Chuyên đề Những giải pháp đẩy mạnh công tác hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Xây dựng cơ sỡ vật chất cho các mô hình trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, trung tâm đào tạo nghề như các trung tâm: Huấn luyện nghề cá, trung tâm đào tạo nhân viên ngành du lịch - dịch vụ, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề trên cơ sở nguồn lực thực tế của địa phương để tạo nghề cho người lao động. Mặt khác, chính quyền TP cũng nên mở ra một số trung tâm đào tạo có bằng cấp và chứng chỉ quốc gia về trình độ quản lý cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Điều quan trọng đó là phải đưa ra các chương trình đào tạo có chất lượng toàn diện, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các trung tâm thực hiện công việc này, đưa ra quy chuẩn chất lượng cho các trung tâm muốn thực hiện công việc đào tạo này, đồng thời phải hỗ trợ các trung tâm này đứng trên phương diện chỉ đạo và phối hợp cùng các trung tâm nhằm đảo bảo được mục tiêu cuối cùng là đào tạo được đội ngũ nhân lực có trình độ và đầy đủ phẩm chất đủ sức đáp ứng cho nhu cầu phát triển của DNNVV, cũng như nền kinh ttế của thành phố. Đi đôi với công việc đó là nâng cao trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, đổi mới và có quy chế thông thoáng cho các trung tâm đào tạo hoạt động có chất lượng và hiệu quả.

doc79 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp đẩy mạnh công tác hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a xét cho toàn bộ nền kinh tế thì có thể nhận thấy rằng nền kinh tế hoạt động không hết hiệu suất, gây tổn thất cho xã hôi và không tận dụng hết tiềm năng của nền kinh tế và thiệt hại này quả thật là không nhỏ. Chính vì vậy hỗ trợ DNNVV về tín dụng sẽ không gây tổn thất phúc lợi xã hội, đảm bảo được sự phát triển, huy động hết mọi tiềm lực và điều quan trọng đó là thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV, đảm bảo được mục tiêu và chương trình phát triển của đất nước, nâng cao mức sống và thu nhập của nười dân. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV về tín dụng aMục tiêu Giúp cho các DNNVV có cơ hội tiếp cânh với các khoản tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, rút ngắn thời gian, giảm nhẹ chi phí của DNNVV trong việc hoàn tất hồ sơ tiếp cận tín dụng. Bồi dưỡng nâng cao năng lực xây dựng dự án khả thi cho các DNNVV. Huy động nguồn lực tài chính trung và dài hạn hợp pháp cả trong và ngoài nước để có nguồn vốn ổn địnhcho các DNNVV vay để đầu tư phát triển năng lực sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có ngành nghề cần khuyến khích phát triển, đem lại nguồn thu cho ngân sách thành phố, tạo công an việc làm cho người lao động, cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố…vv Đối tượng thụ hường đó là các DNNVV đã thành lập, vừa thành lập và chuẩn bị thành lập, các tổ chức tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp và các tổ chức hiệp hội. aBiện pháp thực hiện a, Hỗ trợ tiếp cận tín dụng: Hỗ trợ thông tin về tín dụng, ngân hàng cho các DNNVV. Trợ giúp để có điều kiện tiếp cận vốn tốt hơn như trợ giúp tư vấn xây dựng dự án miễn phí để vay vốn các tổ chức tín dụng, tiếp cận nguồn vốn thuộc các dự án ngành nghề được khuyến khích hỗ trợ tín dụng trong chiến lược phát triển KT – XH thành phố… Đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện pháp lý để các DNNVV đảm bảo các điều kiện vay vốn như xác định, công nhận giá trị tài sản trên đất, quyền sử dụng đất của các DNNVV thế chấp vay vốn. Đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm thông tin tín dụng cả về số lượng lẫn chất lượng. b, Thành lập qũy bảo lãnh tín dụng cho DNNVV: Đây là chủ trương đã có từ lâu theo quy định 193/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện do không có nguồn vốn đong góp của Ngân hàng thương mại, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trong và