Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.107 Km2, là tỉnh có miền núi, vùng cao-biên giới, có đồng bằng-miền biển, xếp thứ 6 về diện tích trong cả nước. Thanh Hoá có phía bắc tiếp giáp 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hùa Phăn của nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; phía Đông là vinh Bắc Bộ với chiều dài bờ biển là 102Km. Thanh Hoá nằm ở cửa ngõ nối liền Bắc Bộ và Trung Bộ. Thanh Hoá có vị trí rất thuận lợi: có đường sắt, quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua, có cảng biển nước sâu Nghi Sơn đảm bảo cho tàu 10 ngàn tấn trở lên ra vào dễ dàng, là cửa ngõ thông thương với nước ngoài.
64 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích cực, nhưng đã bị một số cơ quan quản lý ở địa phương lợi dụng, gây thủ tục phiền hà làm tăng chi phí của người lao động và doanh nghiệp trong việc tuyển nguồn lao động.
Còn nhiều doanh nghiệp chưa mạnh cả về năng lực tài chính và cán bộ. Tồn tại hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong việc khai thác thị trường, chuẩn bị nguồn lao động, tiền môi giới…Có những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tuyển chọn lao động qua khâu trung gian, nảy sinh tiêu cực, không công khai minh bạch về chi phí mà người lao động phải đóng góp. Việc giải quyết tranh chấp và xử lý những phát sinh ở nước ngoài của doanh nghiệp còn thiếu tính chuyên nghiệp.
Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn cao ( khoảng 10-15% ) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động VN. Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi XKLĐ vẫn còn khá phổ biến.
Tuy chất lượng lao động nước ta đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn tồn tại không ít người lao động còn hạn chế về trình độ, tác phong làm việc, ý thức chấp hành pháp luật của nước sở tại, vi phạm hợp đồng lao động…Những điều này làm ảnh hưởng đến khả năng duy trì và phát triển thị trường lao động ở nước ngoài của nước ta.
1.6.2.2 Nguyên nhân
Nhận thức về XKLĐ còn chưa thống nhất nên chưa xác định đúng vị trí, vai trò của XKLĐ trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong chiến lược việc làm. Các cơ quan quản lý phối hợp chưa đồng bộ nên việc ban hành và thực hiện các chính sách, quy định và hướng dẫn về XKLĐ còn chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước và thế giới.
Quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở chưa chặt chẽ, chưa xử lý nghiêm những vi phạm quy định của pháp luật về XKLĐ. Công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện và xử lý vi phạm cũng hạn chế.
Đầu tư của Nhà nước cho XKLĐ, nhất là đầu tư cho khai thác và phát triển thị trường, đào tạo chuẩn bị nguồn lao động có nghề và ngoại ngữ chưa tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ và quy mô XKLĐ. Công tác dự báo thông tin thị trường lao động ngoài nước chưa được sự hỗ trợ đầy đủ của các cơ quan chức năng.
Doanh nghiệp XKLĐ chưa đủ mạnh về năng lực tài chính và đội ngũ cán bộ nên năng lực cạnh tranh còn yếu. Một số doanh nghiệp chưa tập trung đầu tư cho các hoạt động XKLĐ và thiếu quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực.
Một số bộ phận người lao động chưa có ý thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ khi đi làm việc ở nước ngoài, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt của bản thân, không có ý thức về danh dự và cộng đồng. Nhiều lao động còn thụ động trong việc xác định nghề nghiệp, công việc nước đến làm việc.
Cơ sở vật chất, phương pháp và hình thức cũng như tính chuyên nghiệp trong việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách và tình hình XKLĐ còn nhiều hạn chế.
1.7 Thách thức của quá trình XKLĐ ở nước ta trong bối cảnh suy thoái nền kinh tế thế giới
Theo dự báo của Tổ chức Lao Động Quốc Tế (ILO), trong năm 2009 thì toàn thế giới sẽ cắt giảm khoảng 210 triệu chỗ làm. Đáng chú ý, các lĩnh vực cắt giảm lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực xây dựng, sản xuất, chế tạo, dịch vụ, những lĩnh vực lâu nay vốn là thế mạnh của lao động xuất khẩu Việt Nam.
Nguy cơ nhiều lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải về nước trước thời hạn trong năm 2009 là khó tránh khỏi.
Nhiều doanh nghiệp cho biết, năm 2008 là một năm khá vất vả đối với công tác xuất khẩu lao động. Nhiều hợp đồng xuất khẩu từ đối tác nước ngoài đã bị thu hẹp về số lượng tuyển dụng. Những thị trường mà số lượng vẫn ổn định thì lại có xu hướng giảm lương. Vì thế sự cạnh tranh giữa các công ty cung ứng lao động cũng trở nên gay gắt hơn.
