MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP 3
I. Khái niệm đất nông nghiệp 3
II. Vai trò và đặc điểm của đất nông nghiệp 4
1. Vai trò của đất nông nghiệp 4
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế 4
Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp đất đai cho các ngành kinh tế khác 4
1.3. Đất nông nghiệp là yếu tố quyết định bảo vệ môi trường sinh thái 5
2. Đặc điểm đất nông nghiệp 6
Đặc tính hai mặt: không thể sản sinh và có khả năng tái tạo 6
Tính sở hữu và sử dụng 7
Tính đa dạng và phong phú 7
3. Phân loại đất nông nghiệp 8
4. Phân bố đất nông nghiệp 9
III. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12
1. Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12
2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 14
IV. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 15
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông
nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 17
2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 18
3. Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 20
4. Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp 23
5. Công tác đăng ký và cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất
nông nghiệp; thống kê, kiểm kê đất đai 27
6. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giả
quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 31
V. Các nhân tố ảnh hưởng 33
1. Điều kiện tự nhiên 33
2. Điều kiện kinh tế - xã hội 34
3. Khoa học công nghệ 35
4. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai 37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI 40
I. Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội .40
1. Điều kiện tự nhiên 40
2. Điều kiện kinh tế - xã hội 42
3. Đánh giá thuận lợi và khó khăn đối với quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 50
II. Hiện trạng sử dụng đất và biến động đất nông nghiệp huyện Thanh Trì 51
1. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Thanh Trì 52
2. Biến động đất nông nghiệp 56
III. Hiện trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 57
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 57
2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 60
Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp 60
Lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 61
3. Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 63
4. Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp 68
Công tác giao đất, cho thuê đất nông nghiệp 68
Thu hồi đất nông nghiệp 69
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 70
5. Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp; thống kê,
kiểm kê đất đai 72
5.1. Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp 72
5.2. Thống kê, kiểm kê đất đai 75
6. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giải
quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 77
IV. Đánh giá thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội. 81
1. Kết quả đạt được 81
2. Tồn tại 83
3. Nguyên nhân 85
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI. 88
I. Phương hướng, mục tiêu quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 88
II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 89
1. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường phối hợp giữa
các cơ quan liên quan. 89
2. Bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý
đất đai. 91
3. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, nhanh
chóng điều chỉnh quy hoạch không gian toàn huyện. 92
4. Tăng cường hiệu lực pháp luật, có chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất
đai nghiêm khắc, triệt để. 93
5. Tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chủ trương, chính sách về đất
đai của huyện đến người dân. 94
6. Đầu tư kinh phí phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên
địa bàn huyện Thanh Trì. 95
7. Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý Nhà nước
về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện. 96
III. Kiến nghị, đề xuất 96
Kết luận 98
Tài liệu tham khảo 100
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3465 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có trình độ kỹ thuật.
Như vậy, đối với huyện Thanh Trì vấn đề dân số và lao động còn khá nhiều bất cập gây trở ngại cho quá trình phát triển của huyện. Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang phát triển, địa phương đang thay đổi từng ngày đòi hỏi một lực lượng lao động không phải là nhỏ nhưng phải có chất lượng trong khi đó lao động qua đào tạo của huyện Thanh Trì lại chiếm tỷ lệ nhỏ không đáp ứng được nhu cầu. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp trên địa bàn huyện phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh mà lao động của địa phương lại thất nghiệp. Bởi vậy, vấn đề giải quyết việc làm là nhiệm vụ nặng nề của các nhà quản lý trước mắt là nâng cao trình độ, tay nghề cho lực lượng lao động.
Văn hóa.
