Tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa các NHTM, giữa các NHTM với các tổ chức không phải là NHTM trong việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới, chuyển giao công nghệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo nhu cầu thị trường. Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, gắn kết chặt chẽ với nhau (tín dụng và phi tín dụng; giữa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính phi ngân hàng) để khai thác có hiệu quả năng lực công nghệ, nhân lực và quản trị của các NHTM, cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng có chất lượng theo tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế và với giá hợp lý, đồng thời quản lý có hiệu quả chi phí hoạt động và khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư và sử dụng có hiệu quả các tài sản. Nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng Việt Nam theo nguyên tắc thị trường, minh bạch, hạn chế bao cấp và chống độc quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng để từng bước phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, an toàn hiệu quả. Từng bước tự do hoá gia nhập thị trường và khuyến khích các NHTM cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ, uy tín, thương hiệu thay vì dựa chủ yếu vào giá cả dịch vụ và mở rộng màng lưới.
130 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung, dài hạn. Cho vay kinh tế nhà nước đang chiếm tỷ trọng lớn (42,5% tổng dư nợ tín dụng), trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém. Tín dụng ngân hàng dành cho khu vực kinh tế dân doanh còn thấp (năm 2004 đạt 38,63% tổng dư nợ)
Yếu tố về mỏng và rủi ro cao về vốn cũng là một hạn chế trong việc triển khai bao thanh toán. Gần đây, để tăng dần tiềm lực tài chính của các NHTM, bên cạnh huy động tiền gửi trong dân cư, NHNN hiện đang đưa ra kế hoạch cổ phần hoá một số NHTMNN, các NHTM tích cực huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp thông qua các đợt phát hành trái phiếu ngân hàng, do vậy đó cũng là một cơ hội tiềm tàng đáp ứng nhu cầu về vốn khi dự tính triển khai bao thanh toán vào năm 2007.
Yếu tố con người :
Có thể nói, con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, con người càng có vai trò quan trọng do đây là một hoạt động dịch vụ, việc duy trì quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là nhiệm vụ trung tâm cho sự tồn tại và phát triển của các NHTM .
Trong giai đoạn gần năng lực quản trị điều hành và năng lực thao tác nghiệp vụ bao thanh toán trong hệ thống một số NHTM đã được nâng cao thông qua các khoá đào tạo trong và ngoài nước. Các ngân hàng lớn chuyên về bao thanh toán thấy Việt Nam là một thị trường tiềm năng, thường xuyên gửi các chuyên gia của mình sang tổ chức các buổi tọa đàm về bao thanh toán. Do hoạt động cơ bản và truyền thống của cac ngân hàng là hoạt động tín dụng; trong quá trình hoạt động, ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ các nhân viên có trình độ trong việc thẩm định tín dụng, quyết định cho vay và thu hồi nợ. Do vậy họ có khả năng và giàu kinh nghiệm để sẵn sàng đón nhận, tiếp thu một nghiệp vụ mới khi cần, đặc biệt đối với nghiệp vụ bao thanh toán. Gần đây nhất, FCI đã tổ chức hội thảo với sự có mặt đại diện các thành viên của mình ở thành phố Hồ Chí Minh đánh giá về triển vọng áp dụng bao thanh toán ở các nước châu á trong đó có Việt Nam.
Yếu tố về hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM nhưng rủi ro lớn, hiệu quả đạt được không tương xứng với mức độ rủi ro thực tế đã và tiếp tục là nguyên nhân tạo ra nguy cơ đe doạ an toàn hoạt động của các NHTM: Cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra thu nhập cho các NHTM (trên 80% tổng thu nhập); thu về dịch vụ thanh toán, lãi kinh doanh ngoại hối và nghiệp vụ đầu tư, đặc biệt là dịch vụ tài chính phi ngân hàng (kinh doanh chứng khoán, tư vấn tài chính, mua bán nợ, ...) còn thấp. Việc phát triển loại hình bao thanh toán, trên cơ sở đó, cũng sẽ gặp không ít khó khăn, do các NHTM Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến những lĩnh vực dịch vụ khác ngoài tín dụng. Đây sẽ là một thị trường bỏ ngỏ, trở thành một cơ hội lớn cho các ngân hàng nước ngoài nhảy vào Việt Nam sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO.