Theo ông Đoàn Đại Thành, Phó giám đốc công ty Cung ứng nhân lực quốc tế và Thương mại ( Sona), mới đây nhiều doanh nghiệp tại Malaysia đã thu hẹp sản xuất và kết thúc sớm hợp đồng với lao động Việt Nam. “Vài chục lao động của công ty ông đưa đi được hơn một năm đã phải về nước trước thời hạn vì ít việc làm, thu nhập thấp”. Ông cho biết.
Đấy là chưa kể đến việc thị trường truyền thống này đã không còn sức hấp dẫn. Trước đây, thị trường này đã từng tiếp nhận đến 30.000 lao động/năm thì năm 2008, thị trường này chỉ tiếp nhận hơn 7.800 lao động
Thị trường Đài Loan năm nay vươn lên đứng đầu về khả năng tiếp nhận (đã đưa trên 30.000 người), nhưng mấy tháng cuối năm lại có dấu hiệu chững lại. Lý do là nhiều doanh nghiệp sản xuất ngưng trệ, đóng cửa một phần hay toàn bộ công xưởng. Lao động Việt Nam tại đây cũng đang đứng trước nguy cơ mất việc làm.
Những hợp đồng được ký kết thì tiến độ đưa người đi rất chậm. Theo nhiều doanh nghiệp, không thông báo chính thức, nhưng phía đối tác nước ngoài bao giờ cũng ưu tiên tuyển người bản địa. “ Cơ quan nhập cư của họ tìm cách gây khó dễ, kéo dài thời gian cấp visa khiến lao động Việt Nam phải chờ đợi rất lâu. Trước chỉ chờ từ 3-5 tháng thì nay có khi phải cả năm”, lãnh đạo một công ty cho biết.
Tại một số thị trường truyền thống khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, nhu cầu lao động không nhiều và đang có dấu hiệu tiếp nhận chậm lại do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Lao động đang làm việc tại các quốc gia này thì thu nhập cũng giảm do không có giờ làm thêm.
Các thị trường mới mở như Trung Đông đang có nguy cơ bị thu hẹp do các nước này chủ yếu sống nhờ vào dầu mỏ. Nay giá dầu trên thế giới giảm mạnh khiến các công trình đầu tư, nhất là ngành xây dựng vốn tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam, buộc phải giãn tiến độ. Thêm vào đó, Qatar lại đang xem xét không cấp visa cho lao động Việt Nam do một số phát sinh trong lao động như trộm cắp, rượu chè.
Những thị trường cao cấp như Australia, Đông Âu vốn đã khó xâm nhập thì nay cánh cửa đưa lao động Việt Nam sang càng trở nên hẹp. Cộng hoà Czech mới đây đã ngừng cấp visa cho lao động Việt Nam khiến hàng nghìn lao động đã nộp tiền cho các doanh nghiệp đang lâm vào cảnh “dở khóc, dở cười”.
Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp XKLĐ phải hoạt động cầm cự với những đơn hàng ít ỏi, thậm chí phải chuyển sang các lĩnh vực vốn không phải sở trường như du lịch, đầu tư vào xây dựng, bất động sản...
1.8 Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác xuất khẩu lao động
Sự nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam bắt đầu vào năm 1980, trong bối cảnh đất nước hết sức khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế kém (khoảng 2,3%/năm), nền kinh tế thiếu vốn sản xuất nhưng dư thừa lao động. Lực lượng lao động thiếu việc làm rất lớn, nhất là công nhân tại các xí nghiệp, thanh niên xung phong, bộ đội xuất ngũ và thanh niên ở khu vực thành thị. Chính vì vậy, ngày 11/02/1980 Chính phủ đã ra Quyết định số 46/CP về việc đưa một bộ phận lao động Việt Nam ra nước ngoài để làm việc có thời hạn và bồi dưỡng nâng cao tay nghề nhằm "Giải quyết việc làm cho một bộ phận thanh niên ta”, và "thông qua hợp tác lao động nhờ các nước anh em đào tạo một đội ngũ lao động có tay nghề vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nước ta sau này”.
Từ năm 1983-1984 Nhà nước chủ trương mở rộng sự hợp tác lao động ra một số nước ngoài XHCN "Cử chuyên gia sang giúp các nước đang phát triển ở châu Phi và Trung cận Đông”.