Huyện Thanh Trì nằm trên địa bàn Hà Nội - trái tim của cả nước, một mảnh đất chứa đựng trong mình lịch sử ngàn đời với nền văn hiến in dấu vào từng góc phố, từng con đường nên huyện cũng là một bộ phận của nền văn hóa ấy. Trên địa bàn huyện có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Tiêu biểu nhất là cụm di tích lịch sử Ngọc Hồi – Đống Đa, ở đây hàng năm vẫn diễn ra lễ hội vào ngày mồng 5 tháng Giêng thu hút đông đảo khách thập phương. Ngoài ra còn có những di tích lịch sử văn hóa gắn với tên tuổi của các danh nhân như: Chu Văn An, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Như Đổ… và một số công trình tôn giáo, chùa chiền với kiến trúc độc đáo. Đây cũng là mảnh đất có truyền thống văn hóa dân tộc lâu đời với những phong tục tập quán, các lễ hội dân gian được lưu truyền. Các xã trong huyện hàng năm đều tổ chức các lễ hội truyền thống để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Những hoạt động văn hóa khác như múa rồng, múa Bồng cũng là một nét văn hóa đặc sắc của huyện.
Bên cạnh những công trình kiến trúc, những lễ hội dân gian, huyện Thanh Trì cũng đã đầu tư xây dựng những dự án du lịch mới như du lịch sinh thái. Đây là vùng đất trũng có nhiều sông, hồ, đầm tự nhiên, đất đai màu mỡ và có cảnh quan đẹp nên rất phù hợp để mở rộng mô hình du lịch sinh thái một mặt bảo vệ môi trường một mặt tạo thu nhập nâng cao đời sống nhân dân.
2.3. Điều kiện cơ sở hạ tầng.
Trong những năm gần đây, đáp ứng nhu cầu phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện đã có nhiều biến đổi tích cực.
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện rất đa dạng bao gồm cả đường bộ,
đường sắt và đường thủy với các tuyến đường chính sau:
Đường quốc lộ 1A dài 8 km.
Đường quốc lộ 1B
Đường 70A (Văn Điển – Thị xã Hà Đông) dài 9 km
Đường 70B (Ngọc Hồi – Đông Mỹ) dài 7 km
Đường đê sông Hồng dài 10 km
Ngoài ra còn có hệ thống đường liên xã, thị trấn, liên thôn đã được bê tông hóa, nhựa hóa thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân.
Năm 2003 Chính phủ có quyết định chia tách huyện Thanh Trì nên mạng lưới giao thông đường bộ của huyện có nhiều thay đổi. Nhiều con đường mới được xây dựng. Tuy nhiên hệ thống đường giao thông trên toàn huyện chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập và xảy ra tình trạng chậm tiến độ thi công, chất lượng công trình kém nhiều đoạn đường bị lún, nhiều ổ gà phải sửa chữa nhiều lần vừa tốn kém vừa mất mỹ quan. Các tuyến đường liên xã, liên thôn nói chung còn nhỏ, hẹp, mặt đường xấu gây khó khăn cho đi lại, cho lao động sản xuất nhất là vào mùa mưa và mùa vụ.
Đường sắt đi qua huyện Thanh Trì có tuyến Bắc – Nam, đường vành đai chạy theo hướng đông – tây và có ga Văn Điển. Còn đường thủy là tuyến sông Hồng vận tải hàng hóa và khách du lịch đi tuor du lịch sông Hồng.
Tóm lại, mạng lưới giao thông của huyện Thanh Trì đa dạng, góp phần quan trọng vào thúc đẩy kinh tế phát triển tuy nhiên chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa.
Về hệ thống cấp thoát nước: 100% các xã, thị trấn đã được sử dụng nước sạch. Huyện có hai hệ thống cấp nước sạch là hệ thống nước máy và nước giếng khoan có xử lý. Hiện huyện Thanh Trì có 1 nhà máy nước sạch Văn Điển với công suất 5000 m3/ngày đêm và có 30 trạm cấp nước sạch với công suất 27.800m3/ngày đêm.
Hệ thống thoát nước của huyện bao gồm các con sông chảy qua địa bàn: Sông Tô Lịch dài 4 km, sông Om dài 7 km, sông Hòa Bình dài 7 km, 2 kênh tiêu và hệ thống cống rãnh thoát nước ở 100% các thôn xóm, cơ quan, xí nghiệp.
Về hệ thống thông tin liên lạc: Huyện có 2 tổng đài điều khiển (Tổng đài Cầu Bươu 1300 số, tổng đài Ngọc Hồi 1300 số), 100% số xã, cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện và nhiều hộ gia đình đã có điện thoại. Mạng lưới thông tin liên lạc có hệ thống truyền dẫn ngầm, được xây dựng khá hiện đại.