2.3.2. Nhu cầu của khách hàng
Khách hàng là đối tượng phục vụ của ngân hàng, là yếu tố định hướng cho việc duy trì, mở rộng và phát triển của các NHTM. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của các ngân hàng gắn liền với mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng, vào khả năng thỏa mãn những nhu cầu phong phú và đa dạng của khách hàng
Mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng của hệ thống các NHTM Việt Nam còn yếu. Khách hàng tìm đến ngân hàng đôi khi không tìm được sự phù hợp của các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng với nhu cầu của mình. Cho một ví dụ, khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng, nhưng hiện nay mức phí cũng chưa hợp lý, không có sự khác biệt về phí giữa phương thức bao thanh toán và phương thức tín dụng chứng từ.
Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2002, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam khoảng 62.908 trong đó có 5364 doanh nghiệp nhà nước, 55.236 doanh nghiệp tu nhân, 2.308 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước là 1.441 nghìn tỷ đồng (bình quân 151,2 tỷ đồng/doanh nghiệp). Như vậy có thể thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (mức vốn dưới 5 tỷ đồng) tập trung chủ yếu trong khu vực doanh nghiệp tư nhân. Trên thực tế, khả năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông qua thế chấp tài sản,để phục vụ sản xuất kinh doanh bị hạn chế rất nhiều do các lý do:
Về thủ tục vay vốn: báo cáo tài chính cũng như việc giải trình về vấn đề vay vốn và khả năng hoàn trả vốn vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu cơ sở thuyết phục.
Về yêu cầu tài sản thế chấp: hiện nay do quy định chung của Nhà nước, việc đánh giá mức độ tín dụng xếp hạng không cao, các tổ chức tín dụng thường có những yêu cầu khắt khe về tài sản thế chấp đối với các đề nghị vay vốn của các doanh nghiệp này, khiến các doanh nghiệp này không thể đáp ứng nổi.
Về hạn mức cho vay: Chưa có cơ sở thống nhất cho phương pháp định giá tài sản thế chấp cho nên các quyết định về mức vốn cho vay của các ngân hàng dao động lớn, thấp hơn nhiều so với gía trị thực của tài sản thế chấp
Cũng theo số liệu thống kê năm 2005, tỷ trọng vốn chủ yếu của các doanh nghiệp chiếm khoảng 30% tổng nguồn vốn kinh doanh và con số này có xu hướng ngày càng giảm, điều này có nghĩa là tỷ trọng vốn do doanh nghiệp đi vay và chiếm dụng của doanh nghiệp khác chiếm phần còn lại, trong đó nợ chiếm dụng và nợ quá hạn cũng có xu hướng gia tăng. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tình hình tài chính của doanh nghiệp như vậy đang có tiềm ẩn yếu tố thiếu an toàn.
Trong thời gian qua, cùng với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng đã có những bước phát triển cả về chất và lượng, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Theo số liệu thống kê, mỗi năm doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đóng góp khoảng 25-27% GDP của cả nước. Vốn kinh doanh của khu vực kinh doanh này chiếm 20% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp.
Theo Quyết định số 90/2001/NĐ-CP, DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có quy mô đầu tư vốn không quá 10 tỷ đồng, số lao động hàng năm không quá 300 người, DNVVN Việt nam có một số đặc điểm sau:
Nguồn tài chính còn hạn hẹp, thiết bị công nghệ lạc hậu
Trình độ quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao động chưa cao
Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu.
Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, quản lý đơn giản
Năng động linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu
Như vậy, đây chính là một đối tượng khách hàng tiềm năng khi các ngân hàng Việt Nam muốn hướng tới khi áp dụng phương thức bao thanh toán. Theo đánh giá, việc tiến hành dịch vụ bao thanh toán đang mở ra cơ hội rất lớn cho các ngân hàng mở một kênh phân phối tín dụng khác cho khách hàng mà không chịu ảnh hưởng của các nhân tố trên, đồng thời góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp này thông qua việc giảm bớt tỷ trọng nợ chiếm dụng.
Ngân hàng vốn vẫn là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về vốn. Do vậy, về cơ bản, ngân hàng có mối quan hệ lâu dài nhất với hầu hết các đối tượng khách hàng nên ngân hàng chính là đầu mối nắm giữ thông tin một cách chắc chắn và chính xác nhất về khách hàng. Đây cũng chính là một điểm thuận lợi tạo điều kiện phát triển bao thanh toán.
Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết của đại bộ phận dân chúng đối với hoạt động bao thanh toán của ngân hàng còn hạn chế, đặc biệt là hiểu biết về sản phẩm cũng như dịch vụ ngân hàng. Nhu cầu của khách hàng mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ sẵn có do ngân hàng cung cấp mà chưa có tính chất gợi mở cho ngân hàng về các loại hình dịch vụ mới. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự kém đa dạng về dịch vụ ngân hàng ở nước ta. Một nguyên nhân khách quan nữa là do trình độ công nghệ chung của đất nước còn ở mức độ lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới nên trình độ công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng cũng không thể hiện đại đủ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng như các ngân hàng thuộc các nước tiên tiến.
Về nguyên nhân chủ quan, chính bản thân các ngân hàng cũng không nhanh nhạy nắm bắt ý muốn của khách hàng, không tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường để tìm hiểu những nhu cầu mới nảy sinh và tìm cách đáp ứng chúng. Các ngân hàng cũng không có các hoạt động xúc tiến truyền thông có hiệu quả để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm và dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng. Một nguyên nhân nữa liên quan đến tiềm lực tài chính của ngân hàng. Với quy mô vốn nhỏ, các ngân hàng không thể đầu tư cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tiến công nghệ ngân hàng, thực hiện các chiến lược quảng bá, giới thiệu sản phẩm bởi những công việc này đòi hỏi một lượng tiền không nhỏ. Điều này làm hạn chế khả năng của ngân hàng trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
2.3.3. Các yếu tố bên ngoài và các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ
Về các yếu tố bên ngoài, trước hết phải kể đến sự phát triển nền kinh tế đất nước cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ năm 2000 trở lại đây, nền kinh tế liên tục tăng trưởng khá nhanh (thấp nhất là 6,79% năm 2000, cao nhất là 7,69% năm 2004 và 8,5% năm 2005), kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định (chỉ số CPI tăng bình quân 3,34%/năm, thâm hụt ngân sách nhà nước được kiểm soát dưới 5% GDP) và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nhờ đó, môi trường hoạt động ngân hàng ngày càng thuận lợi và hấp dẫn; nhu cầu về số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam ngày càng tăng. Hệ thống dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và có chất lượng cao hơn. Một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đã được triển khai và xã hội chấp nhận (ngân hàng điện tử, Internet banking, phone banking, mobile banking, thẻ ATM,....). Hệ thống ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể về năng lực thể chế, tài chính, hoạt động, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối. Số lượng các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng cùng với quá trình tự do hoá kinh tế và mở cửa thị trường tài chính trong nước.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế cao nhưng trình độ phát triển nền kinh tế nước ta thấp và môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn, yếu kém làm hạn chế khả năng cung ứng và nhu cầu sử dụng các dịch vụ bao thanh toán. Qui mô nền kinh tế còn nhỏ: năm 2005, GDP ước đạt trên 50 tỷ USD và bình quân đầu người ước đạt trên 600 USD, còn rất thấp so với các nước phát triển hơn trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp. Năng lực tài chính và hoạt động của các tổ chức, cá nhân còn nhiều yếu kém. Sử dụng các dịch vụ ngân hàng chưa trở thành thói quen và văn hoá tiêu dùng của công chúng. Điều này dẫn đến nhu cầu của nền kinh tế về dịch vụ ngân hàng còn hạn chế và môi trường hoạt động ngân hàng rủi ro.
Thị trường vốn và thị trường tiền tệ phát triển chậm, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của các NHTM về huy động vốn và đầu tư làm hạn chế khả năng đa dạng hoá kinh doanh và phòng ngừa rủi ro: Thị trường tài chính phát triển cân bằng, nhất là thị trường vốn dài hạn đáp ứng nhu cầu rất lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra áp lực cho hệ thống ngân hàng phát triển kém bền vững do tập trung tín dụng và tăng trưởng tín dụng nóng. Rủi ro sai lệch kỳ hạn và rủi ro thanh khoản ngày càng lớn khi các NHTM mở rộng cho vay trung, dài hạn không tương xứng với cơ cấu nguồn vốn.