ngời nước. Thành phố cần tập trung xúc tiến nhanh và hình thành quỹ với số vốn điều lệ ban đầu 30 – 50 tỷ đồng, trong đó: Vốn từ ngân sách TW là 30%; vốn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế là 30%; vốn từ Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp là 30%; vốn từ các nguồn khác là 10%. Ngoài ra hàng năm thành phố sử dụng một phần nguồn vốn từ thu ngân sách để bổ sung vào vốn điều lệ cho quỹ. Nghiên cứu thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng để giúp quỹ bảo lãnh tín dụng mạnh dạn hơn trong hoạt động cho vay – chia sẽ rủi ro và triển khai nhanh việc huy động đóng góp của các Ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể dùng vốn điều lệ hoặc vốn huy động dài hạn để góp vốn. c, Chính sách tín dụng và thành lập quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV: Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, phát triển mạnh mẽ hình thức quỹ tín dụng nhân dân ở các làng nghề truyền thống… nhằm hỗ trợ tích cực và có hiệu quả trong việc tiếp cận vốn của các DNNVV, đồng thời giúp các doanh nghiệp này giảm bớt khó khăn trong thời gian đầu dự án mới đi vào hoạt động. Khuyến khích phát triển các mô hình tài chính vi mô, hoạt động dựa vào cơ chế chịu trách nhiệm chung và các thành viên tự giúp nhau, phát triển mạnh mẽ hình thức vay tín dụng cùng đầu tư chia sẽ lợi nhuận, tư vấn hỗ trợ làng nghề, không chỉ vốn mà cả thị trường tiêu thụ. Đó chính là mô hình gắn kết, kinh nghiệm sản xuất – vốn tín dụng – thị trường tiêu thụ. Xây dựng cơ chế lãi suất cho vay mềm dẻo dựa trên cơ sỡ căn cứ vào lãi suất huy động và thời gian thực hiện dự án. Đồng thời đối với các DNNVV làm ăn có uy tín, chấp hành tốt pháp luật nên đẩy mạnh cho vay tín chấp, vay không đảm bảo thế chấp…vv Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là tổ chức tài chính quốc tế tăng cường hỗ trợ tín dụng phát triển SXKD, rút ngắn thời gian; tiến hành thành lập quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV với cơ chế lãi suất và thời gian cho vay mềm dẻo nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ tích cực cóa hiệu quả, giảm bớt khó khăn về vốn cho DNNVV trong hoạt động SXKD. Cơ chế tài chính cho việc hình thành quỹ như sau: Đối với nguồn vốn ODA có thể thực hiện theo hình thức chính phủ vay rồi chuyển vốn cho địa phương hoặc chính phủ vay rồi cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc không lãi suất; Đối với vốn huy động từ trong nước có thể thực hiện theo hình thức cho vay Ngân sách địa phương cấp theo vốn điều lệ, vốn tín dụng hoặc vốn đóng góp của các đối tượng. Việc quản lý và điều hành Quỹ có hội đồng quản lý, ban kiểm soát và bộ máy điều hành tác nghiệp. Ø Thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV về tín dụng Nhìn chung, mặt bằng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn tương đối thấp so với các nước trong khu vực, trong tổng số các DNNVV có đến 70% quy mô nhỏ rất hạn chế về vốn kinh doanh. Theo kết quả điều tra từ chương tình phát triển dự án sông MêKông (MPDF) có đến 69,5% DN nhỏ và 47% DN vừa ở Việt Nam gặp khó khăn đầu tiên về vốn, 53% số giám đốc doanh nghiệp được hỏi cho rằng sự bất lực của họ trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư là vấn đề hàng đầu trong 3 vấn đề chính mà doanh nghiệp phải đối mặt. Đối với DNNVV, đặc biệt các DNDD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do không có những đảm bảo cần thiết, không có tài sản thuế chấp. Nhiều nghiên cứu cho thấy các DNNVV rất khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Các chủ DNNVV ngoài quốc doanh thường bắt đầu công việc kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động bằng vốn tự có và các nguồn tín dụng không chính thức. Nguồn này thường đòi hỏi người đi vay phải trả phí cao quá mức, thường thì lãi suất cao gâp 3-6 lần lãi suất ngân hàng. Theo kết quả nghiên cứu của MPDF có đến 79% các giám đốc DNNVV