MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 4
I. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) 4
1. Khái niệm và nguồn gốc ODA 4
2. Đặc điểm của nguồn vốn ODA 5
3. Phân loại vốn ODA 8
4. Vai trò của vốn ODA 10
5. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới 17
II. Định nghĩa và phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo 20
1. Định nghĩa về đói nghèo 20
2. Các phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo 20
III. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo 22
1. Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững 22
2. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở quan trọng để xoá đói giảm nghèo 23
CHƯƠNG II 24
TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA CHO XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 24
I. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam 24
1. Bối cảnh kinh tế xã hội 24
2. Đặc điểm của nghèo đói ở Việt Nam 28
3. Nguyên nhân của nghèo đói 34
II. Nguồn vốn ODA và công tác xoá đói giảm nghèo 40
1. Khuôn khổ pháp lý của việc thu hút và sử dụng vốn ODA 40
2. Các nhà tài trợ và mục tiêu ưu tiên ở Việt Nam 42
4. Tình hình thu hút và sử dụng ODA trong 10 năm qua (1993 – 2003) 44
III. Tác động của các chương trình, dự án ODA đến công tác xoá đói giảm nghèo 55
1. Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ công 56
2. Hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo trên diện rộng 58
3. Hỗ trợ phát triển công nghiệp nhằm tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người nghèo 60
4. Hỗ trợ phát triển nền giáo dục công bằng và chất lượng cho người nghèo 61
5. Giúp cải thiện mạng lưới an sinh xã hội 62
IV. Một số nguyên nhân dẫn đễn thành công, hạn chế trong thu hút, sử dụng vốn ODA và bài học rút ra 65
1. Nguyên nhân thành công 65
2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 66
3. Một số bài học rút ra 68
CHƯƠNG III 69
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ODA CHO XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 69
I. Những thách thức và mục tiêu xoá đói giảm nghèo đến năm 2005 ở Việt Nam 69
1. Những thách thức đặt ra cho công cuộc xoá đói giảm nghèo 69
2. Một số mục tiêu về xoá đói giảm nghèo đến năm 2005 71
II. Giải pháp thu hút ODA cho xoá đói giảm nghèo 74
1. Xây dựng chiến lược, chương trình mục tiêu về xoá đói giảm nghèo 74
2. Hài hoà thủ tục dự án 75
3. Tăng cường các mối quan hệ phi nhà nước 75
4. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án ODA 76
5. Hoàn thiện cơ chế chính sách về ODA 77
III. Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo 77
1. Tăng cường, mở rộng sự tham gia của người nghèo vào các chương trình, dự án. 78
2. Sử dụng vốn ODA cho phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo 79
3. Tập trung vốn ODA hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực phục vụ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo 80
4. Đầu tư phát triển mạng lưới an sinh xã hội cho người nghèo và các đối tượng yếu thế. 81
5. Xây dựng cơ chế giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo 82
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
88 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nguồn vốn ODA – chất xúc tác thúc đẩy công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất theo phương pháp truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp như khuyến nông, khuyến nghư, điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón… và nếu có thì giá các dịch vụ này cũng rất cao đối với họ, nên đã làm tăng chi phí lên cao dẫn đến giảm thu nhập trên một đơn vị sản phẩm.
Người nghèo cũng không có điều kiện tiếp cận với các nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân làm cho khả năng đầu tư vào máy móc và áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất. Trong khuôn khổ Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo đã có dự án tín dụng cho người nghèo và thực tế nhiều đôí tượng nghèo đã có điều kiện tiếp xúc với nguồn tín dụng, song vẫn còn rất nhiều đối tượng nghèo đặc biệt là những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vẫn chưa có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng trên. Hơn nữa, khi đã được vay từ nguồn tín dụng cho người nghèo thì các đối tượng nghèo sử dụng vốn chưa đúng mục đích hoặc không biết sử sụng như thế nào để có hiệu quả. Do vậy, nhiều khi làm cho họ lại rơi vào vòng nợ nần và không có khả năng trả nợ, tức là đã nghèo lại nghèo hơn.