Trong các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ đối với ngành ngân hàng, đầu tiên phải kể đến vai trò của công nghệ ngân hàng. Phát triển công nghệ ngân hàng là yếu tố then chốt để củng cố và mở rộng ngân hàng, để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng nhằm thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
ở Việt Nam, ngành ngân hàng có mức độ hiện đại hóa công nghệ khá nhanh chóng và có lẽ đang là một trong những ngành dẫn đầu trong lĩnh vực này. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đến nay đã có gần 200 chi nhánh của 50 thành viên tham gia. Từ ngày 1/1/2003, hệ thống thanh toán bù trừ điện tử cũng đã được đưa vào vận hành chính thức, thay thế hoàn toàn việc trao đổi trực tiếp chứng từ giấy; nhờ đó, rút ngắn được thời gian chuyển tiền và đảm bảo độ chính xác cao. Do đó, hoạt động giữa các ngân hàng liên kết với nhau trở nên chặt chẽ, có khả năng hỗ trợ nhau khai thác, tìm kiếm thông tin liên quan tới khách hàng. Đây cũng là một lợi thế sẵn có để có thể triển khai dịch vụ mới như bao thanh toán
Ngoài ra, còn một số yếu tố tiềm tàng trong quá trình áp dụng bao thanh toán. Mặc dù vẫn còn rất nhiều khó khăn tồn tại nhưng có thể khẳng định một điều rằng, trong tương lai bao thanh toán sẽ là một phương thức thanh toán đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng tại Việt Nam. Tuy nhiên, để hướng tới mục tiêu phát triển loại hình dịch vụ này tại các NHTM, bằng sự hỗ trợ từ phía chính phủ, học hỏi kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, các NHTM Việt Nam phải có sự quan tâm thích đáng tới chính loại hình bao thanh toán này. Bằng một số vốn kinh nghiệm thực tế nhỏ bé, tác giả xin đóng góp vào luận văn một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam thông qua chương III của luận văn này.
CHƯƠNG III:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam
3.1. Định hướng
Đối với nền kinh tế nước ta, định hướng phát triển dịch vụ bao thanh toán nằm trong định hướng chiến lược phát triển dịch vụ ngành ngân hàng. Với quy mô nhỏ của luận văn, tác giả xin nêu một số định hướng phát triển dịch vụ theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu của ngành ngân hàng trong giai đoạn từ 2006 đến 2010 nằm trong chiến lược phát triển dịch vụ của ngành ngân hàng cụ thể như sau:[3]
- Phát triển dịch vụ ngân hàng gắn liền với tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ ngân hàng trên cơ sở đổi mới toàn diện và đồng bộ hệ thống ngân hàng (NHNN và các NHTM), đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, mở cửa thị trường tài chính trong nước và tự do hoá thương mại dịch vụ tài chính.
- Bảo đảm an toàn và hiệu quả hoạt động của từng NHTM, toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời chủ động mở rộng các dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực tài chính, quản lý của NHTM.
- Phát triển dịch vụ ngân hàng là nội dung quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các NHTM và là mục tiêu trong chính sách quản lý, giám sát của NHNN. Các NHTM chủ động nghiên cứu và triển khai các dịch vụ ngân hàng theo nhu cầu thị trường, không trái với pháp luật và phù hợp với năng lực của NHTM. Liên kết và hợp tác trong nghiên cứu và phát triển, kinh doanh dịch vụ ngân hàng, nhất là các dịch vụ ngân hàng mới là cơ sở để nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế và cải thiện năng lực cung ứng dịch vụ của hệ thống ngân hàng.
- Chính sách phát triển dịch vụ ngân hàng phải hướng tới mở rộng khả năng "cung" dịch vụ ngân hàng của hệ thống ngân hàng, đồng thời góp phần kích "cầu" về dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên cơ sở bảo đảm:
(i) Môi trường hoạt động ngân hàng thông thoáng, an toàn và hấp dẫn;
(ii) Khuôn khổ thể chế hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế;
(iii) Uy tín và thương hiệu của NHTM;
(iv) Nhân lực có trình độ cao;
(v) Công nghệ kỹ thuật hiện đại;
(vi) Quản trị ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế;
(vii) Tài chính của các NHTM lành mạnh.
Trong đó, công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thông tin là nền tảng cho phát triển dịch vụ ngân hàng mới và khuôn khổ thể chế phải trở thành tiền đề góp phần quan trọng bảo đảm dịch vụ ngân hàng phát triển an toàn và hiệu quả.
- Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch, trong đó đặc biệt coi trọng dịch vụ huy động vốn, cung ứng tín dụng, dịch vụ thanh toán và kinh doanh ngoại tệ, đồng thời tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hoá giá trị gia tăng cho các NHTM, khách hàng và nền kinh tế. Đáp ứng tốt nhu cầu về dịch vụ ngân hàng cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế; phát triển nông nghiệp, nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh nhằm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Ưu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng sử dụng có hiệu quả kinh tế cao (bảo đảm cân bằng lợi nhuận và rủi ro) và có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao cho bản thân người sử dụng dịch vụ và cho NHTM, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo và thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư, sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng với trọng tâm là kiểm soát hữu hiệu chất lượng tín dụng và các rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng. Không hạn chế quyền tiếp cận của các tổ chức, cá nhân đến thị trường dịch vụ ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu và đáp ứng đủ các yêu cầu về năng lực, thủ tục, điều kiện giao dịch được tiếp cận các dịch vụ ngân hàng. Từng bước đa dạng hoá nguồn thu và cơ cấu thu nhập của các NHTM theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng, dịch vụ tài chính phi ngân hàng.
Tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa các NHTM, giữa các NHTM với các tổ chức không phải là NHTM trong việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới, chuyển giao công nghệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo nhu cầu thị trường. Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, gắn kết chặt chẽ với nhau (tín dụng và phi tín dụng; giữa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính phi ngân hàng) để khai thác có hiệu quả năng lực công nghệ, nhân lực và quản trị của các NHTM, cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng có chất lượng theo tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế và với giá hợp lý, đồng thời quản lý có hiệu quả chi phí hoạt động và khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư và sử dụng có hiệu quả các tài sản. Nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng Việt Nam theo nguyên tắc thị trường, minh bạch, hạn chế bao cấp và chống độc quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng để từng bước phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, an toàn hiệu quả. Từng bước tự do hoá gia nhập thị trường và khuyến khích các NHTM cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ, uy tín, thương hiệu thay vì dựa chủ yếu vào giá cả dịch vụ và mở rộng màng lưới.
- Từng bước nâng cao uy tín và thương hiệu của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Đến năm 2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam phấn đấu phát triển được hệ thống dịch vụ ngân hàng ngang tầm với các nước trong khu vực ASEAN về chủng loại, chất lượng và có khả năng cạnh tranh quốc tế ở một số dịch vụ.
Bảng 3.1. Lộ trình phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010
Loại dịch vụ
......
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng truyền thống
2. Triển khai rộng rãi các dịch vụ ngân hàng mới/mở rộng (bao thanh toán)
- Thẻ thanh toán, séc cá nhân và công cụ thanh toán không dùng tiền mặt khác
- Dịch vụ ngân hàng điện tử
- Sản phẩm phái sinh tiền tệ, lãi suất và tỷ giá
- Quản lý tài sản, tiền mặt
- Dịch vụ bảo hiểm rủi ro hàng hoá (kim loại, dầu lửa...)
- Dịch vụ bảo hiểm bảo hiểm
- Dịch vụ chứng khoán trong nước
- Đầu cơ chứng khoán quốc tế
- Tư vấn tài chính
- Phát hành các công cụ nợ
- Dịch vụ ngân hàng hiện đại khác
Triển khai thí điểm, thử nghiệm hoặc có chọn lọc.
Triển khai rộng rãi
(Nguồn: Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2005)
Trên cơ sở định hướng chung của toàn ngành ngân hàng, việc phát triển loại hình dịch vụ bao thanh toán phải đảm bảo một số yếu tố sau:
Đáp ứng những yêu cầu chuẩn mực của quốc tế, quốc gia quy định đối với phương thức bao thanh toán
Phát triển loại hình dịch vụ này trên diện rộng: ngoài hệ thống các ngân hàng thương mại, khuyến khích các tổ chức tín dụng khác như công ty tài chính ở Việt Nam tham gia tích cực vào loại hình dịch vụ này.
Phát triển loại hình dịch vụ theo chiều sâu: xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm, đa dạng hoá các loại hình bao thanh toán (bao thanh toán nội địa, bao thanh toán xuất nhập khẩu…) cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng
Giảm thiểu các chi phí và rủi ro khi bao thanh toán được áp dụng.
Khi nghiệp vụ bao thanh toán của NHTM đã đủ mạnh, có thể tiến hành thành lập công ty Factoring riêng trực thuộc NHTM đó, việc hạch toán độc lập sẽ đem lại hiệu quả nhất định cho công ty.
Các NHTM phấn đấu trở thành thành viên của các Hiệp hội lớn trên thế giới về bao thanh toán.
Phương thức bao thanh toán sẽ dần thay thế phương thức tín dụng chứng từ một cách hiệu quả và tối ưu.
Tăng trưởng doanh số bao thanh toán trong năm năm từ 2006-2010 phấn đấu đạt 8-9% GDP
Trước thềm hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, bao thanh toán đang trở thành một phương thức đem lại hiệu quả kinh doanh lớn. Việc phát triển sản phẩm dịch vụ này tại Việt Nam cũng được đặt ra trong mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng. Sau đây, tác giả xin đưa ra một số kinh nghiệm phát triển bao thanh toán sau một thời gian ngắn triển khai phương thức này tại Việt Nam.