Từ năm 1991 tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi. Ở nhiều nước xảy ra khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội, đặc biệt là sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô (cũ), và Đông Âu, chiến tranh Vùng Vịnh (1991-1992), dẫn đến nhiều xí nghiệp bị phá sản, thiếu việc làm, các nước đã và đang sử dụng lao động Việt Nam thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài giảm xuống.
Ngày 06/11/1991, Chính phủ ra Nghị định số 370/HĐBT ban hành Quy chế về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xác định hiệu quả kinh tế là mục tiêu cơ bản của xuất khẩu lao động. Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động, các doanh nghiệp có đủ điều kiện hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, được Bộ Lao động - TBXH cấp giấy phép chuyên doanh, chủ động tìm kiếm thị trường lao động, trực tiếp ký kết hợp đồng cung ứng lao động với đối tác nước ngoài, tuyển chọn, đưa lao động đi, và tổ chức quản lý, bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong và sau khi hết hạn hợp đồng lao động theo quy định của luật pháp Việt Nam.
Hoạt động xuất khẩu lao động đã được luật hóa bằng việc ngày 23/06/1994, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Lao động. Các vấn đề nảy sinh thuộc lĩnh vực xuất khẩu lao động được thống nhất xây dựng, bổ sung, sửa đổi dựa trên những quy định của Bộ Luật này. Để cụ thể hóa Bộ Luật Lao động, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/CP quy định chi tiết việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thay thế Nghị định số 370/CP.
Tại Chỉ thị số 41/CT-TW, Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định "Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, ...cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 41/CT-TW, ngày 20/9/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 152/1999/NĐ-CP quy định việc đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Để phù hợp với tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và di dân quốc tế, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới, năm 2002 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Bộ Luật Lao động đối với việc xuất khẩu lao động. Tiếp đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. Nghị định này thể hiện một quan điểm phát triển về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động, đánh giá cao vai trò của xuất khẩu lao động về mặt kinh tế - xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định “... Tiếp tục thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động” .
Trước tình hình, tỷ lệ lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn cư trú bất hợp pháp ngày càng cao, ngày 11/11/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2005/NĐ-CP về quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài nhằm xử lý đối với người lao động phá hợp đồng ở lại nước ngoài làm ăn, cư trú bất hợp pháp. Quy định trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với người lao động bỏ trốn và nếu cố tình bỏ trốn thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh “ở lại nước ngoài trái phép”. Nhằm thực hiện Nghị định số 141, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ ngành liên quan (Ngoại giao, Tư pháp, Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) ban hành 03 Thông tư hướng dẫn thi hành.
Nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia trong thời gian tới, phù hợp với cơ chế thị trường, ngày 29/11/2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, luật sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. So với Pháp luật hiện hành về xuất khẩu lao động, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có những điểm mới như mở rộng loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu lao động, các hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chế độ tài chính trong hoạt động xuất khẩu lao động, chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật xuất khẩu lao đông. Chính phủ có Nghị định số 126/2007/NĐ- CP ngày 01/8/2007 và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có Thông tư số: 21/2007/TT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 10 năm 2007 hướng dẫn một số điều Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/ 8/2007của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Công văn số 1410/NHNo-TD ngày 23/5/2007 của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn về việc Hướng dẫn cho vay người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. ( Thay thế công văn 2375/NHNo-TD ngày 2/7/2004 NHNo và PTNNVN).
Thông tư Liên tịch số 11/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 21/7/2008 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước.
Quyết định số 61/QĐ-LĐTBXH ngày 12/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về mức tiền môi giới người lao động hoàn trả cho doanh nghiệp.
Hiện nay, chúng ta đang soạn thảo để trình các cấp có thẩm quyền ban hành một số văn bản hướng dẫn sau:
Thông tư Liên tịch hướn dẫn việc xem xét xử các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định mẫu và nội dung Hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về việc thành lập ban điều hành Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước và quy chế của Ban điều hành.
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về việc ban hành quy chế làm việc của Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về mức tiền ký quỹ của người lao động.
Như vậy, hệ thống các văn bản pháp luật này sẽ điều chỉnh hầu hết các mặt và lĩnh vực của hoạt động xuất khẩu lao động và tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động phát triển trong thời kỳ mới.
Phần thứ hai
Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động và chuyên gia tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2004-2008.