chủ yếu dựa vào các khoản tiếp kiệm tự có , cộng với tiền vay từ gia đình, đôi khi là bạn bè để duy trì hoạt động của DN. Đôi khi các DNNVV cũng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức ngân hàng nhưng chỉ có thể là nguồn tín dụng ngắn hạn. Mặc dù nhà nước đã có chính sách mở cửa thị trường tín dụng nhưng điều ngạc nhiên là tỷ suất nợ trên tổng tài sản của DNNVV lại vô cùng khiêm tốn, trung bình là 299 triệu đồng/1.710 triệu đồng (8%) trong DNNVV có vay nợ. Cũng chỉ có ½ số DNNVV được điều tra là có vay nợ, hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ các nguồn khác nhau. Đối với các DN ở Đà Nẵng, qua nhiều cuộc tiếp xúc giữa lãnh đạo thành phố với đại diện các DN thì thiếu vốn, khó vay… luôn là khó khăn lớn nhất của các DN NVV ngoài quốc doanh. Theo điều tra của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, chi nhánh tại Đà Nẵng qua thực hiện thư phỏng vấn 50 DN từ 15 đến 22 tháng 5 năm 2004, có đến 76,1% số DN được hỏi cho rằng khó khăn tài chính mà cụ thể là khả năng tiếp cận nguồn vốn là khó khăn lớn nhất mà các DN gặp phải, trong đó 28,3% cho rằng ảnh hưởng của thực trạng này đến hoạt động kinh doanh của DN đang ở mức nghiêm trọng. Vay từ quỹ hỗ trợ phát triển đầu tư: Đây là khoản vay với lãi suất ưu đãi ( khoảng 3%/năm) của nhà nước cho vay theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Theo số liệu của Sở KH-ĐT thành phố Đà Nẵng, Sở đã cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho 32 dự án năm 2000, trong đó DN ngoài quốc doanh 25 dự án, năm 2002 cấp 66 dự án, trong đó DN ngoài quốc doanh 41 dự án. Tuy nhiên, phần lớn các dự án đầu tư được cấp giấy chứng nhận ưu đãi của các Dn ngoài quốc doanh chưa được vay với lãi suất ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chưa thực hiện được bao nhiêu. Báo Đà Nẵng đã chua xót nhận xét rằng: “Hệ thống tín dụng ưu đãi nhà nước vẫn còn là một cái gì đó vượt ngoài tầm với của DNTN nói chung. Năm 2002, cả Thành phố chỉ có 2 DN nhận được vốn đầu tư từ chi nhánh quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, và 3 DN khác được vay ngắn hạn từ nguồn hỗ trợ xuất khẩu” Bảng 7: Tình hình huy động vốn của các DN ở Thành phố Đà Nẵng Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 2002 2003 2004 2005 1.Tín dụng thương mại Tỷ đồng 3.185 4.239 5.464 7.373 9.249 Trong đó: DNDD Tỷ đồng 500 729 1.175 1.895 3.361 %/tổng số % 15,70 17,20 21,50 25,70 36,37 2.Tín dụng ưu đãi Tr. đồng 203.800 42.795 147.752 144.271 46.790 Trong đó: DNDD Tr. đồng 0 0 1.750 2.760 2.198 %/tổng số % 0 0 0,01 0,02 4,70 3.Thuê mua tài chính Tr. đồng - - 33.253 70.272 140.834 Trong đó: DNDD Tr. đồng - - 29.190 67.130 138.496 %/tổng số % - - 87,80 95,53 98,34 (Nguồn: Tổng hợp từ nguồn Sở KH-ĐT; Cty cho thuê tài chính II - Chi nhánh Đà Nẵng; Ngân hàng nhà nước thành phố Đà Nẵng) Qua các số liệu trên, ta có thể thấy nguồn vốn có được của các DNNVV (ở đây là các DNDD) chủ yếu là vay từ các Ngân hàng thương mại và cho thuê mua tài chính. Trong những năm qua, trong số hơn 2.500 DNDD của Thành phố chỉ có 3 DN được vay ưu đãi là DNTN Dệt Đa Phước, Công ty CP SX-KD Văn hoá phẩm Phương Nam và Cty CP Tôn Đà Nẵng với tổng số tiền vay được là: 6.710 triệu đồng bằng 1,15% tổng số tiền cho vay ưu đãi trong 4 năm qua (1999-2003). Qua 4 năm (đến năm 2003) thực hiện Luật Doanh nghiệp và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, UBND thành phố đã cấp 157 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho các DN ngoài quốc doanh bằng 72% số giấy chứng nhận của thành phố. Đối với cho thuê tài chính, một hình thức tín dụng không đòi hỏi thủ tục phức tạp nhưng lãi vay cao hơn lãi suất tín dụng thương mại, thì DNDD sử dụng đến 98%, trong khi DNNN chỉ thuê mua chưa đến 2% trên tổng số đã được thuê mua. Tình trạng các DNNVV khó tiếp cận với các nguồn vốn chính thức của nhà nước tại Thành phố có nhiều nguyên nhân bắt nguồn từ cả hai