Về hệ thống thủy lợi: Trong nhiều năm qua huyện đã đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các trạm bơm, hệ thống kênh mương phục vụ nhu cầu tưới tiêu đồng ruộng đáp ứng việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi.
Về cơ sở hạ tầng xã hội: Trên địa bàn huyện có những bệnh viện thuộc tuyến Trung ương như bệnh viện 103, bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện Nông nghiệp I, Viện Bỏng quốc gia có trang thiết bị hiện đại. Huyện còn có bệnh viện đa khoa với 150 giường bệnh và 100% số xã, thị trấn có trạm y tế. Hệ thống cơ sở y tế của huyện khá đầy đủ và hiện tại đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong huyện và nhân dân các vùng lân cận.
Các công trình phục vụ văn hóa thể thao cũng đã có như: trung tâm văn hóa thể thao, sân vận động nhưng khai thác chưa hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu thể dục thể thao, vui chơi của nhân dân huyện đã đầu tư xây dựng khu văn hóa Ngọc Hồi.
2.4. Điều kiện kinh tế.
Huyện Thanh Trì là một vùng ven đô đang có những bước phát triển vượt bậc, trong giai đoạn 2001-2005 năm tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm trên địa bàn huyện đạt 5,26% trong đó cao nhất là ngành dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,84%, công nghiệp và xây dựng đạt 9,27% và thấp nhất là nông nghiệp chỉ đạt 2,56%. Riêng đối với các ngành kinh tế do huyện quản lý có tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao đạt 12,24%.
Biểu 3: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ
GIAI ĐOẠN 2001-2005
Đơn vị : Tỷ đồng
STT
Ngành
2001
2002
2003
2004
2005
Tốc độ tăng trưởng bình quân năm(%)
Tổng giá trị sản xuất
1.371
1.422
1.441
1.362
1.683
5,26
1
Công nghiệp và xây dựng
1.176
1.225
1.236
1,140
1,451
5,39
2
Dịch vụ
82
81
87
100
107
6,84
3
Nông nghiệp
113
116
118
122
125
2,56
Nguồn: Số liệu thống kê huyện Thanh Trì
Qua số liệu bảng trên, nhận thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2001-2005 của huyện thấp, nói chung các ngành tăng trưởng chậm chẳng hạn nông nghiệp sau 5 năm chỉ tăng lên 12 tỷ đồng - một con số không đáng kể đối với một huyện nằm bên một trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị lớn của cả nước. Nguyên nhân cơ bản là do sự chia tách về địa giới hành chính, phần lớn khu vực tâm trung phát triển các hoạt động kinh tế xã hội nhất là khu vực được Nhà nước đấu tư như các khu đô thị mới, khu công nghiệp vừa và nhỏ Vĩnh Tuy chuyển sang quận Hoàng Mai. Vì vậy, các lĩnh vực kinh tế do Trung ương và thành phố quản lý ở huyện Thanh Trì chiếm tỷ trọng nhỏ, tốc độ tăng trưởng thấp kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế chung địa bàn thấp.