3.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo thường là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội tìm được việc làm tốt, ổn định. Hệ quả tất yếu của thiếu việc làm và việc làm không ổn định là thu nhập thấp và bấp bênh, từ đó dẫn đến việc không thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản cho bản thân cũng như cho gia đình họ. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong việc kế hoạch hoá gia đình, nuôi dạy con cái và điều này đưa đến hậu quả là không chỉ riêng bản thân người có trình độ học vấn thấp phải sống trong cảnh nghèo mà thế hệ tương lai của họ cũng không thể thoát nghèo do không được học hành đầy đủ.
Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy có khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí giáo dục cho người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận còn thấp gây khó khăn cho người nghèo trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên, 80% số người nghèo làm việc trong khu vực nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp nhưng trình độ học vấn thấp làm cho khả năng tìm kiếm việc làm trong các khu vực khác rất khó khăn.
3.3. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Những yếu tố về trình độ học vấn, địa lý… có những mối liên quan chặt chẽ với tình trạng nghèo đói. Người nghèo thường là các đối tượng sống ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; là những đồng bào dân tộc ít người và những đối tượng này thường có trình độ học vấn thấp nên khả năng hiểu biết pháp luật và tự giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật của họ là một vấn đề khó khăn. Phần lớn các văn bản pháp luật không đến được với các đối tượng nghèo do họ không có đủ điều kiện để tiếp cận và nếu có thì việc nắm bắt và hiểu được những quy định trong luật đối với họ cũng là rất khó khăn. Do vậy, người nghèo không nắm bắt được pháp luật nên không thể tự bảo vệ mình được khi các quyền lợi chính đáng của mình bị xâm hại, đồng thời, việc không nắm bắt được luật pháp cũng gây khó khăn cho người nghèo trong việc sản xuất, kinh doanh.
3.4. Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Trình độ học vấn thấp nên các hiểu biết về kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản của người nghèo là rất hạn chế. Điều này thường đưa đến hệ quả là những gia đình nghèo thường đông con, số nhân khẩu trong các hộ nghèo thường rất đông. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của các hộ nghèo. Theo kết quả điều tra năm 1998, số con bình quân trên một phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với 2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho số người ăn theo tăng lên tức là thu nhập dành cho 1 nhân khẩu bị chia sẻ và làm cho họ đã nghèo lại càng nghèo thêm. Vẫn trong cái vòng luẩn quẩn ấy, khi cuộc sống của họ ở trong cảnh tối tăm, thiếu thốn mọi dịch vụ và không có điều kiện cho con cái học hành tử tế sẽ thường dẫn đến hệ quả là số nhân khẩu trong gia đình họ lại tiếp tục tăng từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Như vậy, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói.
3.5. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
Do nguồn thu nhập của các đối tượng nghèo rất thấp và bấp bênh nên họ rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân hay gia đình họ. Khi có những biến động xảy ra như thiên tai, mất mùa, bệnh tật… thì với khả năng kinh tế hạn hẹp, không có tích luỹ sẽ gây ra những bất ổn trong cuộc sống của người nghèo.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do không có trình độ tay nghề, trình độ quản lý, thiếu hiểu biết pháp luật và thị trường hạn hẹp nên công việc làm ăn của họ rất dễ gặp những rủi ro bất lợi và khi rủi ro xảy ra khả năng đối phó của họ rất kém do thu nhập thấp, tiềm lực kinh tế yếu. Do đó, làm cho người nghèo rất dễ bị tổn thương.
Theo thống kê hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1 –1,2 triệu người và bình quân hàng năm, số hộ tái nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo đói vẫn còn lớn, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo. Do vậy, việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ hậu quả thiên tai và các rủi ro khác cho người nghèo cần được coi như là một phần quan trọng trong quá trình xoá đói giảm nghèo.
3.6. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc thêm tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải gánh chịu do bất bình đẳng thì còn có những bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong nông nghiệp. Mặc dù vậy, phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên trong các khoá khuyến nông. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc. Tỷ lệ trẻ em gái bị suy dinh dưỡng và được đến trường ít hơn trong khi phụ nữ có một vai trò quan trọng trong mỗi gia đình và xã hội thì họ lại bị đối xử thiếu công bằng, không được chăm sóc và học hành đầy đủ. Điều này sẽ cản trở sự tiến bộ của toàn xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác xoá đói giảm nghèo.
