lực cạnh tranh.
Năng lực quản lý Nhà Nước thực sự yếu và vẫn còn thụ động trước thị trường; Hệ thống thể chế thị trường vẫn còn thiếu và yếu, các thủ tục hành chính gây nhiều phiền toái cho các tổ chức, doanh nghiệp trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, tư duy quản lý vẫn còn nhiều lạc hậu, trì trệ, chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế cũ. Quản lý Nhà nước vế thương mại trong nhiều lĩnh vực còn bị buông lỏng như quản lý chợ, quản lý các dịch vụ như văn hoá phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm…Công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại vẫn còn nhiều kẻ hở cũng như thiếu sự phối kết hợp với các cơ quan chức năng khác như công an và cục quản lý thị trường.
Việc thực hiện cơ chế, chính sách, hướng dẫn và quản lý Nhà Nước về thương mại vẫn còn rất nhiều hạn chế, chưa theo kịp tốc độ phát triển. Khung pháp lý cho hoạt động phân phối, bán lẻ chưa được quy định và định hướng rõ rang, gây khó khăn cho các nhà quản lý cũng như công tác quản lý. Trong đó có một số vắn đề như tổ chức và quản lý một số mặt hang quan trọng và đặc thù, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết quá trình lưu thông hang hoá trong nước gắn với mở cửa thông thương với nước ngoài và thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào phát triển hệ thống phân phối hiện đại, kiểm soát chất lượng hang hoá, bảo vệ lợi ích người tiêu dung. Ở thương mại nội địa thì một số ngành dịch vụ như Internet - viễn thông, điện lực vẫn còn là độc quyền của một vài tổng công ty lớn của Nhà Nước, đương nhiên khi có độc quyền thì bao giờ giá cũng cao hơn chi phí cận biên và kết quả là độc quyền Nhà Nuớc sẽ cung cấp cho khách hang dịch vụ với chi phí phi hiệu quả, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của quốc gia trên thị trường quốc tế.
Công tác tổ chức thị trường nội địa chưa được chú trọng chỉ đạo tập trung và quyết liệt. Năng lực quản lý và định hướng cho các doanh nghiệp của các ngành thương mại chưa theo kịp yêu cầu mới trong giai đoạn mới, vẫn còn mang tính tự phát và quản lý Nhà Nước đối với thị trường mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng còn không ít khiếm khuyết. Cụ thể đó là dự báo cung - cầu, giá cả chưa đáp ứng được yêu cầu của chỉ đạo điều hành vĩ mô, chậm triển khai các biện pháp bình ổn thị trường, giá cả thị trường, môi trường kinh doanh chưa thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, giữa doanh nghiệp Nhà Nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, kỷ cương pháp luật và trật tự thị trường vẫn bị vi phạm trầm trọng, nạn buôn lậu, gian lận thương mại và kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng không đúng chất lượng đang trở thành mối đe doạ cho nhười tiêu dùng, gây tổn thất cho Nhà Nước và các doanh nghiệp kinh doanh.
Công tác kiểm tra, kiểm soát thực hiện công vụ, chính sách giữa các ngành thương mại với các ngành hữu quan còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất và chặt chẽ.Hoạt động kiểm tra, kiểm soát và quản lý thị trường Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay: tình trạng buôn lậu, hang giả, hang nhái, hang kém chất lượng không giảm, đặc biệt là vi phạm về đăng ký kinh doanh, không chấp hành quy định Nhà Nước về quy chế ghi nhãn mác, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế vẫn đang là mối bức xúc lớn. Công tác tuyên truyền, phố biến, hướng dẫn chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện chưa được chú trọng, chưa áp dụng các chế tài đủ mạnh để kiểm soát thị trường, chưa phối kết hợp giữa các lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường của các Sở, ngành Thành phố và của Trung ương trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Về công tác tổ chức bộ máy, cán bộ:
Công tác tổ chức bộ máy đối với quản lý Nhà Nước về thương mại tuy đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn không tránh khỏi những tồn tại, chưa khắc phục được tình trạng chồng chéo, giảm đầu mối trung gian.Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, việc tinh giảm biên chế thực hiện chưa tốt và chưa gắn với các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sắp xếp lại bộ máy. Cải cách hành chính ở đây phải chú trọng đến hiệu suất và hiệu quả tổng hợp, không chỉ nhằm mục tiêu cục bộ, đơn nhất. Cải cách hành chính không chỉ là tinh giảm bộ máy mà còn phải tìm ra căn nguyên và môi trường hành chính khiến cho bộ máy hành chính không ngừng phình to ra là điều còn quan trọng hơn. Nếu cải cách hành chính không thực hiện đồng bộ, không đổi mới chức năng, bộ máy, nhân sự, tăng cường xây dựng pháp chế một cách tương ứng để vận hành bộ máy thì thành công của cải cách hành chính chưa thực sự đảm bảo.