Trong xu thế phát triển toàn diện của Thủ đô, huyện Thanh Trì cũng đang có những bước đi vững chắc trên con đường đổi mới. Về cơ cấu kinh tế của huyện, từ năm 2001 đến năm 2005 cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ, kết quả đạt được không những đạt chỉ tiêu đặt ra mà còn vượt qua mục tiêu của quy hoạch tới năm 2010. Sự chuyển dịch theo chiều hướng chuyển từ cơ cấu Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ sang Công nghiệp – Dịch vụ - Nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch phù hợp với quy luật phát triển khi quá trình đô thị hóa đang mở rộng trên quy mô lớn. Cũng do tỷ trọng các ngành kinh tế do Trung ương và Thành phố quản lý trên địa bàn huyện còn lại ít nên sự cơ cấu kinh tế của các lĩnh vực do huyện quản lý có sự chuyển dịch nhanh. Sự chuyển dịch cơ cấu đó thể hiện rõ trong số liệu thống kê ở bảng sau:
Biểu 4: CƠ CẤU CÁC NGÀNH KINH TẾ DO HUYỆN QUẢN LÝ
(Theo giá hiện hành) Đơn vị: %
STT
Ngành
2001
2002
2003
2004
2005
1
Công nghiệp và xây dựng
45,6
49,8
53,8
56,4
58,1
2
Thương mại – Dịch vụ
15,6
15,6
15,9
17,0
17,5
3
Nông nghiệp
38,8
34,7
30,3
26,7
24,4
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Phòng Thống kê huyện Thanh Trì
Nhận thấy trong cơ cấu ngành, công nghiệp và xây dựng tỷ lệ lớn nhất chiếm tới trên 50%, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần đến năm 2005 chỉ còn 24,4% còn ngành thương mại và dịch vụ có xu hướng tăng nhưng tăng nhẹ, tăng chậm chưa có tính đột phá. Tuy nhiên đó cũng là một sự chuyển dịch theo hướng tích cực, đã có sự thay đổi căn bản từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu trong những năm trước năm 2000 chuyển sang cơ cấu công nghiệp.
Giai đoạn 2001 – 2005 là thời kỳ huyện đầu tư mạnh vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện chớp thời cơ phát triển, hòa chung xu thế hội nhập của cả nước cũng như của Thành phố khi bước vào thế kỷ XXI. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ năm 2005 đạt tới 1451 tỷ đồng trong đó chủ yếu là giá trị của công nghiệp do Trung ương và Thành phố quản lý chiếm 91% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình quân của khu vực này chậm chỉ đạt 2,9% còn tốc độ của khu vực do huyện quản lý đạt tới 20,6% năm trong giai đoạn 2001 – 2005. Trên địa bàn huyện có các khu công nghiệp thuộc quyền quản lý của Trung ương và Thành phố là: Khu công nghiệp Văn Điển – Pháp Vân, khu công nghiệp Cầu Bươu. Hai khu công nghiệp này tập trung vào các ngành cơ khí, hóa chất, chế biến lâm sản và sản xuất ra giá trị lớn đóng góp vào GDP của huyện và giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động.
Ở huyện Thanh Trì có truyền thống văn hóa lâu đời, tiểu thủ công nghiệp khá phát triển. Ở đây có nhiều làng nghề như: mây tre đan Vạn Phúc, bánh cuốn Thanh Trì, dệt Tân Triều…các làng nghề này tạo ra được việc làm cho nhân dân địa phương nhất là trong thời kỳ nông nhàn và còn tạo ra thu nhập góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay một số làng nghề đã bị mai một, huyện đang có một số dự án khôi phục làng nghề thủ công một là tạo việc làm, thu nhập cho nhân dân, hai là giữ gìn nét đẹp truyền thống của quê hương.
Như chúng ta đã biết, Thanh Trì là một huyện ngoại thành Hà Nội đang đứng trước những vận hội mới và những thách thức mới. Sự phát triển nhanh trong thời gian qua của huyện đã chứng tỏ địa phương đã tận dụng thời cơ đẩy mạnh phát triển mọi lĩnh vực trên địa bàn. Đó cũng là lý do khiến ngành thương mại – dịch vụ ngày càng có vị trí quan trọng và có tỷ lệ đóng góp vào GDP của huyện ngày càng lớn. Giá trị sản xuất của ngành này liên tục tăng lên. Năm 2001 giá trị sản xuất ngành thương mại dịch vụ là 90 tỷ đồng chiếm 4,4% trong cơ cấu giá trị sản xuất trên địa bàn đến năm 2005 những con số này là 141 tỷ đồng và 6,2%.
Như vậy trong những năm qua ngành thương mại – dịch vụ trên địa bàn huyện đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tốc độ tăng bình quân của ngành trên địa bàn là 6,84%/năm riêng trong khu vực do huyện quản lý tốc độ tăng trưởng khá nhanh đạt 18,6%/năm. Tuy nhiên, trong cơ cấu các ngành sản xuất của huyện Thanh Trì thì ngành này chiếm tỷ lệ nhỏ. Ngành này đang có xu hướng phát triển nhanh giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân và ngân sách của Nhà nước.