3.7. Những nguyên nhân về bệnh tật, sức khoẻ
Bệnh tật và sức khoẻ yếu cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng đói nghèo trầm trọng. Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo. Hệ quả của việc ốm đau, bệnh tật là: họ mất đi thu nhập từ lao động, đồng thời phải gánh chịu chi phí khám chữa bệnh rất cao trong khi không tạo ra được thu nhập. Do vậy, chi phí khám chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, từ đó dẫn đến nợ nần và đẩy họ lún sâu hơn vào cảnh nghèo đói. Thêm vào đó, người nghèo thường không được đáp ứng đủ nhu cầu về dinh dưỡng, thuốc men và các điều kiện chăm sóc sức khoẻ khác nên nguy cơ bị mắc bệnh lại càng cao.
Theo số liệu điều tra năm 1998, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm so với 2,4 ngày/năm của nhóm 20% giàu nhất. Trong thời kỳ 1993 – 1997, tình trạng ốm đau của nhóm người giàu đã giảm 30%, trong khi tình trạng của nhóm người nghèo vẫn giữ nguyên.
Vì vậy, cải thiện điều kiện sức khoẻ cho người nghèo là yếu tố hết sức quan trọng để người nghèo thoát nghèo, tuy rằng đây là việc không phải là dễ dàng nhưng cần có sự giúp đỡ, cố gắng của Chính phủ và toàn xã hội.
3.8. Nguyên nhân từ việc thay đổi chính sách vĩ mô
Tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là điều kiện thuận lợi để xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao thì cần có những sự thay đổi trong chính sách vĩ mô như tự do hoá thương mại, cải cách doanh nghệp nhà nước… và điều này đưa đến những tác động tiêu cực đến người nghèo.
Cải cách nền kinh tế, tự do hoá thương mại tạo ra những động lực khuyến khích nền kinh tế và các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo việc làm chưa được quan tâm và tạo điều kiện phát triển dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu và có thể dẫn tới phá sản các doanh nghiệp tức là đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, việc này đồng nghĩa với việc đưa họ gia nhập đội ngũ người nghèo vì khả năng tích luỹ của đối tượng này là rất thấp.
Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn tài chính của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi hàng triệu việc làm. Số công nhân bị mất việc làm gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm mới nên bị rơi vào cảnh nghèo đói. Hơn nữa, những đối tượng đó phần lớn lại là phụ nữ và người lớn tuổi nên khả năng bị tổn thương của họ là rất cao và mức độ rất nghiêm trọng.
Chuyển đổi cơ cấu đầu tư mang lại hiệu quả tích cực, song vẫn còn nhiều bất hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp trong khi khu vực này vẫn rất cần được đầu tư nhiều. Bên cạnh đó, việc đầu tư vào công nghiệp mới chỉ chú trọng vào các ngành mũi nhọn, các mặt hàng thay thế nhập khẩu, chưa chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều chính sách trợ cấp không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế giúp xoá đói giảm nghèo trên diện rộng, song việc cải thiện tình trạng của người nghèo lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm có thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biến đổi về thu nhập của các nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết quả là làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
Ta thấy rằng, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đói. Những yếu tố đó như là những cái răng của một cái bánh xích lớn gắn kết chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, một sự thay đổi nhỏ trong một răng nào đó có ảnh hưởng lớn đến cả bánh xích. Người nghèo chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố được ví như những chiếc răng trong cái bánh răng và họ bị cuốn vào trong vòng quay của cái bánh răng ấy. Để thoát ra được khỏi cái vòng quay bất tận ấy người nghèo cần có sự trợ giúp của cả cộng đồng về cả tinh thần và vật chất. Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được điều này và đã có những sự huy động rất nhiều nguồn lực phục vụ cho công tác xoá đói giảm nghèo. Trong các nguồn lực huy động cho xoá đói giảm nghèo, nguồn vốn ODA có một vai trò quan trọng. Vậy thì trên thực tế chúng ta đã huy động và sử dụng nguồn vốn này như thế nào, sau đây là một số những nhìn nhận về tình hình huy động và sử dụng vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo trong thời gian gần đây.
II. Nguồn vốn ODA và công tác xoá đói giảm nghèo
1. Khuôn khổ pháp lý của việc thu hút và sử dụng vốn ODA
Nhận thức rằng ODA là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng từ bên ngoài, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng công tác quản lý và sử dụng nguồn lực này. Ngay từ hội nghị đầu tiên các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (tháng 11 năm 1993), Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng ODA “Điều quan trọng là nguồn vốn từ bên ngoài phải sử dụng có hiệu quả, Chính phủ nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng vay, viện trợ nước ngoài với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả”.