3.2. Kinh nghiệm
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu kinh nghiệm phát triển bao thanh toán của các nước trên thế giới, tác giả xin quay trở lại tên tuổi một số ngân hàng đầu tiên đạt được những thành công nhất định trong lịch sử phát triển bao thanh toán. [23]
Sự phát triển bao thanh toán tại các ngân hàng trên thế giới bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển bao thanh toán của các ngân hàng Mỹ vào những năm 1930. Ngân hàng đầu tiên tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán và đến nay vẫn duy trì dịch vụ này đó là Ngân hàng Trust Company of Georgia (nay là Trust Company Bank), khởi nghiệp vào năm 1939. Đặt trụ sở ở Atlanta (Mỹ), ngân hàng Trust Company of Georgia hợp tác kinh doanh với rất nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may ở phía Nam và ngân hàng này cũng sớm nhận thấy các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này chủ yếu của các đơn vị bao thanh toán, có trụ sở tại New York. Để xây dựng ý tưởng thành lập một văn phòng hoạt động bao thanh toán và thu hút các khách hàng, ngân hàng đã cử một nhóm chuyên gia tư vấn đến New York để tham khảo thị trường. Ban đầu, nhóm chuyên gia tư vấn cho rằng bao thanh toán chỉ dành cho những doanh nghiệp chuyên biệt, nó khác xa so với các hoạt động của ngân hàng và đưa ra đề xuất rằng ngân hàng không nên cung cấp dịch vụ này.
Sau đó, với nỗ lực nghiên cứu thị trường, không chịu thua cuộc; ngân hàng Trust Company of Georgia đã sớm trở thành đơn vị bao thanh toán thành công. Tháng 2-1939, ngân hàng thiết lập một chi nhánh nhỏ và luôn đi cùng với các doanh nghiệp dệt may để hỗ trợ doanh nghiệp của họ. Trong năm đầu hoạt động, ngân hàng Trust Company of Georgia đã đạt tổng doanh số bao thanh toán là 1.830.000 đô la Mỹ và vào cuối năm đó, ngân hàng có 31 khách hàng.
Khi ngân hàng có trụ sở tại Atlanta phát triển thêm chi nhánh làm nghiệp vụ bao thanh toán năm 1939 thì chiến tranh thế giới thứ II đang diến ra khốc liệt ở châu Âu và các nhà máy dệt may ở Mỹ đang bị kéo vào cuộc chiến. Công việc duy nhất mà ngân hàng phải làm đó là cung cấp tài chính cho các nhà thầu quân đội, do đó các khoản phải thu của họ chủ yếu là thu từ chính phủ. Chức năng kiểm tra tín dụng một trong những hoạt động trung tâm của bao thanh toán, trở nên thừa thãi do chính quyền có hạn mức tín dụng khá cao vào thời điểm đó thâm hụt tới 200 tỉ đô.
Trong những năm ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, tốc độ tăng doanh thu của factoring ở ngân hàng Trust Co. of Georgia chậm lại, giới hạn bởi số tiền mà ngân hàng được cung cấp. Năm 1949, doanh thu bao thanh toán đạt một số tiền ít ỏi là 43 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên bao thanh toán lấy lại tốc độ tăng trưởng vào những năm sau đó. Năm 1983, doanh thu đạt 1 tỷ đô la Mỹ và vào năm 1988, ngân hàng này đạt doanh số gần 2.5 tỷ đô la Mỹ. Tất cả những con số doanh thu trên đều do chi nhánh đặt trụ sở tại Atlanta đạt được, tuy nhiên ngân hàng vẫn duy trì một văn phòng nhỏ tại New York, nhưng văn phòng này chuyên thu thập các thông tin.
Ngân hàng thứ 2 tham gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán là Ngân hàng First National Bank of Boston năm 1945. Ngân hàng có trụ sở tại Boston là một trong những ngân hàng lâu đời nhất ở Mỹ. Ngân hàng này được thành lập năm 1784, có tên là Ngân hàng Massachusset Bank do bang Massachusset mua lại. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngân hàng này tham gia cấp vốn cho quá trình phục hồi chiến tranh của Liên minh Anh-Pháp-Mỹ, tham gia vào hệ thống ngân hàng quốc gia.
Năm 1945, Mỹ quy định tất cả các ngân hàng quốc gia không đuợc phép tham gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Vì n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32342.doc