Quá trình đô thị hóa của một vùng ven đô kéo theo sự thay đổi nhanh chóng cuả ngành nông nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, tăng diện tích đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phục vụ dân sinh nên diện tích đất nông nghiệp của huyện đã giảm đi rõ rệt nhất là trong những năm gần đây (Từ năm 2001 đến năm 2005 giảm đi 251 ha). Đứng trước tình hình mới, huyện đã có những chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây, con, tiến hành dự án cánh đồng 50 triệu. Vì thế, giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tăng từ 40,7 triệu đồng/ha/năm (2000) lên 55 triệu đồng/ha/năm (2005).
Về giá trị tuyệt đối, sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng nhưng tăng chậm còn trong cơ cấu các ngành sản xuất của địa phương tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ và xu hướng giảm nhẹ.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Biểu 5: CƠ CẤU SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Đơn vị: %
Năm
Ngành
2000
2001
2002
2003
2004
Trồng trọt
56
55
53
53
48
Chăn nuôi
33
33
30
30
32
Thủy sản
11
12
16
17
20
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu đang có sự thay đổi theo chiều hướng: tỷ trọng ngành trồng trọt giảm dần, nuôi trồng thủy sản tăng dần. Năm 2000 ngành trồng trọt chiếm tới hơn một nửa trong tổng giá trị ngành nông nghiệp (56%) đến năm 2004 chỉ càn lại 48%. Còn giá trị ngành thủy sản đang có những bước tiến tích cực, tỷ trọng của ngành này tăng nhanh từ 11% năm 2000 lên tới 20% vào năm 2004. Bình quân giai đoạn này tốc độ tăng của ngành thủy sản là 19,7% trong khi đó trồng trọt chỉ tăng 2,2% và chăn nuôi là 0,5%. Đây là sự chuyển biến phù hợp và theo quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong năm năm trở lại đây, ngành nông nghiệp của huyện Thanh Trì đã đạt được những kết quả đáng mừng. Huyện vẫn duy trì được sự tăng trưởng và phát triển của ngành nông nghiệp ở mức độ cần thiết. Đặc biệt, huyện đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu cây trồng, trong nội bộ ngành nông nghiệp tạo điều kiện cho các xã sử dụng triệt để diện tích đất nông nghiệp, cung cấp rau, thịt cho vùng nội đô. Tất cả các xã trong tiểu vùng đều có sự chuyển hướng thích hợp, đúng hướng: chuyển diện tích trồng lúa bấp bênh sang mô hình lúa – cá, lúa – rau; mở rộng ngành chăn nuôi nhất là nuôi trồng thủy sản. Ở hầu hết các xã, mô hình này đều tỏ ra hiệu quả: xã Tân Triều sau khi chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng rau muống, thu nhập tăng gấp 7 – 8 lần, 1 ha rau muống cho thu nhập 78 – 82 triệu đồng/năm...
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của huyện cũng còn một số những tồn tại.
Thứ nhất, huyện chưa tận dụng được tiềm năng là một huyện ngoại thành để sản xuất những hàng hóa cung cấp cho thị trường rộng lớn trong thành phố. Ví dụ như khu trồng rau vùng bãi đã có từ lâu, nông dân có kỹ thuật, đất đai màu mỡ những hệ thống tưới tiêu lại chưa được đầu tư đúng mức nên đem lại hiệu quả chưa cao. Nước sạch để tưới cho rau an toàn vùng nội đồng cũng là một vấn đề hết sức khó khăn do nguồn nước ở đây ô nhiễm rất nặng nề.
Thứ hai là việc chuyển đổi mô hình nuôi trồng thủy sản cũng được triển khai chậm. Mặc dù đã xác định đây là hướng đi đúng nhưng do thiếu vốn đầu tư nên việc khai thác tiềm năng trong lĩnh vực này còn hạn chế.
Thứ ba là việc đầu tư cho mô hình nông nghiệp sinh thái cũng chưa được chú ý. Đây là một tiềm năng dồi dào của vùng có tương lai đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên hình thức này chưa được nhân dân mạnh dạn đầu tư và huyện cũng chưa có những bước đi tích cực để khuyến khích phát triển mô hình này.