Trước năm 1993, việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết bởi từng quyết định riêng lẻ của Chính phủ đối với từng chương trình, dự án ODA và từng nhà tài trợ cụ thể. Để quản lý vay và trả nợ nước ngoài một cách có hệ thống, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/cp ngày 30 – 8 – 1993 về quản lý và trả nợ nước ngoài, Nghị định số 20/cp ngày 20 – 4 –1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA. Đây là hai văn bản pháp lý cao nhất của Chính phủ trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài nói chung và ODA nói riêng.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý năm 1997 – 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 87/1997/NĐ-CP này 5 tháng 8 năm 1997 thay thế nghị định số 20/CP và Nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 7 tháng 11 năm 1998 thay thế cho Nghị định số 58/CP về quy chế vay và trả nợ nước ngoài, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phân công rõ trách nhiệm giữa các cơ quan tổng hợp của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và tổ chức kinh tế trong việc quản lý và sử dụng vay nước ngoài. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn các Nghị định nói trên của Chính phủ, các bộ ngành liên quan đã chủ trì xây dựng và ban hành các quy chế, thông tư hướng dẫn thực hiện như: Thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 15/1997/TT-BKH ngày 24 tháng 10 năm 1997 hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức(Ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP ngày 5 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ); Thông tư liên tịch Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước số 81/1998/TTLT-BTC-NHNN ngày 17 tháng 06 năm 1998 hướng dẫn quy trình, thủ tục và quản lý việc rút vốn đối với nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Bước đầu đã tạo điều kiện phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan liên quan để thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản như: đàm phán và ký kết các hiệp định vay nợ, xây dựng chế độ tài chính…
Để hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý, ngày 4 – 5 – 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2001/NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thay thế cho Nghị định 87/CP và ban hành kèm theo Nghị định này là thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 06/2001/TT-BKH ngày 20 tháng 9 năm 2001 hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý cà sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và thông tư liên tịch Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài chính số 02/2003/TTLT-BKH-BTC ngày 17 tháng 3 năm 2003 hướng dẫn lập kế hoạch tài chính đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Các văn bản này đã tạo ra một hành lang pháp lý trong quản lý và sử dụng vay nợ nước ngoài nhằm đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan có liên quan trong việc khai thác vốn vay nước ngoài, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng vốn ODA trong việc trả nợ. Đây cũng chính là điều kiện quan trọng nhằm tạo sự tin tưởng đối với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế cho Việt Nam.
2. Các nhà tài trợ và mục tiêu ưu tiên ở Việt Nam
Trong giai đoạn từ 1993 đến nay, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội nói chung và công cuộc xoá đói giảm nghèo nói riêng. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng vai trò quan trọng góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh khi nguồn ODA khó có khả năng gia tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực rất lớn, Chính phủ Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA.
Hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ hợp tác với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ. Mục tiêu chung nhất của các nhà tài trợ là giúp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, song mỗi nhà tài trợ lại có những mục tiêu cụ thể khác nhau và có những ưu tiên khác nhau. Sau đây là một số nhà tài trợ tiêu biểu và mục tiêu ưu tiên của họ.