phía: - Về phía các DNNVV, ngoài những hạn chế vốn có, không thể phủ nhận sự hạn chế của các DNNVV trong việc xây dựng các phương án, dự án kinh doanh có sức thuyết phục với người cấp vốn; nhiều DNNVV có ít thông tin về các nguồn tín dụng cũng như về cách tiếp cận tài chính, các DN còn thiếu những dự án khả thi đáp ứng đủ nhu cầu của Ngân hàng Thương mại; Không ít các DNNVV chưa thực sự minh bạch trong hồ sơ, sổ sách kế toán tài chính, điều này gây khó khăn không nhỏ đối với việc theo dõi, kiểm soát, đánh giá của người cho vay; Không ít các DN không thực hiện thanh toán đúng hạn làm mất uy tín đối với Ngân hàng… - Về phía các NH thương mại, qua phỏng vấn với các chủ DNNVV ở Đà Nẵng cho thấy những khó khăn khiến họ khó tiếp cận với NH là do các cán bộ NH cứng nhắc trong việc đánh giá các yêu cầu cho vay vốn; các yêu cầu về đảm bảo, thế chấp phức tạp; dường như chưa có một sự cảm thông với hoàn cảnh và điều kiện kinh doanh của các DNNVV. Nói cách khác là các cán bộ NH thiếu khả năng đánh giá hoạt động kinh doanh rủi ro và thiếu tư duy kinh doanh. Ngoài 2 nguyên nhân trên còn phải kể đến nguyên nhân khác quan là sự thiếu đồng bộ về cơ chế Luật pháp cũng như các chính sách cụ thể, thủ tục hành chính phức tạp. Theo nghiên cứu của Bộ Lao động – Thương binh xã hội năm 2002, trong vô số lý do khiến đơn đi vay của DNNVV bị từ chối thì lý do thiếu thế chấp chiếm 48%, quy định hành chính phức tạp chiếm 35%, kế hoạch kinh doanh kém và các lý do khác chỉ chiếm 5-12%. Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư từ khi triển khai đến nay trên địa bàn thành phố chưa có dự án nào được bảo lãnh tín dụng đàu tư, nguyên nhân chủ yếu là do để được bảo lãnh thì các doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện như: dự án có hiệu qủa KT –XH, đảm bảo hoàn trả được vốn vay. Từ năm 2001 quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận thêm hình thức hỗ trợ ngắn hạn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hình thức này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để mua nguyên vật liệu… thực hiện hợp đồng xuất khẩu, góp phần giải quết một phần bức xúc về vốn của doanh nhiệp. 2.2. Chương trình hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Ø Vì sao phải hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Trong tất cả các doanh nghiệp dù là lớn hay nhỏ thì nguồn nhân lực luôn là một nhân tố không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng và là khâu trung gian để chuyển các nguyên liệu đầu vào vào từng sản phẩm, nguồn nhân lực hay là con người sẽ đóng vai trò trong việc quản lý duy trì hoạt động của doanh nghiệp, dùng ý chí, suy nghĩ cách làm việc của mình để tiến hành mọi hoạt động cho doanh nghiệp. Hiện nay trong các DNNVV của nước ta vấn đề nguồn nhân lực đang được đặt trong tình trạng đáng báo động. Nguồn nhân lực của các DNNVV thiếu kiến thức thực tiễn và không được đào tạo bài bản từ nhân viên cho đến chủ doanh nghiệp. Do đội ngũ nhân lực thiếu hẳn đi những điều cần thiết từ họ nên thường xuyên đưa doanh nghiệp đi đến tình trạng cầm chừng, rất khó phát triển và hơn nữa là DN bị phá sản do các nhân viên và chủ doanh nghiệp thiếu trình độ. Để phát triển được doanh nghiệp thì phải dựa trên nền tảng nguồn nhân lực có chất lượng và đủ sức đáp ứng cho yêu cầu phát triển của doanh nghiệp cũng như những yêu cầu của kinh tế luôn biến đổi và luôn đòi hỏi khả năng và năng lực rất cao của các cá nhân bao gồm cả nhân viên lẫn nhà quản lý doanh nghiệp. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực aMục tiêu Đảm bảo nguồn lao động cả về số lượng lẫn chất lượng cho nhu cầu của DNNVV mà trước hết là ngành nghề được ưu tiên phát triển và được xác định là thế mạnh của thành phố, tạo ra lợi thế cho thành phố. Cung cấp những kiến thức cần thiết cho doanh nhân, những người có ý định khởi sự doanh nghiệp (đặc biệt là những hộ kinh doanh cá thể); nâng cao kiến thức cho chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, đặc bệt là những lao động chưa qua hết bậc PTTH, đạo tạo không chỉ cách là việc mà còn đào tạo luôn nề nếp và kĩ luật lao động, tác phong công nghiêp. Triển khai hoạt động đào tạo và khuyến khích “khởi sự doanh nghiệp” đến các xã nông thôn và miền núi. aBiện pháp thực hiện Kết hợp hình thức đào tạo dài hạn với các khóa ngắn hạn, đào tạo tại chổ, vừa học vừa vừa làm phù hợp với điều kiện và đặc điểm của đối tượng và nội dung lao động. Lao động hiện nay của các DNNVV thành phố đang thiếu người quản lý có năng lực và thiếu cả người lao động có tay nghề. Chính vì vậy các khóa đào tạo được mở ra không chỉ có dành cho người lao động mà còn dành cho nhà quản lý nhằm tạo được đội ngũ nguồn nhân lực đông về số lượng và đảm bảo về mặt chất lượng. Hình thức đào tạo được mở rộng, thời gian đào tạo phong phú hơn và đa dạng về vấn đề đào tạo là điều rất cần thiết đối với lao động của các DNNVV. Khuyến khích sự phát triển của các trung tâm đào tạo có chất lượng, đào tạo đúng trọng tâm và nhu cầu đối với nguồn nhân lực trong các DNNVV. Xây dựng cơ sỡ vật chất cho các mô hình trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, trung tâm đào tạo nghề như các trung tâm: Huấn luyện nghề cá, trung tâm đào tạo nhân viên ngành du lịch - dịch vụ, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề trên cơ sở nguồn lực thực tế của địa phương để tạo nghề cho người lao động. Mặt khác, chính quyền TP cũng nên mở ra một số trung tâm đào tạo có bằng cấp và chứng chỉ quốc gia về trình độ quản lý cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Điều quan trọng đó là phải đưa ra các chương trình đào tạo có chất lượng toàn diện, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các trung tâm thực hiện công việc này, đưa ra quy chuẩn chất lượng cho các trung tâm muốn thực hiện công việc đào tạo này, đồng thời phải hỗ trợ các trung tâm này đứng trên phương diện chỉ đạo và phối hợp cùng các trung tâm nhằm đảo bảo được mục tiêu cuối cùng là đào tạo được đội ngũ nhân lực có trình độ và đầy đủ phẩm chất đủ sức đáp ứng cho nhu cầu phát triển của DNNVV, cũng như nền kinh ttế của thành phố. Đi đôi với công việc đó là nâng cao trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, đổi mới và có quy chế thông thoáng cho các trung tâm đào tạo hoạt động có chất lượng và hiệu quả. Ø Thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Để tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khưoir nhiệp và phát triển doanh nghiệp, trong những năm qua, thành phố đã tổ chức được gần 100 lớp học với những nội dung thiết thực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Đào tạo công tác hạch toán, kế toán, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, nghiệp vụ XNK, tin học trong công tác kế toán, quản lý nhân sự, quy chế đấu thầu, các lớp học đầy đủ các ngành nghề như thương mại – dịch vụ, xây dựng và cả ngành nghề nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản…vv Bên canh đó thành phố cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế như ILO, SIDA, JICA… triển khai nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ quản lý doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Hình thức phối hợp này không chỉ đem đến một vấn đề là đào tạo mà còn đem dến cho các DNNVV thị trường mới và các cơ hội hợp tác kinh doanh mới. Thông qua hợp tác với các tổ chức trên các DNNVV học hỏi được rất là nhiều các bài học kinh nghiệm, các yêu cầu tiêu chuẩn và sự đòi hỏi cho nhu cầu phát triển của thời gian tới. Ngoài ra, hàng năm thành phố cũng đã trích ra một phần kinh phí của mình từ nguồn ngân sách của thành phố nhằm đào tạo nghề cho lực lượng lao động của một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố và hướng dẫn các doanh nghiệp đào tạo nghề tại chính doanh nghiệp. Cùng với các trung tâm dịch vụ việc làm phát triển mạnh trên địa bàn thành