2.1 Khái quát chung về đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội tỉnh Thanh Hoá.
2.1.1 Vị trí địa lý
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.107 Km2, là tỉnh có miền núi, vùng cao-biên giới, có đồng bằng-miền biển, xếp thứ 6 về diện tích trong cả nước. Thanh Hoá có phía bắc tiếp giáp 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hùa Phăn của nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; phía Đông là vinh Bắc Bộ với chiều dài bờ biển là 102Km. Thanh Hoá nằm ở cửa ngõ nối liền Bắc Bộ và Trung Bộ. Thanh Hoá có vị trí rất thuận lợi: có đường sắt, quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua, có cảng biển nước sâu Nghi Sơn đảm bảo cho tàu 10 ngàn tấn trở lên ra vào dễ dàng, là cửa ngõ thông thương với nước ngoài.
Thanh Hóa là tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng:
2.1.1.1 Tài nguyên đất
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả.
2.2.1.2 Tài nguyên rừng
Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài; có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ … Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha .
2.2.1.3 Tài nguyên biển
Thanh Hoá có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Đây cũng là những trung tâm nghề cá của tỉnh. Ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ thuận lợi cho nuôi nhuyễn thể vỏ cứng như ngao,sò… Vùng biển Thanh Hoá có trữ lượng khoảng 100.000 - 120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao.
2.2.1.4 Tài nguyên khoáng sản
Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng; có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác.
2.2.2 Đặc điểm kinh tế
Thanh Hóa là một tỉnh mà sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, tính đến cuối năm 2008 thì số lao động làm việc trong ngành này là 1.357.133 người (chiếm 63% so với số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế của tỉnh). Thanh Hóa vẫn chưa khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn tài nguyên rừng. Trong năm 2008 thì số lao động làm việc trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp chế biến nói riêng chiếm tỷ trọng thấp so với số lao động trong độ tuổi lao động của cả tỉnh (chiếm 19,5%) nhưng tỉnh cũng đã cố gắng thực hiện việc chuyển đổi kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong năm 2008 toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 52.370 lao động, đạt 104,74% kế hoạch năm 2008 và tăng 9,6% so với năm 2007. Trong tổng số 52.370 lao động được phân bổ theo các ngành sau: Lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tạo việc làm cho 22.257 lao động, chiếm 42,49%; dịch vụ- du lịch- thương mại tạo việc làm cho 22.782 lao động, chiếm 43,50%; Nông- lâm- ngư nghiệp tạo việc làm cho 7.331 lao động, chiếm 14,01%. Góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4,3% ( năm 2007 là 4,53%; năm 2006 là 4,79%) và giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn xuống còn 7,31% (năm 2007 là 7,52%; năm 2006 là 9,3%). Trong năm 2009 thì tỉnh cũng đặt ra những chỉ tiêu nhằm thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ bằng mục tiêu chuyển đổi số lao động đang làm việc trong các ngành này ( giảm tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp xuống còn 60%, tăng tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ lên 21,5% và 18,5%).
2.2.3 Đặc điểm dân số và lao động tỉnh Thanh Hóa.
Thanh Hoá là một tỉnh có dân số đông, tuy nhiên dân số của Thanh Hoá chủ yếu tập trung ở nông thôn ( chiếm 90% dân số cả tỉnh), ở thành phố chỉ chiếm có 10%. Điều đó cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng trong việc phân bổ dân cư của tỉnh, và điều đó cũng làm cho sự phát triển kinh tế của tỉnh bị ảnh hưởng lớn. Dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh chiếm tỷ lệ cao ( chiếm 64,37%), tuy nhiên thì đa phần lại tập trung ở nông thôn (chiếm 87% dân số trong độ tuổi lao động), thành thị chỉ chiếm 13%, điều đó giải thích tại sao Thanh Hoá có nền kinh tế chưa phát triển.
Trong năm 2008 thì tỷ lệ lao động qua đào tạo đã tăng cao hơn (33,5%) so với năm 2006 và 2007 (31,5% và 29%). Tuy nhiên tốc độ tăng vẫn chưa cao và lao động qua đào tạo nghề chiếm 22,8%. Điều đó cho thấy chất lượng lao động của tỉnh còn thấp, chưa đáp ứng được so với nhu cầu phát triển của cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng. Trong những năm tiếp theo thì tỉnh cần có những biện pháp để đào tạo nhằm nâng cao chất lượng lao động trong tỉnh để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng.
Trước tốc độ gia tăng dân số của tỉnh trong các năm trước thì dân số của tỉnh trong năm 2009 sẽ được dự đoán là 3.752.140 người, trong đó lao động trong độ tuổi lao động là 2.441.520 người (chiếm 65,07% dân số cả tỉnh) cao hơn so với tỷ lệ năm 2008 (năm 2008 tỷ lệ này là 64,37%). Như vậy bước sang năm 2009 thì tỉnh sẽ phải đối mặt với số người trong độ tuổi lao động cao hơn năm 2008, điều đó đặt ra cho các Ban, ngành những nhiệm vụ hết sức khó khăn nếu như muốn đạt được những mục tiêu về việc tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (mục tiêu năm 2009 là 36,5%), giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nâng cao tỷ lệ có việc làm ở nông thôn ( năm 2009 thì tỉnh đặt tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4,2%, còn tỷ lệ có việc làm ở nông thôn được nâng cao lên 92,8%).