Nhà tài trợ
Ưu tiên ở Việt Nam
Nhật
Hạ tầng kinh tế, dịch vụ và xoá đói giảm nghèo
Đức
Hỗ trợ cải cách kinh tế; phát triển hệ thống giao thông
Mỹ
Cứu trợ nạn nhân chiến tranh và trẻ em mồ côi
Pháp
Phát triển nhân lực, GTVT và TTLL
Thuỵ Điển
Hỗ trợ kinh tế và xoá đói giảm nghèo
Anh
Xoá đói giảm nghèo và GTVT
ADB
Kết cấu hạ tầng và xoá đói giảm nghèo
WB
Tín dụng, GTVT và xoá đói giảm nghèo
IMF
Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín dụng xoá đói giảm nghèo
UNDP
Phát triển mạng lưới an sinh xã hội, Y tế
3. Những ưu điểm của nguồn vốn ODA trong xoá đói giảm nghèo
Để tiếp tục thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư phát triển rất lớn. Theo tính toán của Chính phủ Việt Nam, trong giai đoạn 2001 – 2005 Việt Nam cần khoảng 60 tỷ USD vốn đầu tư phát triển, trong đó nguồn vốn huy động bên ngoài khoảng 20 tỷ USD gồm khoảng 11 tỷ USD FDI và 9 tỷ USD ODA. Với chính sách phát triển lấy con người làm trung tâm, tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn mang đậm tính chất vì người nghèo. Với quan điểm như vậy, Việt Nam đã xây dựng thành công Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và trở thành nước đầu tiên ở Châu á đã hoàn tất chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện. Các nhà tài trợ ODA đã biểu thị sự ủng hộ và sẵn sàng tài trợ cho Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi trong việc huy động vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, trong việc thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo chúng ta không chỉ cần vốn mà còn cần những yếu tố khác như hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ công tác đào tạo, tiếp thu công nghệ v.v và nguồn vốn ODA có thể đáp ứng được những yêu cầu này. Hơn thế nữa, nguồn vốn ODA mang tính ưu đãi rất lớn đặc biệt trong hỗ trợ xoá đói giảm nghèo có một lượng rất lớn vốn ODA là không hoàn lại.
Như vậy, bên cạnh nguồn vốn huy động trong nước thì huy động và sử dụng nguồn vốn ODA trong xoá đói giảm nghèo có những ưu điểm riêng, nếu chúng ta biết khai thác một cách có hiệu quả thì nguồn vốn này sẽ góp phần hết sức quan trọng trong việc thực hiện thành công chiến lược xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
4. Tình hình thu hút và sử dụng ODA trong 10 năm qua (1993 – 2003)
4.1. Tình hình vận động
Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế (1993), Việt Nam đã rất tích cực trong vận động tìm kiếm tài trợ từ các nhà tài trợ quốc tế. Hàng năm, Việt Nam tổ chức hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (CG), thông qua các hội nghị này Chính phủ Việt Nam đưa ra những định hướng ưu tiên thu hút ODA của Việt Nam, kiểm điểm tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, đưa ra những cam kết với nhà tài trợ và cũng thông qua đó các nhà tài trợ nắm bắt được những ưu tiên và định hướng của Việt Nam để đưa ra cam kết mức hỗ trợ cho Việt Nam. Qua 10 lần hội nghị (1993 – 2002) các nhà tài trợ đã cam kết hỗ trợ cho Việt Nam tổng số vốn là 22,6 tỷ USD.
Trong năm 2003, các cơ quan Chính phủ đã làm việc với các đoàn đến từ các tài chính quốc tế như WB, ADB cũng như các nhà tài trợ song phương như Nhật, Pháp, Đức… Thông qua các hoạt động vận động tài trợ chính thức, không chính thức, song phương và đa phương này, các nhà tài trợ đã xác định được nhu cầu, định hướng ưu tiên thu hút ODA của Chính phủ Việt Nam và cũng như xác định được lĩnh vực mà họ có thế mạnh để đầu tư cho Việt Nam. Đồng thời, thông qua các hoạt động này, các cơ quan chính phủ đã giúp các nhà tài trợ hiểu rõ về những cam kết cũng như nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện cải cách nền kinh tế nói chung và lĩnh vực ODA nói riêng.
Hội nghị CG giữa kỳ được tổ chức tháng 6 năm 2003 tại Sa Pa là một điểm nhấn trong công tác vận động ODA của Việt Nam. Tại hội nghị này, các nhà tài trợ đã tập trung góp ý kiến cho kế hoạch phát triển của Việt Nam trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và các vấn đề về hài hoà thủ tục giữa nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam trong sử dụng ODA.
Tháng 12 năm 2003 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đã được tổ chức. Tại Hội nghị này các cơ quan của Chính phủ và các nhà tài trợ đã trao đổi thẳng thắn, minh bạch về tình hình thực hiện nhiêm vụ phát triển kinh tế, tình hình triển khai Chiến lược về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo , nâng cao hiệu quả ODA và giảm chi phí giao dịch…cũng tại hội nghị lần này , với sự tin tưởng vào tương lai phát triển của Việt Nam, các nhà tài trợ đã đồng thuận cam kết mức ODA cao nhất từ trước đến nay cho Việt Nam với số tiền lên đến 2,83 tỷ USD.