Công tác đào tạo cán bộ công chức không tuân theo quy hoạch, chưa gắn với yêu cầu sử dụng lao động, chất lượng chưa cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức , phát triển nguồn nhân lực là nội dung quan trọng nhất trong công cuộc cải cách hành chính, là mấu chốt cho việc đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính nói chung và cải cách tổ chức bộ máy nói riêng. Cải cách hành chính sẽ không có hiệu quả nếu không có những cán bộ có năng lực, trình độ thực hiện.
Tuy vậy, trình độ nguồn nhân lực còn yếu, khả năng am hiểu pháp luật và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào kinh doanh thương mại còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước dư thừa lao động hoặc năng suất lao động kém làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc thực hiện chính sách cán bộ còn bị động, chưa nghiên cứu và ban hành kịp thời những văn bản hướng dẫn nhằm phát hiện, khuyến khích , động viên các cán bộ có đức, có tài đồng thời xử lý nghiêm minh những người mắc sai phạm. Một số khâu trong công tác cán bộ còn yếu: công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ, công tác quản lý, công tác kiểm tra và công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức.
Về cải cách thủ tục hành chính:
Cải cách thể chế hành chính, thủ tục hành chính tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn rườm rà, chậm đổi mới dẫn đến hiệu quả trong quản lý Nhà Nước về thương mại còn hạn chế, nhiều văn bản hướng dẫn còn thiếu cụ thể, còn hạn chế trong công tác tuyên truyền và phổ biến. Bộ máy quản lý Nhà Nước về thương mại của Hà Nội vẫn còn nhiều thụ động, nguyên nhân chủ yếu có lẽ do cơ chế phối hợp chưa thống nhất, các cơ quan quản lý Nhà Nước về thương mại chưa được trang bị thích hợp các công cụ, phương tiện quản lý phù hợp với sự phát triển của thương mại trong quá trình hội nhập, chưa xây dựng được các phương pháp dự báo chính xác và khoa học.
2.3.3. Một số bài học kinh nghiệm trong quản lý Nhà Nước đối với sự phát triển thương mại của thủ đô Hà Nội
Thông qua thực trạng phát triển thương mại và quản lý Nhà Nước về thương mại của thủ đô Hà Nội trong những năm vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng thì quản lý Nhà Nước nắm một vai trò rất quan trọng, quyết định đường lối, chính sách, chủ trương và cách thức triển khai thực hiện các chính sách đó. Đối với Hà Nội thì luận điểm này càng thể hiện rõ vì đây là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước, nơi tập trung tất cả các cơ quan đầu não của một đất nước và là bộ mặt của cả dân tộc.
Đường lối phát triển đúng đắn có thể đưa Hà Nội đến với những thành công ngoạn mục chính là phát triển một số ngành có lợi thế trong nước và hướng mũi nhọn ra xuất khẩu. Quan trọng đó chính là xác định những nhóm ngành hang mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh vì thực tế hiện nay tỷ trọng thương mại Việt Nam quá bé nhỏ trên thị trường thế giới, các mặt hang xuất kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20146.doc