Dân số- Lao động- Việc làm tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006-2010
Biểu số 5
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện 2006
Thực hiện 2007
Thực hiện 2008
Dự báo 2009
Dự báo 2010
1
Dân số
T.đó: +Thành thị
+Nông thôn
Người
Người
Người
3.682.087
367.515
3.314.572
3.697.227
373.207
3.324.020
3.726.060
381.543
3.344.517
3.752.140
399.340
3.352.800
3.781.000
406.470
3.374.530
2
Lao động trong độ tuổi
(Tỷ lệ so với dân số)
T.đó:+Thành thị
+Nông thôn
Người
%
Người
Người
2.308.245
(62,69)
265.448
2.042.796
2.350.327
(63,57)
282.039
2068.287
2.398.470
(64,37)
299.820
2.098.650
2.441.520
(65,07)
319.850
2.121.670
2.485.250
(65,70)
347.930
2.137.320
3
LĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế của tỉnh
Chia theo khu vực
+Thành thị
+Nông thôn
Chia theo ngành:
+Nông-Lâm-Ngư nghiệp
(Tỷ lệ so với LĐĐLV)
+Công nghiệp-Xây dựng
(Tỷ lệ so với LĐĐLV)
+Dịch vụ
(Tỷ lệ so với LĐĐLV)
Người
Người
Người
Người
%
Người
%
Người
%
2.048.508
208.948
1.839.560
1.413.470
69,00
297.034
14,50
338.004
16,50
2.104.356
214.637
1.889.719
1.388.875
66,05
355.637
16,90
359.844
17,05
2.154.218
220.385
1.933.833
1.357.133
63,00
420.075
19,50
377.010
17,50
2.200.990
226.230
1.974.760
1.320.592
60,00
473.215
21,50
407.183
18,50
2.240.100
231.750
2.008.350
1.232.050
55,00
560.030
25,00
448.020
20,00
4
LĐ đã qua đào tạo
T.đó: LĐ qua đào tạo nghề
%
%
29,0
18,5
31,5
21,0
33,5
22,8
36,5
24,8
40,0
27,0
5
Lao động được tạo việc làm
Chia theo ngành:
+Công nghiệp-Xây dựng
+Nông-Lâm-Ngư nghiệp
+Dịch vụ
Chia theo chương trình:
+Các chương trình phát triển kinh tế-xã hội
+Chương trình vay vốn hỗ trợ việc làm theo QĐ71/CP
+Chương trình XKLĐ
Người
Người
Người
Người
Người
Người
Người
45.657
19.533
7.798
18.326
29.970
7.507
8.181
47.750
20.157
7.315
20.278
31.515
7.525
8.710
52.370
22.257
7.331
22.782
34.334
8.557
9.479
53.000
23.000
7.500
22.500
34.000
9.000
10.000
55.000
24.000
8.000
23.000
34.000
10.000
11.000
6
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
%
4,79
4,53
4,30
4,20
4,00
7
Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn
%
9,30
7,52
7,31
7,20
7,00
Nguồn: Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Thanh Hóa
2.2 Tổng quan về Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Thanh Hoá
2.2.1 Vị trí và chức năng
Sở Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Thanh Hoá; có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về: việc làm; dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công; bảo hiểm xã hội ( bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới; phòng chống tệ nạn xã hội ( gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội); các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở; thực hiện một số quyền hạn, nhiệm vụ theo phân cấp, uỷ quyền của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật.
Sở Lao động-Thương binh và Xã hội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND tỉnh, dồng thời chịu sự kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.
2.2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn
- Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá ban hành các quyết định, chỉ thị về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình.
- Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực quản lý của Sở phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
- Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá quyết định việc phân công, phân cấp quản lý về lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội đối với Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cơ quan, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra thực hiện.
- Hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết, đánh giá và tổng hợp tình hình thực hiện các quy định của pháp luật, chế độ chính sách, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật thuộc các lĩnh vực quản lý của Sở theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn kiểm tra hoạt động của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công thuộc các lĩnh vực quản lý của Sở; quản lý các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở;
- Thực hiện hợp tác qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21551.doc