Bảng 4.1: Cam kết ODA qua các năm
Năm
Vốn cam kết (tỷ USD)
Tăng (giảm) so với năm trước (tỷ USD)
Tốc độ tăng (%)
1993
1.81
1994
1.94
0.13
7.18
1995
2.26
0.32
16.49
1996
2.43
0.12
5.30
1997
2.40
-0.03
-1.23
1998
2.20
-0.2
-8.33
1999
2.21
0.01
0.45
2000
2.40
0.19
8.59
2001
2.40
0.0
0.0
2002
2.55
0.15
6.25
2003
2.83
0.28
10.98
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhìn chung, kể từ khi cộng đồng quốc tế nối lại viện trợ cho Việt Nam (10 năm qua), khối lượng vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam thông qua các Hôi nghị CG có xu hướng tăng dần qua các năm. Sở dĩ như vậy là do Việt Nam đã có những cam kết với các nhà tài trợ trong việc quản lý và sử dụng hiêụ quả nguồn vốn này. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được các mục tiêu, đề án phát triển, các chương trình dự án huy động vốn ODA phù hợp với mục tiêu và hướng ưu tiên của nhà tài trợ như Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS), Chương trình tăng trưởng và giảm nghèo (PRGF), Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo (PRSC)… Hơn nữa, Việt Nam là nước có môi trường chính trị, xã hội rất ổn định, có nhiều tiềm năng phát triển và các nhà tài trợ rất tin tưởng vào khả năng phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn vào bảng số liệu ta cũng thấy rằng trong hai năm 1997 và 1998 lượng vốn ODA cam kết giảm xuống so với năm trước đó và tốc độ tăng là số âm. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là trong hai năm 1997 và 1998 xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á làm cho phần lớn các nền kinh tế trong khu vực rơi vào khủng hoảng, nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn ngay cả ở những nước cung cấp viện trợ như Nhật Bản, Đài Loan.
4.2. Tình hình ký kết hiệp định
a) Cơ sở pháp lý của việc đàm phán, ký kết hiệp định
Việc đàm phán, ký kết các hiệp định về ODA căn cứ theo điều 9 của Nghị định số 17/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Các quy định cụ thể như sau:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan lập danh mục chương trình, dự án ODA của Nhà tài trợ tương ứng và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ và các Cơ quan có nhu cầu ODA chuẩn bị nội dung và tiến hành đàm phán, ký kết với Nhà tài trợ các điều ước quốc tế khung về ODA.
3. Trường hợp nội dung dự thảo điều ước quốc tế khung về ODA có những điều khoản không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Cơ quan cấp Bộ và tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
4. Việc ký kết điều ước quốc tế khung về ODA thực hiện theo quy định của Pháp lệnh về Ký kết và Thực hiện điều ước quốc tế.
5. Sau khi điều ước quốc tế khung về ODA đã được ký kết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn bản cho Cơ quan chủ quản về chương trình, dự án được Nhà tài trợ đồng ý xem xét tài trợ trong từng thời kỳ để tiến hành các bước chuẩn bị tiếp theo.
6. Đối với các khoản ODA do Nhà tài trợ cung cấp theo chương trình hoặc dự án riêng lẻ không nằm trong kế hoạch và không ký kết điều ước quốc tế khung về ODA, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan chức năng trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chủ trương và thủ tục cho tiếp nhận.
b) Tình hình ký kết hiệp định
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều thay đổi, các nước và tổ chức cung cấp viện trợ đang có xu hướng cắt giảm nguồn tài trợ và giữa các nước nhận tài trợ đang có sự cạnh tranh trong việc thu hút ODA. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ quốc tế, Việt Nam vẫn được các nhà tài trợ ưu tiên cung cấp một số lượng tương đối lớn vốn ODA. Bình quân mỗi năm các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam khoảng 2,31 tỷ USD, trong đó, số vốn đã được chuyển thành hiệp định ký kết là 13.709 tỷ USD, bình quân mỗi năm là 1,25 tỷ USD bằng 53.9% tổng số vốn cam kết.
Bảng 4.2a: Giá trị vốn ODA theo hiệp định ký kết (1993 – 2002)
Đơn vị tính: 1000USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Jun-02
Vốn ký kết
526.0
791.5
1608.4
1023.1
1174.4
1660.9
1460.7
1278.1
1545.0
741.1
Nguồn: Bộ Kế hoạch và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28679.doc