phố và được hổ trợ rất nhiều từ chính quyền, các trung tâm này đã giới thiệu được không ít việc làm cho lao động của thành phố, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và người lao động đang có nhu cầu tìm việc làm. Thành phố còn tổ chức các hội chợ việc làm hàng năm đây là những kênh cung cấp nguồn lao động có chất lượng và hiệu quả nhất, mo hình này ngày càng được nhân rộng, không chỉ chính quyền thành phố và các cơ quan có thẩm quyền mà các đơn vị khác cũng rất tích cực tham gia tổ chức ra các ngày hội việc làm và tư vấn tuyển dụng trên địa bàn thành phố. 2.3. Chương trình trợ giúp xúc tiến thương mại và xuất khẩu Ø Vì sao phải hỗ trợ DNNVV xúc tiến thương mại và xuất khẩu Để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các DNNVV trong thành phố, chính quyền và các cơ quan ban ngành có liên quan nên trợ giúp cho các DNNVV thành phố về việc xúc tiến thương mại và xuất khẩu. Các DNNVV khâu yếu nhất của nó chính là các hoạt động quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp trong thành phố không thể mở rộng được quy mô cũng như phát triển doanh chính là vì hoạt động thương mại chưa được mở rộng, nhiểu DN rất có tiềm lực nhưng hoạt động lại rất cầm chừng không có được bbước đột phá và không có được tầm ảnh hưởng rộng rải trong địa bàn thành phố chứ chưa nói gì đến vấn đề phát triển ra các địa bàn lân cận. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì các doanh nghiệp không đủ nguồn lực về vốn để đầu tư cho hoạt động đòi hỏi số vốn rất lớn này. Măt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu rất yếu trong khâu tìm kiếm, mở rộng thị trường. Các DNNVV rất bị động trong vấn đề này, thường lựa chọn của các DN đó là tìm đối tác lân cận hoặc cũng chỉ là các đơn vị bạn hàng thân thuộc của doanh nghiệp mà ít chú trọng tới phát triển ra bên ngoài. Thị trường xuất khẩu càng ngày có nhiều biến động và thay đổi khi mà Việt Nam đã tham gia vào kinh tế quốc tế, những yêu cầu và quy chuẩn gắt gao từ nước xuất khẩu, thêm vào đó là các định chế thương mại đã hạn chế đi sản lượng xuất khẩu của các DNNVV. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV xúc tiến thương mại và xuất khẩu aMục tiêu Hỗ trợ thông tin thị trường trong và ngoài nước; hỗ trợ tìm kiếm thị trường. Song song với quá trình đó là đẩy mạnh và khai thác tốt thị trường trong nước, đồng thời mở rộng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Khuyến khích và huy động các DNNVV tham gia vào hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu, từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới. Kêu goi thành lập các hiệp, các trung tâm hỗ trợ làm chức năng liên kết và định hướng cho các DNNVV trong nhiều lĩnh vực. Các hiệp hội sẽ đóng vai trò trung gian liên kết DNNVV vơi chính quyên và các chương trình được đưa ra với chính quyền thành phố. Đối tượng thụ hưởng là tất cả các DNNVV và các hiệp hội doanh nghiệp. Các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, các trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch. Các cơ quan quản lý nhà nước làm chức năng hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch. aBiện pháp thực hiện a, Hỗ trợ về thông tin thị trường: Cần triển khai nhanh chóng thành lập cá trung tâm thông tin thị trường, giá cả, mở rộng loại hình trung tâm giới thiệu sản phẩm, công nghệ. Dành địa điểm thuận tiện cho các trung tâm thuận lợi trong giao dịch, phát huy tốt vai trò của trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế trở thành trung tâm triển lãm lớn nhất của khu vực Miền trung - Tây nguyên và của cả nước. Đâu tư cho việc cập nhật và tăng thêm tính chuyên nghiệp cho các trang Web diện tử của thành phố để quảng bá (miễn phí) thu hút đầu tư và cung cấ thông tin cho các doanh nghiệp về thị trường, giá cả, đối tác kinh doanh. b, Hỗ trợ tìm kiếm thị trường: Hỗ trợ cho các DNNVV tham gia vào các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm của TP. Xây dựng chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài, tập trung vào những mặt hàng được thành phố công nhận là sản phẩm chủ lực của địa phương và những chương trĩnh xúc tiến thương mại trọng điểm của thành phố. Khai thác các văn phòng đại diện, chi nhánh công ty nước ngoài tại Đà Nẵng và coi đây là kênh xúc tiến thương mại quan trọng, tránh được nhiều rủi ro, giảm chi phí xúc tiến thương mại ở nước ngoài. c, trợ giúp xúc tiến thương mại và xuất khẩu: Xây dựng một thương hiệu hội chợ triển lãm mạnh và trở thành đầu mối giao thương của các doanh nghiệp Miền trung – Tây nguyên với các nước và thế giới. Hàng năm, thành phố xây dựng chương trình hỗ trợ daonh nghiệp tham gia hội thảo, hội chợ, tiển lãm trong và ngoài nước. Kết hợp với các hiệp hội hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội thảo, hội chợ, triển lãm trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài như EU, Mỹ, Nhật…vv. Thực hiện trao đổi thông tin hai chiều thường xuyên giữa các doanh nghiệp với các trung tâm này để doanh nghiệp nắm bắt kịp thời phục vụ sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ xây dựng chiến lược xuất khẩu và triển khai thực hiện chiến lược cho các ngành hàng được lựa chọn. tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các trung tâm cung ứng nguyên – phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Ø Thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV xúc tiến thương mại và xuất khẩu Trong những năm qua, thành phố đã có nhiều chính sách cũng như chương trình xúc tiên thương mại, khuyến khích đối với doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để mua nguyên vật liệu, thực hiện hợp đồng xuất khẩu, góp phần giải quết một phần bức xúc về vốn doanh nghiệp. Thành phố cũng phối hợp với bộ ngành trung ương triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại đạt hiệu quả cao như phối hợp với Bộ Thương Mại xét thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao. Chi nhánh phòng thương mại, công nghiệp Việt Nam tại Đà Nẵng tổ chức buổi tập huấn, hội thảo, tọa đàm về năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức và điều kiện gặp gỡ, giao lưu. Thực hiện nhiều chương trình giới thiệu, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp trên phương tiện truyền thông báo chí, được doanh nghiệp đồng tình ủng hộ. Bên cạnh việc giới thiệu chương trình Hội chợ triển lãm trong và ngời nước ssể các doanh nghiệp chủ động tham gia, hàng năm thành phố đã phối hợp tổ chức nhiều hội chợ triển lãm tại Đà Nẵng. Chất lượng của các hội chợ này ngày càng được nâng lên rõ rệt, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp của cả nước dến tìm hiểu thị trường và mở rộng hợp tác liên kết với các doanh nghiệp địa phương. Xác định việc tạo lập thị trường mới hoặc ổn định thị trường cũng là điều khó khăn của DNNVV, do đó thành phố cũng đã có nhiều giải pháp hỗ trợ đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng: Định hướng phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực của thành phố trong từng thời kỳ; hỗ trợ danh nghiệp liên kết tiêu thụ đối với sản phẩm xuất khẩu như thủy sản, may mặc…hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu thông qua việc cải cách thủ tục hành chính, hải quan mang tính gọn nhẹ, kịp thời tránh phiền hà cho Đà Nẵng. Nhìn chung, trong thời gian qua thành phố đã thực hiện nhiều biện pháp để thực hiện hỗ trợ XTTM, cũng như hoạt động trợ giúp xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp (trong đó có DNNVV) và được triển khaithực hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Tuy nhiều về số lượng DNNVV (đặc biệt là DNDD) tham gia vào chương trình này không nhiều. Nguyên nhân là do kinh phí hạn hẹp nên các DN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng phát triển & công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 1997 – 2007.doc
Tài liệu liên quan