Đánh giá thuận lợi và khó khăn đối với quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì.
Đặc điểm, điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế, xã hội như trên đem đến cho huyện Thanh Trì những thuận lợi song cũng còn không ít khó khăn. Chúng ta đã biết những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất nông nghiệp bao gồm điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ. Bởi vậy tình hình điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện có ảnh hưởng sâu sắc tới công tác này.
Thuận lợi lớn nhất của huyện có lẽ là điều kiện tự nhiên. Mặc dù diện tích đất tự nhiên của huyện Thanh Trì bị thu hẹp do điều chỉnh địa giới hành chính của Chính phủ nhưng đây vẫn là địa phương có nhiều tiềm năng về đất đai. Diện tích đất nông nghiệp lớn kết hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thủy văn rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp: nhiều hồ, đầm, ruộng trũng, đất phù sa được bồi đắp hàng năm. Những lợi thế đó đã và đang được Ban lãnh đạo huyện khai thác ngày càng hiệu quả. Ngoài ra, vị trí địa lý của huyện cũng là một lợi thế đáng kể giúp cho việc phát triển thị trường hàng hóa. Là một cùng ven đô lại ở “gã ba đường” nên huyện Thanh Trì vừa có thị trường rộng lớn vừa có điều kiện giao lưu kinh tế nội vùng và liên vùng. Bên cạnh đó, bộ máy quản lý đất đai của huyện rất chặt chẽ, các cấp lãnh đạo luôn tích cực và có tư duy đổi mới. Từ những thuận lợi trên đây cho thấy đây là vùng giàu tiểm năng phát triển nông nghiệp. Vì vậy, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp cũng có điều kiện để phát huy khả năng sáng tạo, tạo tiền đề triển khai đầy đủ các nội dung quản lý.
Tuy nhiên, những thuận lợi đó đi đôi với khó khăn cho công tác quản lý đất nông nghiệp.
Khó khăn đầu tiên chính là sự biến động phức tạp của đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa, việc chuyển đổi cơ cấu diễn ra mạnh mẽ khiến cho việc quản lý gặp nhiều trở ngại. Việc nắm bắt được diện tích, người sử dụng đất, mục đích sử dụng đất nông nghiệp là điều không hề dễ dàng. Việc quản lý đất nông nghiệp gắn liền với việc quản lý các ngành sản xuất nông nghiệp nên việc điều chỉnh diện tích đất cho từng ngành đó ra sao cũng là một nhiệm vụ phức tạp đặt ra cho các nhà quản lý.
Tiếp theo, Thanh Trì là khu vực hứng chịu toàn bộ nguồn nước thải của cả Thành phố, của nghĩa trang Văn Điển và một số nhà máy hóa chất cũ kỹ, lạc hậu. Bởi vậy, môi trường đất, môi trường nước và không khí ở một số tiểu vùng rất nặng nề. Điều đó có ảnh hưởng nặng nề tới chất lượng đất, chất lượng sản phẩm cây trồng. Trong thời gian tới, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp cũng cần phải chú ý đến tình trạng này và có biện pháp xử lý hữu hiệu nhất.
Ngoài ra, một số khó khăn khác cũng ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà nước về đất đai như: việc chuyển đổi tự phát diện tích đất nông nghiệp sang mục đích khác, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp chưa xứng với tiềm năng của vùng…
Những khó khăn và lợi thế đang tạo ra những thời cơ và thách thức mới cho huyện Thanh Trì trên hành trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các nhà quản lý đất đai cần phải có những động thái tích cực hơn nữa để khai thác, sử dụng đất đai có hiệu quả hơn đặc biệt là đất nông nghiệp – loại đất có ý nghĩa và đang có nhiều chuyển biến phức tạp.
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT VÀ BIẾN ĐỘNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HUYỆN THANH TRÌ.
Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội đang bước vào thời kỳ phát triển nhanh mặc dù chưa có những bước đột phá nhưng cũng dần hình thành những mô hình kinh tế mới. Trong những năm gần đây huyện đã có những dự án đầu tư lớn để xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng. Bởi vậy, sự biến động đất đai đang trở thành vấn đề bức xúc đối với công tác quản lý đất đai. Trong đó, những diễn biến của đất nông nghiệp đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại không chỉ riêng các cơ quan quản lý đất đai.
1. Hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn huyện Thanh Trì.
Tình hình hiện trạng sử dụng của các loại đất được thể hiện trong bảng sau:
Biểu 6: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT HUYỆN THANH TRÌ NĂM 2005
STT
LOẠI ĐẤT
DIỆN TÍCH (ha)
CƠ CẤU (%)
I.
Đất nông nghiệp
3548,134
56,19
1
Đất trồng cây hàng năm:
3152,534
50,19
1.1
Đất chuyên trồng lúa
2621,610
41,66
1.2
Đất trồng cây hàng năm khác
530,925
8,44
2
Đất trồng cây lâu năm
5,671
0,09
3
Đất nuôi trồng thủy sản
388,507
6,17
4
Đất nông nghiệp khác
1,417
0,02
II
Đất phi nông nghiệp
2712,945
43,11
III
Đất chưa sử dụng
31,635
0,5
Tổng
6292.71
100
Nguồn:Kiểm kê đất đai năm 2005 của huyện Thanh Trì
Đất nông nghiệp chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên của huyện 3548,134 ha chiếm tỷ lệ 56,19%, đất phi nông nghiệp chiếm 43,16%, còn lại đất chưa sử dụng chỉ chiếm 0,5%. Huyện Thanh Trì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng khu vực có mât độ dân số cao nhất cả nước, bởi vậy nên phần lớn diện tích đất đã được khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh…
So sánh tương quan giữa các loại đất trong đất nông nghiệp thì diện tích đất chuyên trồng lúa nước là chủ yếu. Điều đó cho thấy huyện Thanh Trì vẫn chưa thoát khỏi tình trạng độc canh cây lúa. Mặc dù, Đảng bộ và nhân dân huyện đã có rất nhiều đổi mới trong thời gian qua song Thanh Trì chưa thực sự trở thành khu vực công nông nghiệp. Bởi vậy, ở một chừng mực nào đó đất nông nghiệp vẫn đang là thế mạnh, chiếm vị trí đặc biệt trong nền kinh tếcủa huyện.
Diện tích đất chưa sử dụng của huyện cũng giảm đi đáng kể. Năm 1995, đất chưa sử dụng có diện tích là 1055,00 ha đến năm 2000 còn 111,13 ha và năm 2005 là 31,63 ha. Vậy giai đoạn 1995 – 2000 giảm 943,87 ha tương đương 89,5%, giai đoạn 2000 – 2005 những con số này tương ứng là 79,5 ha và 71 %. Diệc tích đất chưa sử dụng chủ yếu chuyển sang đất nông nghiệp (trên 30 ha), đất chuyên dùng (trên 5 ha). Qua đó có thể thấy rằng các xã trong huyện đã khai thác khá hiệu quả tiềm năng đất đai và tích cực khai thác đất chưa sử dụng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Đất phi nông nghiệp trên địa bàn có xu hướng tăng. Năm 2000 diện tích đất phi nông nghiệp là 2638,944 ha trong đó diện tích đất ở là 802,21 ha chiếm 29,57 %, đất chuyên dùng là 46,87%, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng là 501,11 ha chiếm 18,47%. Diện tích này tăng chủ yếu lấy từ đất nông nghiệp và đất bằng chưa sử dụng sang. Về cơ cấu đất phi nông nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Diện tích đất chuyên dùng, công cộng, tín ngưỡng…tăng nhanh, đất ở giảm chứng tỏ rằng huyện đã tập trung xây dựng các công trình công cộng và các công trình phục vụ các ngành sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp.
Tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính của huyện Thanh Trì đã có nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Trong giai đoạn 1990-1995, diện tích đất tự nhiên giảm 200,78 ha do thay đổi địa giới hành chính và do sai số thống kê. Đến năm 1996, diện tích đất tự nhiên của huyện giảm 160,46 ha trong đó giảm 197,54 ha do điều chỉnh địa giới hành chính (cắt chuyển xã Khương Đình về quận Thanh Xuân) và tăng 37,08 ha do sai số thống kê ở các xã còn lại. Diện tích đất tự nhiên của huyện tiếp tục có sự thay đổi. Năm 2003 theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính 9 xã trong huyện gồm: Thanh Trì, Lĩnh Nam, Vĩnh Tuy, Trần Phú, Yên Sở, Thịnh Liệt, Định Công, Hoàng Liệt, Đại Kim với tổng diện tích là 3517,17 ha chuyển sang quận Hoàng Mai. Vì vậy, diện tích đất tự nhiên của huyện là 6326,5907 ha giảm xuống còn 6292,71 ha.
Quan sát bảng số 8 về hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp theo địa giới hành chính huyện Thanh Trì ta thấy:
So sánh diện tích đất nông nghiệp theo đơn vị hành chính cấp xã trong huyện ta thấy: đơn vị có diện tích đất nông nghiệp nhỏ nhất là Thị trấn Văn Điển vì đây là thị trấn duy nhất của huyện lại nằm giáp nội thành Hà Nội và đang phát triển nhanh. Vì thế, diện tích của Thị trấn chủ yếu là đất ở, đất phi nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp ở đây chỉ có một số ao, đầm nhỏ nuôi cá diện tích chỉ khoảng 0,15% quỹ đất nông nghiệp của huyện. Bên cạnh đó là các xã có diện tích đất nông nghiệp rất lớn: Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng. Chỉ tính 3 xã này diện tích đất nông nghiệp đã là 1317,01 ha chiếm 21% tổng diện tích đất nông nghiệp cả huyện. Đây là những xã có diện tích tự nhiên rộng và quá trình đô thị hóa chậm, bà con chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong thời gian tới, huyện cần quan tâm hơn tới những xã này, có chính sách đầu tư hợp lý chuyển đổi cơ cấu cây con, mở rộng các mô hình nông nghiệp mới tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất, làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Biểu 8: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH NĂM 2005
Đơn vị: ha
Nguồn: Số liệu kiểm kê đất đai huyện Thanh Trì năm 200
2. Biến động đất nông nghiệp
Huyện Thanh Trì đang bước đầu có những chuyển biến mạnh mẽ. Với vị thế án ngữ phía nam thủ đô, nằm ven khu vục nội thành nên có những lợi thế để phát triển kinh tế. Quá trình đô thị hóa cũng ngày càng tác động mạnh mẽ đến huyện ngoại thành này. Đó chính là những lý do khiến đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng biến động hết sức phức tạp và theo nhiều hướng mới.
Là một huyện ngoại thành nhưng gần đây Thanh Trì mới bắt đầu những bước đi đầu tiên trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do vậy diện tích đất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn so với tổng diện tích đất tự nhiên nhưng đang có xu hướng giảm liên tục qua các năm. Chọn mốc thời gian so sánh xa hơn một chút ta có thể thấy rõ điều này. Năm 1990 diện tích đất nông nghiệp là 5771,99 ha chiếm 56,65% quỹ đất tự nhiên, đến năm 2002 còn 4995,7 ha chiếm 50,83% quỹ đất tự nhiên. Trong 10 năm đất nông nghiệp giảm 776,29ha giảm mạnh trong năm năm 1996-2002 là 627,3 ha, đến nay diện tích đất canh tác bình quân trên một lao động nông nghiệp chỉ có 866m2/người.
So sánh diện tích đất của năm 2005 so với năm 2000 ta sẽ thấy rõ biến động đất nông nghiệp.
Bảng 7: BIẾN ĐỘNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2000 – 2005
Đơn vị: ha
Mục đích sử dụng
Năm 2000
Năm 2005
Tăng (+), giảm (-)
Tổng diện tích đất nông nghiệp
3576.51
3548.13
- 28.38
Đất sản xuất nông nghiệp
3243.55
2933.26
-310.29
Đất nuôi trồng thủy sản
332.93
613.46
+280.52
Đất nông nghiệp khác
0.03
1.42
+ 1.39
Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì
So với năm 2000, diện tích đất nô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội.docx